Sáu mươi năm vang vọng lời kêu cứu trái đất
Sáu mươi
năm vang vọng
lời kêu cứu trái
đất
Hoàng Hưng
Thật tình cờ, giữa những ngày lòng người trên toàn thế giới quặn đau và hoang mang vì những đại họa không thể tưởng tượng giáng liên tiếp, ngày càng khốc liệt xuống khắp các châu lục, tôi nhận được đề nghị từ Thụy Điển, thông qua các bạn ở Trung tâm Đông Tây: chuyển tiếng Việt một “sử thi” (epic) hiện đại của tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Tóm tắt nội dung của tác phẩm được coi là một trong những “sử thi” lớn nhất của thời hiện đại, tác giả được coi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ: Một trong số những con tàu vũ trụ khổng lồ mang tên Aniara chở người tỵ nạn thoát khỏi Trái Đất đã nhiễm xạ nguyên tử nặng nề và có nguy cơ bị hủy diệt bởi những vũ khí quái lạ khác do trí tuệ con người tạo ra, bị lạc trong không gian, bị kết án lưu đầy vĩnh viễn cho đến khi được cái chết giải thoát.
Tôi nhận lời dịch Aniara thoạt là do tò mò muốn biết một thiên “sử thi” mà nội dung lại là “khoa học giả tưởng” sẽ ra sao? Và quả thật, những khúc ca đầu không làm tôi hứng khởi lắm khi vấp phải không ít thuật ngữ về vũ trụ và công nghệ mà tác giả chế ra (neologism) miêu tả con tàu không gian độc đáo gondolde và kể về chuyến phiêu lưu bất tận của nó ở “ngoại trường”. Thú thật nhiều lúc không khỏi nản lòng thấy mình chắc khó có khả năng chuyển chúng thành “thơ” đúng nghĩa. Nhưng rồi cảm hứng bừng lên khi óc tưởng tượng mạnh mẽ của tác giả chiếu lên một cuốn phim cảnh tượng không gian siêu thực ám ảnh ma quái cõi trống không trong suốt, lạnh giá, bất động trân trân nhìn ta suốt ngày này sang ngày khác, năm nọ tiếp năm kia. Thành tựu đáng kể nhất về giả tưởng công nghệ có lẽ là “nhân vật” Mima, trí tuệ nghe-nhìn nhân tạo có khả năng bắt sóng của sự sống từ mọi hành tinh xa để chiếu lại qua màn hình của phi thuyền, với sự trung thực “không thể mua chuộc”, lại có thể tự sáng tạo độc lập với cả người thiết kế, một phúng dụ về vai trò của văn nghệ trong thời đại khoa học lạnh lùng.
“Khoa học giả tưởng” dẫu sao cũng chỉ là cái vỏ của một “sử thi” – bài thơ chép sử, tức là chép chuyện một cộng đồng người. Harry Martinson không chậm trễ đưa ta, càng lúc càng sâu, càng lúc càng dồn dập, vào đời sống bên trong của cộng đồng thuyền nhân. Từ nhớ thương, hy vọng, hoài nghi, đến hoảng loạn, bế tắc, cuồng hoan, hận thù, tuyệt vọng; thất tình lục dục của 8000 con người tị nạn bộc lộ cực điểm trong hoàn cảnh lưu đầy vĩnh viễn khỏi quê hương, nhốt chung trong một cỗ quan tài thủy tinh thường trực đối mặt với hư không và cái chết.
Nhiều người than rằng Aniara sao buồn, sao tuyệt vọng (đúng nghĩa từ cổ Hy Lạp aνιαρός từ gốc mà nó được phái sinh và cộng hưởng điệp âm “a” như tiếng kêu dài của tác giả). Không buồn, không tuyệt vọng sao được khi Doris - Trái Đất quê hương nhiễm xạ nặng nề không còn chỗ cho sự sống dung thân, rồi nổ tung vì những thứ vũ khí hủy diệt của chính con người sau khi vừa thoát khỏi ngàn năm băng giá do tinh vân băng hàn từ vũ trụ trút xuống. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết.
