Max Planck, kỷ niệm sinh nhật 150 năm
MAX
PLANCK
(1858-1947)
KỶ
NIỆM
SINH NHẬT
150 NĂM
Nguyễn Xuân Xanh
Lời nói đầu
Ngày 23.4 là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 150 năm của nhà vật lý học vĩ đại Max Planck. Đây là một sự kiện có ý nghĩa thế giới. Khám phá lượng tử của ông năm 1900 đã làm đảo lộn nhận thức của con người về vũ trụ vi mô chưa từng có, và tác động không ngừng vào sự thay đổi bộ mặt của xã hội đến nay, và cho tương lai. Vật lý học hiện đại tựa trên hai cột trụ kiên cố là thuyết lượng tử và thuyết tương đối của Max Planck và Albert Einstein. Hai chữ ‘lượng tử’ ngày nay đồng nghĩa với “high-tech”.
Max Planck là con người của lương tâm, đạo đức, trách nhiệm trước xã hội, đất nước và sự phát triển khoa học. Max-Planck-Gesellschaft, tổ chức nghiên cứu và khuếch trương khoa học có lẽ lớn nhất thế giới, cũng là một trong những nơi quan trọng sản sinh ra những người được giải Nobel, có lý do chính đáng để mang tên ông như một sự tự hào. Ông được giải Nobel vật lý năm 1919. Huy chương mang tên Max Planck là phần thưởng cao quý nhất cho vật lý học được ra đời năm 1929. Vinh quang không thiếu đối với ông. Nhưng có lẽ ít người biết đến cuộc đời rơi nước mắt mà định mệnh đã dành riêng cho ông, vô cùng nghiệt ngã.
Những tiến bộ
công nghiệp và khoa học, và sự
phồn vinh xã hội mà ngày nay mọi
người trong chúng ta được thừa
hưởng, phần rất lớn có nguồn
gốc từ thuyết lượng tử, và
những ứng dụng của nó trong thế
kỷ 21 được chờ đợi càng
mạnh mẽ hơn, vũ bão hơn. Chúng
ta không thể không biết ơn nhà
bác học vĩ đại này, và
dành vài giây phút để chia sẻ
với cuộc đời bi thảm của ông
vào ngày sinh thứ 150 năm của ông.
|
“Tôi chào định mệnh đã cho tôi một nền giáo dục nhân văn. Các nhà cổ điển Hy Lạp và La Mã sẽ không bao giờ biến mất khỏi trí nhớ tôi. Tôi tin chắc rằng, trong thời đại hiện tại, chủ yếu được định hướng theo những lợi ích bề ngoài, thì trường trung học nhân văn lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Vì cần phải cho tuổi trẻ biết rằng còn một loại ‘thưởng thức’ khác hơn là loại thưởng thức chỉ dựa trên lãnh vực vật chất hay tiết kiệm thì giờ và tiền bạc.” MAX PLANCK |
Giá
trị của khám phá
Trong sự
phát triển của vật lý học có
những khám phá vượt ra khỏi lãnh
vực khoa học và trở thành nhân
tố quyết định cho định mệnh
của nhân loại. Không phải chỉ vì
đó là sự khám phá ra những
hiện tượng tự nhiên hay những lực
mới để ứng dụng vào kỹ
thuật làm tăng lên sức mạnh của
con người đối với thiên nhiên,
đem lại sự phồn vinh cho nhân loại,
mà còn vì tính chất cách
mạng bao trùm về ý tưởng trong
cách diễn giải thế giới tự
nhiên, tính chất triết học chứa
đựng trong đó liên quan đến
thế giới quan của con người. Lý
thuyết cơ học Newton là một thí
dụ điển hình như thế. Không
những nó đem lại cách tư duy và
phương pháp làm việc cho khoa học,
giải thích được những hiện
tượng tự nhiên trong trời đất
bằng toán học một cách chính
xác, nó còn châm ngòi cho phong
trào khai sáng ở châu Âu thế kỷ
18. Trong thế kỷ 20, thuyết lượng tử
của Max Planck là một thí dụ cho một
cuộc cách mạng của tư duy vật lý
như thế.
