Trịnh Công Sơn và nhạc "phản chiến"
TRỊNH
CÔNG SƠN
và nhạc “ phản chiến ”
Nguyễn Trọng Văn
Khi
Mỹ đổ
bộ xuống miền Nam tàn phá xóm
làng, gây đau
thương hận thù cho người Việt
thì các phong trào chống chiến tranh
của Mỹ bùng lên, lúc đầu
chủ yếu do các lực lượng thanh
niên, sinh viên, học sinh tại các đô
thị. Không nhớ rõ chữ phản chiến
ra đời
vào thời điểm
nào chỉ biết nó dùng để
chỉ sự oán ghét cuộc chiến do
Mỹ gây ra đối
với nhân dân Việt Nam. Tên tuổi
Trịnh Công Sơn gắn liền với nhạc
phản chiến, có thể nói không có
Trịnh Công Sơn nếu không có nhạc
phản chiến, không có nhạc phản
chiến nếu không có Trịnh Công
Sơn.
Trong bài này tôi tìm hiểu nội dung của hai chữ phản chiến và hậu quả dai dẳng được lưu lại cho đến ngày nay. Tương tự như những bài viết khác, phương châm của tôi là viết thẳng viết thật. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phê bình.
I. NỘI DUNG PHONG PHÚ VÀ CỤ THỂ
A. Phản chiến là gì ?
Có
thể hiểu phản chiến theo nhiều nghĩa
khác nhau : a) Chống chiến tranh, b) Chống
chiến tranh tại Việt Nam, c) Chống chiến
tranh do Mỹ gây ra tại Việt Nam , d) Chống
chiến tranh do Mỹ gây ra tại Việt Nam
và những hậu quả của nó, e)
..v..v..
Nghĩa
(a) và (b) đúng
nhưng có tính chung chung, nghĩa (c) có
thể chấp nhận vì cho biết đó
là cuộc chiến do Mỹ gây ra, chi tiết
này thường bị bỏ qua nhưng đó
lại chính là nguồn gốc của
nhiều hiểu lầm, thậm chí xuyên
tạc sau này, nghĩa (d) áp dụng cho
thời hậu-phản-chiến và những
hậu quả của cuộc chiến (chất độc
da cam, hội chứng tâm lý hậu chiến
tranh Việt Nam đối
với lính Mỹ...). Trong bài này chúng
ta hiểu phản chiến theo nghĩa (c).
B. Suy nghĩ về phản chiến
Các
nhà báo có lối viết ngắn gọn,
dễ tham chiếu, cập nhật gọi là RSS (Really
Simple Syndycation); trong
bài này,
tôi cũng xin quy về 3 luận điểm
như sau :
(1)
“Chúng ta” là những con bài
do các thế lực quốc tế giật dây
?
Cộng
sản hay không Cộng sản, trong nước
hay hải ngoại, chúng ta cũng
thường nói như vậy đượm
chút bi quan, chán ngán. Điều
này có
thực tuy nhiên
, như đã
nói ở trên, cần nói thẳng nói
thật, những gì quanh co, mù mờ nên
xem lai, nếu có thể.
Tôi
rất ngại nói về chính trị vì
đó
không là sở trường của mình,
về vấn đề
này, theo tôi
:
a)
Người ta thường phân biệt chiến
tranh xâm lược
và chiến tranh giải
phóng, chiến
tranh xâm lược bị thế giới kết
ánn(chiến tranh của Mỹ tại Việt
Nam trước kia, tại Iraq hiện nay...) còn
chiến tranh giải phóng được
mọi người ca ngợi, ủng hộ. Cách
gọi tên như
vậy có một điểm
cần chú ý : xâm lược là
đối với
Mỹ, còn giải
phóng là đối
với nhân dân Việt Nam, cùng
một sự kiện (chiến tranh) nhưng được
đánh
giá theo hai lập trường/quan điểm
khác nhau.
b)
Ai
là những
con bài do ngoại bang
giật dây
? Chúng
ta có thói quen đùn
đẩy
cái xấu cho người khác ; quốc
gia đẩy
cho cộng sản, cộng sản đùn
cho quốc gia ; hải ngoại than phiền trong
nước, trong nước trách hải ngoại, cuối cùng rối tinh rối mù lên
đen
trắng lẫn lộn, khó phân biệt
hoặc không cần phân biệt/không
phân biệt nổi,
đành
xí xoá, huề cả làng, ai cũng
cảm thấy bị liên hệ, bị lợi
dụng. Sự
thực không phải như vậy.