“Ta được
chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá,
hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ
điều gì óc ta hình dung được
-
nhưng chẳng
được chở che khỏi chính loài
người.”
Harry Martinson viết một mạch 14 ngày 29 bài ca đầu tiên sau một đêm mùa thu tháng 8 năm 1953 ngắm qua kính thiên văn thiên hà Tiên Nữ, trong bối cảnh cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc hạt nhân lên cao trào với việc chế ra bom H. Những trang kinh hoàng nhất là cảnh tượng hủy diệt thành Dorisburg qua ký ức của đá – người mù và người điếc hóa đá, của Kẻ Bị Nổ. Những trang đau đớn nhất được viết nên khi Mima, con mắt trí tuệ nhân tạo, sự an ủi thần thánh của nghệ thuật, từ chối phản ánh sự thực khủng khiếp là cái chết tan tành của Trái Đất – Thung Doris vì trận “bão quang”, và tự phân rã. Nhà thơ khóc cho sự bất lực của cái đẹp không còn thể cứu chuộc thế giới. (Ông sẽ dành ba năm nghiên cứu về vũ trụ và công nghệ để viết tiếp 74 bài ca nữa, và Aniara ra đời với 103 bài ca).
Tác giả rất ý thức về lời cảnh báo vô hiệu của mình, ông hiểu mình đồng số phận với nữ tiên tri Cassandre: “Giống như nàng, tôi biết rằng mình cảnh báo bằng thừa. Người ta nghe Cassandre được một lúc, rồi quên béng lời bà.” (trích theo các tác giả bản dịch tiếng Pháp Ylva Lindberg & Samuel Autexier). Hai dịch giả này cho rằng Aniara “tự đăng ký vào hàng ngũ các dystopia” (ngược nghĩa với utopia, tạm dịch là xã hội không tưởng đen).
Lời cảnh báo vẫn còn nóng hổi đến hôm nay, khi Trái Đất biết đến nhiều nguy cơ gấp bội không chỉ từ chạy đua vũ trang mà còn, ghê gớm hơn, từ chạy đua bóc lột thiên nhiên vô độ.
Không chỉ tàn phá môi sinh ngoại cảnh, lối sống lầm lạc của con người hiện đại cũng tàn phá ngay tâm hồn của họ. Luận đề phê phán này được tác giả thể hiện qua những trang miêu tả sinh hoạt của cộng đồng thuyền nhân tị nạn ra không gian mà vẫn giữ nguyên những thói quen Trái Đất. Sự trống không của vũ trụ hóa ra không đáng sợ bằng sự trống rỗng nội tâm. Sự trống rỗng không thể đắp điếm bằng cách tự lừa dối với những tín điều như chiếc bàn thờ đã long sơn, với việc lao vào những lạc thú cuồng hoan, ngay cả bằng niềm tin vào khoa học thuần túy được chính tác giả gửi gắm thông qua nữ nhân vật Isagel mà ông không giấu lòng yêu mến.
Sự lầm lạc của con người hiện đại còn bị tác giả phê phán mạnh mẽ ở tổ chức xã hội méo mó mà nó tạo ra: chế độ chuyên chế, từ phát xít đến toàn trị, qua những hình tượng khu trừng giới, lò hơi ngạt, “phiếu đục lỗ” kiểm soát con người, Sếp Số Một mà ông định danh một cách sáng tạo là “kẻ tự thực” (autophage)… Một âm hưởng của Trại Súc vật, 1984 (Georges Orwell) bằng thơ…
“Họ bị
đập tan thành những tế bào của
một nhà nước
luôn yêu
sách họ như thói đã quen
dù đã
làm tan chảy cấu trúc tâm thần
đã được
họ giữ làm vật cống.”