Vật lý cuối thế kỷ 19
Cuối thế
kỷ 19 lối suy nghĩ của giai cấp tư
sản cũng như của giới khoa học ở
châu Âu là bảo thủ. Sau một thời
gian xây dựng vũ bão ở thế kỷ
19 người ta tin vào sự trường tồn
của hiện trạng. Cả trật tự nhà
nước lẫn khoa học được xem như
bền vững. Vật lý học được
xem như tựa lên hai cột trụ bền
vững không gì lay chuyển nổi, và
hoàn hảo nhất: cơ học của
Galilei-Newton và thuyết điện từ trường
của Maxwell được phát triển từ
những quan niệm thực nghiệm về trường
của Faraday. Tuy mười năm cuối của
thế kỷ 19 giới khoa học chứng kiến
một loạt hiện tượng mới chưa
giải thích được, như tia Röntgen,
hiện tượng phóng xạ, sự kiện
không tìm thấy chuyển động của
trái đất đối với ether, tính
chất kỳ lạ của bức xạ (tia
ca-tốt), nhưng người ta tin rằng sẽ
giải quyết được những “lỗ
hổng” đó bằng các lý
thuyết hiện hành. Không ai nghĩ rằng
tòa nhà khoa học đang rạn nứt,
và con người đang đứng trước
một cổng trời khám phá mênh
mông.
Thế giới quan của Planck đã hình thành trong không khí tư duy bảo thủ đó mà sau này ông đã phải chiến đấu nội tâm dữ dội và một nỗ lực lớn lao để vượt qua chính mình và xét lại những “tín điều” đã có. Những kinh nghiệm đau đớn đã dạy ông, rằng không có tòa nhà khoa học lẫn tòa nhà nhà nước hiện hữu nào được phép xem như bất khả xâm phạm.
Nhưng chính
con người mang quan niệm bảo thủ này
lại làm một cuộc cách mạng vĩ
đại - một cách miễn cưỡng-
có hệ quả không kém so với
Copernice hay Newton.
‘Một cái đầu lôgích và sáng sủa’
Bút
tích của Planck:
thư gửi Heinrich
Hertz.
(Nguồn: Vorträge, Reden und Erinnerungen)
Max Planck sinh ngày 23.4.1858 tại
Kiel (Bắc
Đức), học vật lý ở München
và Berlin. Gia đình ông là những
người có tiếng tăm, đáng tin
cậy, thẳng thắn, trung thực, lý tưởng
và thanh lịch. Họ là những người
phục vụ nhà nước và nhà
thờ. Ông có niềm tin rằng các
định luật tự nhiên tồn tại
độc lập với con người, đơn
giản và có thể lý giải được
bằng tư duy. Ông là một học trò
thuộc loại gương mẫu, “một
người được các thầy và
đồng bạn yêu mến, và với
tất cả sự thơ ngây, là một
cái đầu rất lôgích và
sáng sủa. Hứa hẹn cái gì đó
xứng đáng”
như được ghi trong chứng chỉ của
trường. Max Planck rất có khiếu về
âm nhạc, đến nỗi trước khi
vào đại học, ông phân vân
không biết mình nên học nhạc hay
vật lý. Ông cũng là người
thích leo núi một cách đam mê.
Một
ngày leo núi làm cho tâm hồn ông
vui sướng như một symphony của Brahms.
Ngay từ nhỏ ông
đã chứng kiến những cảm giác
quốc gia, lòng yêu nước sôi sục
biểu lộ ý chí cao độ về
một sự thống nhất quốc gia của tổ
quốc và có ấn tượng sâu
đậm trước những sự kiện lịch
sử. Năm 13 tuổi ông chứng kiến
cuộc chiến tranh Pháp-Đức 1870/71 và
được tin người anh mất tại
trận Orléan, chứng kiến sự thành
lập của vương quốc Đức mới.
Ông cùng đồng cảm với những
anh hùng đã biểu lộ tình yêu
tổ quốc bằng chính máu thịt
mình.
Max
Planck
thời sinh viên
tại Berlin,
1878.
Ông xong trung học lúc 16 tuổi, tốt
nghiệp tiến sĩ năm 1879 tại München
lúc 21 tuổi (năm Einstein mới ra đời),
khá trẻ, và là Privatdozent (giáo
sư chưa có ghế) tại đây từ
1880-85, sau đó là giáo sư ngoại
ngạch ngành vật lý lý thuyết
tại Kiel, và từ 1889 là người kế
tục chiếc ghế giáo sư của người
thầy khả kính của mình là
Kirchhoff tại Berlin. Ông nghiên cứu những
vấn đề của nhiệt động học,
đặc biệt khái niệm mới là
entrôpi mà nhà vật lý lớn
Boltzmann ở Wien diễn giải như một độ
đo của xác suất, để rồi sau
này có dịp áp dụng cho khám
vĩ đại của ông về năng lượng
bức xạ [Entrôpi của một sự kiện
(A) là S = k.lnW,
trong đó ln là logarithm, W
là xác suất của (A) và
k là hằng số
Boltzmann]. Ông là con người tự học
và tự lập là chính:“Tôi
không được ban hạnh phúc có
quan hệ cá nhân với một nhà
nghiên cứu hay thầy nổi tiếng để
ảnh hưởng lên hướng phát
triển sâu của quá trình giáo
dục tôi. Những điều tôi học
được đều bắt nguồn từ
việc nghiên cứu các bài viết
của các bậc thầy, trong số đó
đặc biệt tôi phải kể đến
các tên tuổi Hermann von Helmholtz, Rudolf
Clausius, Gustav Kirchhoff trong sự ngưỡng mộ
và biết ơn.”