Muốn phê phán, đánh
giá phải cần những chuẩn
mực được
hai bên công
nhận ; nếu không
, ít nhất cần
có những sự
thực khách quan (bút tích, hình
ảnh, chứng cớ, nhân chứng, vật
chứng...) khiến không công nhận cũng
không được. Những hình
ảnh thảm hại của đám
tàn quân viễn chinh Pháp năm
1954, những hình ảnh tháo chạy kinh
hoàng và nhục nhã của Mỹ trên
nóc Toà Đại
sứ năm
1975, anh còn nhớ hay anh đã
quên ?
c)
Những hình ảnh các lãnh tụ cách mạng tiểu tư sản, các
chính khách quốc gia bôn ba hải
ngoại, các nhà bất đồng
chính kiến luôn nhờ/xin Mỹ cho Việt
Nam một bài
học, có làm anh suy nghĩ không ?
À, suýt thì quên, một số
người ăn
theo muốn đục
nước béo cò, họ có phải
những con bài “bị/được”
ngoại bang giật
dây không ?
(2)
“Nội chiến”, chẳng có kẻ
thắng người thua...?
Danh
từ nội
chiến cũng
được
nhiều người sử dụng trong đó
có Trịnh Công Sơn, mỗi người
đem
lại cho nội chiến một ý nghĩa
khác nhau. Tôi đã
suy nghĩ nhiều về chữ nội chiến
của Trịnh Công Sơn nhưng cho tới
giờ phút này ý nghĩa thực sự
của từ đó
hình như vẫn chợp chờn bên ngoài
tầm nhận thức của tôi. Ít ra vì
ba lý do :
a)
Trịnh Công Sơn biết rõ ai thắng
ai thua nhưng anh vẫn dùng từ nội
chiến như
một nhắn nhủ tuyệt vọng, một
thách thức bi tráng. Không ý thức
sao lại có những câu hát như Ba
mươi năm
nhọc nhằn đã
qua, hôm nay thấy mặt trời bừng
sáng... cùng hát xông đất
mới cho trời cao vui với lòng người
... ?
b)
Trong lối diễn đạt mơ
hồ mà chính xác được
người hâm mộ coi như
trên cả tuyệt vời nhưng không biết
tại sao
và như thế
nào, người
ta thích thú với sự “u mê”,
“mù loà” (chữ của Trịnh
Công Sơn ) rất sáng suốt đó.
Có người nói Trịnh Công Sơn
là một phù thuỷ của âm
thanh, có người
coi anh là của chữ
nghĩa, điều
đó
có thể đúng,
có người lại coi anh chính là
của mầu sắc
(anh là một hoạ sĩ tài ba)
điều
này cũng đúng.
Theo tôi Trịnh Công Sơn không phải
là phù thuỷ, anh là nhạc sĩ
nổi tiếng của dân tộc, can đảm,
trung thực, dám sống đời
mình và thời đại
mình.
c)
Quan niệm của Trịnh Công Sơn về
một cõi đi
về. Đó
là một
cách nói
đầy
văn
ảnh, khêu gợi sự nghiền ngẫm, suy
tưởng. Anh theo ban Triết, đọc
rất kỹ triết học, văn
học hiện sinh của J.P.Sartre, A. Camus..., anh cũng
thường khuyên nhủ cần một chút
vốn liếng triết học. Trong khi diễn
đạt
tình yêu, sự sống, cái chết... anh
có lối nói/viết nửa
chừng,
để
người ta đoán
tiếp phần còn lại. Thường thì
mỗi người đoán
tiếp và khám phá ra ý nghĩa
mới mẻ một cách khác nhau, điều
lạ lùng là tất cả như hội
tụ lại một điểm
: thân phận nhược tiểu, da vàng,
tàn phá của chiến tranh. Người
con gái da vàng yêu quê hương như
yêu đồng
lúa chín đã
chết nhưng
tại sao Trịnh Công Sơn vẫn âu
lo đi
tìm ? Như
vậy âu lo
đi
tìm phải
hiểu theo một nghĩa khác. Trong nhiều
bài, chữ nghĩa hàm hồ cố ý
chẳng hạn, không
có cái
chết đầu
tiên, không có cái chết sau
cùng
câu này cũng rất lạ. Triết lý
Công giáo, Phật giáo hay một thứ
nào khác, thực ra chỉ có Trịnh
Công Sơn trả lời được. Trước kia,
chúng ta âu lo đi
tìm người con gái da vàng đã
chết vì bom đạn
chiến tranh, ngày nay chúng ta đi
tìm người nhạc sĩ hát rong của
một thời đạn
bom, một thời hoà bình.