Song, màu đen tuyệt vọng không trùm kín Aniara đến ngạt thở. Trong quá trình dịch, nhiều phen ngón tay tôi trên bàn phím cao hứng chạy như mê theo những dòng tràn đầy xúc cảm hướng thượng của tác giả. Những dòng về Nobby người con gái hiện thân của Phước Thiện, tác giả mượn lời một thủy thủ không gian nói rằng nếu không có nàng, thì “chẳng đáng sống làm gì cái cuộc đời tôi”. Những trang xuất thần về người ca sĩ mù đã được tôn làm nữ tư tế của Thần Ánh sáng:
“Trong
thế
giới này xuất hiện một nữ thi
nhân
với những
bài ca nâng chúng tôi hướng
thượng
vượt bản
thân, lên cõi tinh thần.
Đem lửa
thếp vàng vách nhà tù tăm tối
và đem
trời cao vào tận buồng tim
lời tro nguội
bỗng biến thành lửa cháy.”
Và đối lập với niềm tin mê muội vào tôn giáo, vào giáo điều của mọi thứ “lý tưởng” trừu tượng luôn có sản phẩm phụ là lòng thù hận, Martinson đề cao “niềm vui trần thế”:
“Tranh đấu
vì trời cao là tranh đấu cho niềm
vui:
Thiên đường
là mục tiêu của mọi trái tim
người.
Nhưng
ác nỗi những thế lực đầy
hắc ám
dẫn dắt
cuộc đấu tranh và tập họp dưới
cờ
lũ ích
kỷ đầy lòng căm giận
khiến đường
đi u tối bởi oán thù,
bởi trả
hận, bởi bạo hành khoái cảm.
Nhân loại
khó lòng cảm nhận về chân lý
như sự
thực hành niềm mê đắm tự
nhiên.”
Mê đắm tự nhiên trước hết là mê đắm thiên nhiên, một thiên nhiên chưa bị tàn phá, đủ sức “sắp xếp” nhu cầu cho con người. Ta gặp lại ở thiên sử thi “khoa học” những khúc ca tuyệt đẹp về thiên nhiên hoang dã, đặc biệt là thiên nhiên Bắc Âu, với bút pháp quen thuộc của một Martinson “nguyên sơ” (primitivist) nhưng tha thiết hơn nhiều trong bối cảnh giả tưởng là tất cả đã bị tiêu vong. Tôi không thể nhịn trích một đoạn thơ tuyệt vời của ông về cảnh thu trong tưởng tượng của cô gái mù:
“Thu
về
rồi. Người ta bảo những cây phong
bốc lửa.
Và đôi
người tôi nghe bước chân qua
khoe cảnh
chiều tà trong thung gần đấy.
Họ tả
cảnh chiều rực đỏ
với những
sọc dài màu tím hoàng hôn.
Và đối
diện là cánh rừng, họ nói,
rực lên
trên nền bóng đêm.
Họ cũng
bảo dưới tàng cây, bóng tối
trắng lên
vì giá đọng,
cỏ giống
như tóc mùa hè
bạc đi vì
tuổi tác.
Đây là
cảnh qua lời họ tả:
Một tấm
phông màu trắng giá sương
trên nền
vàng kim rực lên khi mùa hạ
trả hết
cho cái lạnh món nợ đời.
Và họ
nói về sự hào phóng của mùa
thu:
Tất cả
vàng kim rắc trên mồ mùa hạ.
Vẻ huy hoàng
trải trước mắt ta
giống một
lễ tang của đám digan đó:
Những giẻ
vụn màu vàng màu đỏ
và những
băng vải vàng kim từ xứ Ispahan.”
Mê đắm tự nhiên cũng là mê đắm sự vui sống trẻ trung, ở đây được hiện thân nơi cô nàng “Daisi róc rách, vô tư và hạnh phúc/ và tất cả con người nàng được tạo hóa sinh ra/ để hát ngợi ca quay cuồng điệu yurg.” Thiên sử thi về chuyến trường chinh lạnh giá nhiều lúc nóng lên những khúc tình ca say đắm, hoan lạc ngất ngây mà Bài ca của Dục Nương chỉ là một thí dụ:
“Hỡi
người kỵ sĩ từ hoang mạc Thiên
Cầm
cứ cưỡi
ngựa tới cửa em và gõ cửa.