Đi tìm cái tuyệt đối
Mô tả thí nghiệm. Phòng rỗng được đun nóng lên bên trong một lớp cách nhiệt. Ánh sáng phát xạ đi qua lăng kính quang phổ, và một máy cường độ được đặt chỗ tiếp nhận.
(Nguồn: E.P.Fischer)
Ông là người đi tìm cái
vĩnh cửu, tuyệt đối. “Tôi
chỉ tiếp xúc với vật lý học
lần đầu tiên qua thầy dạy toán
của tôi, Hermann Müller, một người
trạc tuổi trung niên, suy nghĩ rất sắc
sảo và hài hước. Ông ấy
hiểu cách mô tả những định
luật vật lý mà ông dạy bọn
học trò chúng tôi bằng những
thí dụ rất đặc trưng. Cho nên
bằng cách đó tôi đón nhận
định luật bảo toàn năng lượng
như định luật đầu tiên trong
đời có hiệu lực độc lập
với con người như một ‘tin lành’
trong tôi”. Trong “Tự
thuật khoa học” (Wissenschaftliche Selbtbiographie)
ông nói: “Ngay từ
đầu của sự trình bày về
cuộc đời tôi, tôi đã nhấn
mạnh, rằng sự tìm kiếm cái
tuyệt đối là nhiệm vụ khoa học
đẹp nhất đối với tôi”.
Bài toán bức xạ nhiệt đang gây
quan tâm trong giới vật lý cung cấp
một cái tuyệt đối như thế:
Những nghiên cứu của Kirchhoff đã
chứng minh rằng, bức xạ trong một phòng
rỗng có các bức tường bao bọc
được đun nóng lên ở một
nhiệt độ nhất định có tính
chất tuyệt đối: nó hoàn toàn
độc lập với tính chất của
vật liệu của các bức tường,
và là một hàm số phổ quát
của nhiệt độ của các bức
tường và của tần số của các
sóng thành phần của bức xạ (màu
của ánh sáng). Sự lệ thuộc
nhiệt độ thể hiện ở chỗ, ở
nhiệt độ 550oC
màu của bức xạ phát ra từ vật
đen là đỏ sẫm, ở nhiệt độ
750oC,
màu đỏ tươi, ở 900oC
màu cam, ở 1000oC
màu vàng, ở 1200oC
và trên đó màu trắng, như
chúng ta có thể quan sát ở một
thanh sắt được nung lên. Trên quang
phổ, Wilhelm Wien đã chứng minh rằng
các màu của bức xạ chuyển dịch
từ đỏ sang tím, nghĩa là sang
vùng các tần số cao hơn, nhưng
chưa tìm thấy cơ sở lý thuyết
nào để giải thích chính xác
định luật bức xạ đó. Từ
1896 trở đi Planck tập trung toàn bộ
sức lực để giải quyết bài
toán này, nhất là khi Wien lần đầu
tiên ứng dụng khái niệm entrôpi
ở đây, điều làm cho bài
toán càng thêm hấp dẫn, và
Planck “chỉ nghĩ
rằng tôi phải đạt được
một kết quả tích cực, trong mọi
hoàn cảnh, dù tốn gì cũng
được”. Ông
xem bức xạ năng lượng là vùng
‘đất hứa’ trong nghiên cứu.
Ông đã thể hiện ở đây
tất cả tính cách của mình:
không những một ý chí không lay
chuyển, siêng năng không mệt mỏi
và một sự kết hợp đáng
ngạc nhiên giữa sự thận trọng và
lòng kiên nhẫn với một sự táo
bạo lớn nhất. Ông vốn bảo thủ,
quay lưng lại các sự đổi mới
cách mạng, và nghi ngờ những tư
biện viển vông, nhưng lòng tin vào
khả năng chinh phục tự nhiên bằng
tư duy lôgích được xây dựng
trên các dữ kiện thực nghiệm đã
làm ông không nghiêng ngả để
“thử nghiệm” cả một quan niệm
hoàn toàn ngược lại truyền
thống, vì tin rằng không có con đường
nào khác. [Ở đây cũng cần
nói thêm, C.F. von Weizsäcker đã một
lần viết nhận định về Heisenberg,
điều có lẽ cũng đúng cho
Planck: “Ông tin rằng
chỉ có con người bảo thủ mới
có thể là một người cách
mạng thực sự. Chỉ con người bảo
thủ mới xem các cấu trúc lưu
truyền đủ nghiêm chỉnh để đau
khổ sâu sắc với sự không thỏa
mãn của chúng, và khám phá
ra chỗ yếu duy nhất để các cấu
trúc cổ đó phải bị, và có
thể bị bẻ gãy, để đưa
vào một thực tại mới.”]
