Hai bài kệ
Đọc Thiền sư Không Lộ (? - 1119)
Hai
Bài
Kệ
Phạm Thảo Nguyên
Thiền sư Không Lộ họ Dương, không rõ tên thực là gì quê ở làng Hải Thanh, Nam Định. Ông cha chuyên nghề chài lưới, đến đời sư mới bỏ nghề ấy đi tu đạo Phật. Theo truyền thuyết ngài giỏi pháp thuật, và có biệt tài về xây dựng. Các tác phẩm của sư để lại cho chúng ta là những chùa chiền xây cất tráng lệ kỳ vĩ, đánh dấu sự thành tựu về nghệ thuật kiến trúc đời Lý. Ta có thể kể những chùa cổ đẹp nhất nước, do sư xây dựng toàn bằng gỗ không một cái đinh, cả nghìn năm nay vẫn còn làm chúng ta ngưỡng mộ như:
Chùa Cổ Lễ cao ngất hoành tráng tại Nam Định và chùa Nghiêm Quang, sau đổi ra là Thần Quang, hay chùa Keo, tại Giao Thuỷ, Nam Định. Chùa Keo đã bị bão tàn phá năm 1611. Vào thế kỷ thứ 17 dân làng Keo di dân tới hai bờ sông Hồng, xây lên hai chùa, một với gác chuông đẹp lạ lùng ở làng Nghĩa Dũng, Vũ Thư, Thái Bình (tả ngạn sông), và một phó bản rất xinh xắn ở làng Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định (hữu ngạn). Hai chùa cùng được gọi là chùa Keo, được xây dựng theo cùng mẫu chùa chính gốc tại Giao Thuỷ.
Sư mất năm 1119, để lại cho chúng ta hai bài kệ bằng chữ Hán là Ngôn Hoài và Ngư Nhàn. Bài thứ nhất có rất nhiều bản dịch của nhiều vị túc nho từ xưa tới nay. Tôi thích nhất bản của thiền sư Nhất Hạnh, với lời bình: “Một thi hứng rất siêu thoát, ít thấy trong thi ca”. Tôi xin chép lại dưới đây bài kệ và bài thơ dịch Ngôn Hoài:
言 懷
Trạch
đắc long xà địa khả cư
Dã
tình chung nhật lạc vô dư
Hữu
thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường
khiếu nhất thanh hàn thái hư
Bản
dịch của thiền sư Nhất Hạnh
Ký
tên Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo
Sử
Luận, Saigon, nxb Lá Bối 1973.
Chọn
nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui
thú tình quê quen sớm trưa
Có
lúc trèo lên đầu chóp núi
Kêu
dài một tiếng lạnh hư vô.
Hoà thượng Thích Thanh Từ trong cuốn Thiền Sư Việt Nam giảng giải như sau: Câu chót nói lên cái phi thường của người đạt đạo ở núi rừng. Kêu dài một tiếng mà lạnh cả bầu trời. Ý ngài nói chỗ núi rừng vắng vẻ rất thích hợp với người tu, khi lên chóp núi tĩnh tu, đạo lực đầy đủ rồi thì làm kinh động cả trời đất, hay nói cách khác là cảm ứng cả trời đất
*
Bài kệ thứ hai Ngư Nhàn, không may mắn như bài trước, được rất ít người dịch, và bản dịch thường không nói lên được ý thiền ẩn trong đó. Có lẽ một phần vì bài chữ Hán quá cô đọng, nhiều chữ Việt Hán, dễ hiểu, dễ dịch. Nhưng đọc bài dịch xong, người đọc không thấy sâu hơn những dòng chữ đó. Vì thực sự, đây là một bài thơ viết theo “nghệ thuật sắp đặt”(!). Những nhóm chữ đặt bên cạnh nhau, không một chữ giải thích sự liên hệ. Người đọc ai cũng có thể hiểu theo ý riêng của mình.
Dưới đây chúng tôi mạo muội đưa ra một vài ý nghĩ về bài thơ và một bài dịch mới:
Ngư Nhàn: 漁 閒
Vạn
lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất
thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư
ông thuỳ trước vô nhân hoán
Quá
ngọ, tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Dịch nghĩa:
Ông chài nhàn
Vạn
dậm sông trong, vạn
dậm trời
Một làng dâu gai một
làng khói
Ông chài mê ngủ,
không có ai gọi ồn ào
Qua giờ
ngọ, (qua buổi trưa), tỉnh dậy, tuyết
đầy cả thuyền.
Trước hết, để tìm hiểu ý bài thơ này, ta hãy đọc mấy câu thơ sau của vua Trần Thái Tông, một thiền gia rất thâm sâu thuộc thế kỷ thứ 13, sau thiền sư Không Lộ gần hai thế kỷ, và bài giảng của Thiền sư Nhất Hạnh:
Thiên
giang hữu thuỷ thiên giang nguyệt
Vạn
lý vô vân vạn lý thiên
(Sông
nào có nước, có trăng soi
Dậm
trời nào mây vắng, dậm trời ấy
xanh (màu da trời))
Áp dụng “công thức” này vào bài thơ Ngôn Hoài, nghĩa câu đầu là:
Bất cứ sông nào có nước trong thì có bóng trời mây in vào đó.
Đó chính là một chiêm nghiệm của câu “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu” (Mặt đất của tâm nếu không bị ngăn che, thì mặt trời trí tuệ tự nhiên soi đến ), của tổ Bách Trượng, rất nổi tiếng trong thiền môn..Thiền sư Vô Ngôn Thông đạt đạo nơi câu này.
Từ đây ta có thể tạm dịch nghĩa bài Ngư Nhàn:
Câu 1 : Sông trong, dài vạn dậm, có hình bóng vạn dậm trời in xuống.
Câu 2 : (Trái lại) Làng trồng dâu, trồng gai thì khói lan mờ che phủ hết cả làng.
Câu 3 : Làng quê im vắng, không tiếng người gọi, ông chài ngủ yên. (có vẻ như ông chài đã đổi sang nghề lái đò giúp người qua sông), “không người gọi” nghĩa là không có khách gọi đò.
Câu 4: Quá trưa, ông chợt tỉnh dậy, ngỡ ngàng thấy nắng chiếu chói loà như tuyết đầy thuyền.
Vậy rõ là không thể dùng bẩy chữ để dịch, để diễn giải đủ nghĩa cúa mỗi câu của bài kệ này, cho nên, tôi… chạy sang lục bát!!
Ông Chài Nhàn
Sông
trong, vạn dậm sông trong
In nguyên vạn
dậm trời lồng nước mây
Ruộng
dâu, gai mọc xóm này
Mịt mù
một xóm tràn đầy khói lam
Vắng
im không tiếng người vang
Ông chài
say giấc ngủ an lặng tờ
Ngọ qua,
chợt tỉnh giấc trưa
Ơ kìa!
trắng xoá tuyết mơ đầy thuyền.
Ông chài này là thiền sư, trước kia là ông chài sau đã đi tu, ông không đi câu cá nữa mà đang nằm ngủ (chờ khách gọi đò). Tâm ông thanh tịnh như sông trong, làm gì ông không thấy được “tuệ nhật tự chiếu” như tuyết trắng đầy thuyền?
PTN
Các thao tác trên Tài liệu