Hãy để
sự sống của em nảy mầm với chủng
tử của anh,
sự sống
nhỏ xinh mà anh có thể tìm vào
được.
Trời chằm
chằm nhìn ta. Cái nhìn lạnh băng
ngoài cửa.
Hãy vào
đây, em sưởi ấm anh mà.
Giá anh cùng
em làm tan cái lạnh
- ý
nghĩ này nóng bỏng giữa không
gian.”
“Sự khôn ngoan của bánh mì mộc mạc”, minh triết mà nhân vật nam chính của Aniara xin được trở về một kiếp nào xa lắm để học lại, chính là điều tác giả gửi gắm để “phản biện” lối sống “hiện đại” quá dư thừa thông minh đến trở thành tàn phá. Triết lý giản dị ấy thật dễ hiểu với Harry Martinson (1904-1978), một con người ra đời trong cùng khổ, trưởng thành trong lam lũ. Nhà thơ tương lai sớm bị đưa vào trại trẻ mồ côi cùng với sáu anh chị em của mình, trở thành thủy thủ, công nhân, đủ nghề luân lạc, một Maxim Gorki của Bắc Âu, tự học và viết, để rồi trở thành Viện sĩ Hàn lâm của xứ sở đương cai giải Nobel. Minh triết quá giản dị mà những siêu trí tuệ hiện đại không biết hoặc quên mất từ lâu.
“Chúng
ta vốn người Địa cầu, Doris,
hòn ngọc
sáng ngời trong hệ thái dương,
quả cầu
độc nhất dành mảnh đất lành
đầy sữa,
mật dâng cho Sự sống.
Hãy miêu
tả tạo vật xinh tươi
đã may
áo liệm cho nòi giống
cho đến
khi Chúa Trời và Quỉ vương tay
nắm tay
khắp xứ
sở tan hoang, nhiễm độc,
chạy lên
núi và nhào xuống vực
để trốn
khỏi loài người – vua của tro
than.”
Lời cảnh báo của Harry Martinson không thừa. Hành tinh của chúng ta vẫn chưa bị khai tử chính là nhờ những hồi chuông báo động liên tục, kế tiếp nhau không mệt mỏi như thế. Nhưng những “kẻ tự thực” tham lam và đầy quyền lực không biết rằng ăn thiên nhiên, ăn đồng loại là ăn chính mình, vẫn đầy nhóc khắp nơi để sẵn sàng hủy diệt Trái Đất. Bộ Văn hóa Thụy Điển chọn Aniara để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hôm nay chắc không hề ngẫu nhiên. Cuộc chiến cuối cùng của cả nhân loại chính là cuộc chiến để cứu lấy ngôi nhà chung hành tinh đang lâm nguy này.
Hoàng Hưng
Nguồn : Bài cũng được gửi đăng trên Lao Động số Xuân 2012 (báo giấy). Đây là bản tác giả gửi cho Diễn Đàn, kèm với ba bài ca số 10, 42 và 49 trong tập thơ, dưới đây.
Aniara10.
Không gian cằn cỗi
rỗng không kích động nỗi hãi hùng.
42. Bài hát của Dục Nương trước gương
Sự sống của em đã
thành trớ trêu.
Thì Dục Nương sẽ
được mọi người ngưỡng mộ,
49. Người đàn bà mù
Con đường dài tôi đi
từ xứ Rind *Những năm tiếp theo làm thành số phận. *Tranh đấu vì trời cao là tranh đấu cho niềm
vui: *Những thành tố mềm sẽ mau thối rữa.
1 Dead water: thuật ngữ hàng hải chỉ môi trường nước trong đó tàu thuyền rất khó di chuyển, khi một lớp nước ngọt hoặc nước lợ nằm trên lớp nước rất mặn mà không hòa tan vào nó. 2 Một tỉnh của Iran, thủ phủ là thành phố cùng tên, lớn thứ hai của nước này, nổi tiếng với những kiến trúc Hồi giáo trung đại. |
Các thao tác trên Tài liệu