‘Một
hành động
của
sự
tuyệt
vọng’
hay
là sự
khai sinh của
thuyết
lượng
tử
Một trang của bài thuyết trình “Định luật phân bố năng lượng trong quang phổ chuẩn” của Planck ngày 4.12.1900.
(Nguồn: A.Hermann, Planck)
Cuối năm 1900, ông sử dụng “cái đầu lô gích và sáng sủa” của mình thoát khỏi các phạm trù tư duy cũ. Để lý giải được công thức về bức xạ nhiệt ông tìm thấy trong một ngày tháng 10 trước đó bằng phương pháp nội suy, tỏ ra hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của các thí nghiệm đo đạc nhưng chưa có cơ sở giải thích, ông cảm thấy bị bắt buộc đưa vào một đại lượng năng lượng nhỏ ε như ông viết: “Ứng dụng định luật dịch chuyển (trong quang phổ) của Wien trong dạng sau cùng lên biểu thức (6) của entrôpi S, chúng ta sẽ nhận thấy rằng phần tử năng lượng ε phải tỷ lệ với số dao động ν (trong một giây, tức tần số, của các phân tử rung động mà ông gọi là những cái cộng hưởng), cho nên ε =h.ν, và do đó…(suy ra công thức về định luật phân bố năng lượng).” [Xem ảnh của trang báo cáo bằng tiếng Đức] Với giả thiết ε =h.ν này, công thức bức xạ nhiệt ông tìm thấy trước đó được chứng minh chính xác, và màn đêm bí mật của hiện tượng bức xạ của vật thể đen hoàn toàn được vén lên! Thật là tuyệt vời! Galilei lại một lần nữa có lý khi ông viết: “thiên nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học’”. Hằng số h , được gọi là hằng số (tác động) Planck là vô cùng nhỏ, h = 6,62610-34 Js (Joule-giây), nghĩa là bằng 0, 000 000 000 000 000 000 000 000 000 000 000 663 Js. Các năng lượng h, 2h, 3h, .…cho phép được trao đổi do đó là vô cùng nhỏ, nhưng với một số lượng khổng lồ diễn ra ở cấp vi mô đủ để cho ta những trị số vĩ mô cảm nhận được.
Đại lượng ε này, lệ thuộc vào tần số, là “bước nhảy lượng tử”. Công thức ε =h.ν nói rằng năng lượng bức xạ được trao đổi chỉ xảy ra ở dạng “gói lượng tử” rời rạc chứ không liên tục. Đó là “giả thuyết lượng tử”: thiên nhiên ‘nhảy vọt’ chứ không phải xảy ra liên tục! “Nguyên lý liên tục” cổ điển của khoa học (natura non facit saltus) từ thời Leibniz, Newton do đó lần đầu tiên bị bác bỏ. Chúng ta hãy tưởng tượng: bia không được phân phối trao đổi bằng những cái vòi chảy liên tục mà bằng các chai, lon hay thùng, kích cỡ khác nhau!
Ngày 14.11.1900 Planck trình bày kết quả của ông tại buổi họp của Hội Vật lý Berlin, dưới cái tên “Định luật phân bố nhiệt trong quang phổ chuẩn” (Gesetz der Energieverteilung im Normalsprektrum), dài 9 trang in. Nó đánh dấu chính thức ngày sinh nhật lịch sử của thuyết lượng tử.
Planck không biết rằng công thức ε =h.ν là một định luật “tuyệt đối” mà trong vô thức Planck đã ngưỡng mộ và tìm kiếm, là chiếc chìa khóa để bước vào thế giới vi mô. Ông chưa hiểu hết tầm quan trọng và cũng không tin công thức này là một cuộc cách mạng vĩ đại, là một thời kỳ mới trong nhận thức thiên nhiên.
Bản thân Planck chỉ tin rằng
đó là cái “mẹo toán”
nhất thời. “Nói
tóm tắt, tôi có thể gọi cả
việc làm của tôi là một hành
động của sự tuyệt vọng. Bởi
vì từ bản chất, tôi là người
hiền hòa và có khuynh hướng
lánh xa các hành động mạo hiểm
đáng nghi ngờ…”.