(3)
Có nhiều thứ chiến tranh, nội chiến,
phản chiến... anh nói thứ nào ?
a) Có một số chữ đang
trở thành thời thượng như hội
nhập, toàn cầu hoá...,
trước đó
chữ hoà
hợp hoà
giải cũng
là một chữ đẹp
thường được
nhắc tới. Tôi còn
nhớ trên một tạp chí hải ngoại
nổi tiếng người ta bàn luận sôi
nổi hoà hợp, hoà tan, hoà đồng,
làm sao hoà hợp mà không hoà
tan v.v... Giờ thấy toàn chuyện tư
biện, thực tế là muốn
hoặc không
muốn hoà
hợp hoà giải cũng không được,
vấn đề không đơn
giản. Anh muốn hoà hợp hoà giải
nhưng có những thế lực không muốn, cũng vậy, anh không muốn hoà hợp
hoà giải nhưng có những thế lực
cương quyết muốn. Vấn
đề là
tương quan so sánh chứ không phải
muốn hay không muốn. Nếu
muốn
hay không muốn
trở thành sự thật ngay thì cần
gì có cuộc đời !
b)
Trong số từ có vẻ thời thượng
nhưng thực ra không thời thượng, đó
là các từ nội
chiến, phản
chiến. Cứ
tới tháng tư mỗi năm,
người ta nhắc tới Trịnh Công Sơn
và các từ phản chiến, nội
chiến, ở trong nước và hải ngoại,
để
ca ngợi hoặc phê bình. Người ta dễ dàng nhận ra những từ đó
có ý nghĩa khác nhau tuỳ quan điểm :
Có những ngóc ngách, những đường
hẻm, những khu ổ chuột không đèn
chứ không phải toàn xa lộ, đại
lộ, bin-đinh,
nhà máy. Rất đồng
ý. Vấn đề
là ai
đứng
ra hoà giải ? Ai là chủ,
ai là khách trên
đất nước này
? Nước nào có chủ quyền, có
luật pháp nước đó
không nên lêu bêu, chạy vòng
ngoài hoặc “ngồi nhầm lớp”.
c)
Thành ra, theo một nghĩa nào đó,
cần phân biệt nhiều thứ chiến
tranh, nội chiến, phản chiến; nhiều thứ
hoà hợp hoà giải v.v... Trước
mắt có thể tạm chia ra hoà hợp
hoà giải thực
tế và lý
thuyết. Có
một cuộc chiến thực
sự đã
qua đi
và để
lại nhiều hậu quả tang thương, mọi
người đang
cố gắng hàn gắn bằng những hành
động cụ
thể. Đó
là một mặt của vấn đề. Mặt khác, đây
là điều
đáng
lưu ý, cũng cuộc chiến, cũng hậu
quả, cũng việc làm cụ thể nhưng
với ý hướng khác nhau. Nói cách
khác, có những người muốn lợi
dụng cuộc chiến hơn là cùng nhau
hàn gắn vết thương chiến tranh,
chỉ có hoà hợp hoà giải trên
lý thuyết. Trên thực tế việc bôi đen,
phá rối không phải quá hiếm
hoi. Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn
vẫn còn cuộc chiến “u mê”,
“mù loà” trong
lòng một
số người, trong nước cũng như
hải ngoại.
II. TẠM KẾT
Thật
là thiếu sót nếu nói tới Trịnh
Công Sơn chỉ với mấy trang giấy,
để
tạm kết về anh tôi xin nêu hai ý,
một về bản thân Trịnh Công Sơn, một về thời đại
mà anh sống.
a)
Trước nhất, anh có nói một ý
mà giờ này tôi vẫn còn suy
nghĩ : cần một chút vốn liếng
triết học. Những từ mà người
ta thường dùng để ca ngợi hoặc chống phá anh (phù
thuỷ của âm thanh, chữ nghĩa, mầu
sắc, nhạc sĩ tài hoa, hát rong, sống
trọn vẹn cuộc đời
và thời đại v.v...) hình như bắt nguồn từ chút
vốn liếng triết học mà anh có
được từ
hồi còn học
ở trường Providence, Huế.
b)
Thứ hai, vốn liếng đó
được nâng cấp nhờ
những kinh nghiệm, suy ngẫm bản thân từ
cuộc đời,
về
cuộc đời,
nói cách khác, về cuộc chiến,
về thân phận, về một cõi đi
về của con người Việt Nam. Trịnh
Công Sơn đọc
và nghiền ngẫm triết học, nhất
là văn
học hiện sinh của Sartre, Camus... Triết học
hiện sinh có hai khuôn mặt. Những điều
mà triết học hiện sinh đề
cao như sống thực đời
mình và thời đại
mình, tự do và trách nhiệm, trước
đứa
trẻ sắp chết đói
cuốn La
nausée là con số không...
chúng ta cũng tìm thấy nơi Trịnh
Công Sơn.
Đôi
lúc tôi tự hỏi giữa Sartre, triết
học hiện sinh và Trịnh Công Sơn,
ca khúc da vàng, trong hoàn cảnh Việt
Nam nên chọn ai ? Dĩ nhiên tôi chọn
Trịnh Công Sơn.
Nguyễn Trọng Văn
Các thao tác trên Tài liệu