Những năm tiếp theo, vẫn không có
mấy ai để ý đến. Người
ta xem ý tưởng lượng tử như
một giả thuyết phụ trợ để
hoạt động, để giải quyết được
bài toán trong lãnh vực bức xạ,
nhưng còn lại không có ý nghĩa
gì mới đối với khoa học, và
người ta chờ đợi nó nhanh chóng
sẽ được thay thế bằng một cái
gì từ nền vật lý cổ điển.
Lịch sử thành công của khái
niệm lượng tử của Planck lắm gian
nan.1
Cần một bà mụ để vỗ lớn
vị ‘hoàng tử nhỏ’ chưa được
thừa nhận nguồn gốc ấy. Công việc
này được giao cho không ai khác
hơn là Albert Einstein.
Einstein xuất hiện
Albert Einstein
Năm 1905 chàng thanh niên Einstein 26 tuổi vô danh, làm việc ở Sở sở hữu sáng chế ở Bern, công bố một loạt 5 bài báo liền trong tạp chí Annalen der Physik (Niên giám vật lý), trong đó có bài mà ông cho là “rất cách mạng”: “Về một quan điểm heuristic (hỗ trợ khám phá) liên quan đến sự sinh ra và biến đổi của ánh sáng”. Einstein đã ‘bạo gan’ đưa ra “giả thuyết lượng tử ánh sáng”, cho rằng, ngược với truyền thống hiện hữu rất thành công xem ánh sáng là sóng điện từ, ánh sáng giờ đây cũng có thể được xem là gồm những hạt mang những gói năng lượng của Planck: ε =h.ν tùy thuộc vào các tần số của các màu sắc. Khi một tia sáng truyền năng lượng lên vật chất, chẳng hạn động năng của nó lên một electron, thì nó vận hành như được cấu tạo bởi những hạt mang năng lượng h.v của Planck, mà Einstein gọi là “photon” hay “lượng tử ánh sáng” (quang lượng). Nếu nó đụng vào một electron, và nếu năng lượng nó đủ mạnh (tia cực tím chẳng hạn), electron sẽ bị bắn ra khỏi vật chất. Einstein thiết lập được công thức cho năng lượng mang theo khi electron tách ra (E = hv - P). Bằng cách đó ông đã giải thích hiện tượng quang điện một cách thuyết phục, một hiện tượng không giải thích được trong giới vật lý lúc bấy giờ. Einstein kết luận bài báo với câu: “Những suy nghĩ trên dường như chứng minh đối với tôi,…, rằng Ngài Planck trong thuyết bức xạ của mình đã đưa vào vật lý học một nhân tố giả thiết mới, giả thuyết lượng tử.” Nhưng chính điều này Planck lại không muốn thừa nhận! Ý tưởng của Einstein quá táo bạo khiến Planck trong một thời gian dài không chấp nhận được. Đối với Planck, ý tưởng photon hay quang lượng chỉ là “tội lỗi tuổi vị thành niên” của Einstein mà người ta không nên để ý. Mặt khác, bài báo quan trọng đó cho thuyết lượng tử đã bị ‘nhật thực’ bởi bài báo về thuyết tương đối hẹp của Einstein được công bố cùng một lúc. Planck đang bị thu hút tuyệt đối bởi thuyết tương đối của Einstein, hơn cả khám phá lượng tử của chính mình! Ông tin ở đó có cái gì tuyệt đối thú vị: “Tính hấp dẫn của nó (thuyết tương đối) đối với tôi nằm ở chỗ, tôi nỗ lực suy ra từ tất cả những định lý của nó cái tuyệt đối, cái bất biến vốn nằm tiềm tàng trong đó”. Một trong những cái bất biến thú vị đã được nhà toán học Minkowski khám phá năm 1907, và được trình bày trong một bài báo cáo thuyết phục hoàn toàn trước Hội nghị các nhà khoa học và bác sĩ Đức tại Köln năm 1908 với câu nói bất hủ: “Từ giờ phút này trở đi, không gian xét riêng và thời gian xét riêng chỉ còn là cái bóng, và chỉ có một thể liên kết của cả hai mới giữ vững được tính độc lập.”
Planck
trao Einstein Huy
chương
Max Planck ngày 28.6.1929.
Nhưng bài báo của Einstein về giả thuyết photon là bước phát triển kế tiếp rất quyết định cho sự thắng lợi của khái niệm lượng tử. Einstein phải tiếp tục công việc khai phá miếng đất hoang dã này 20 năm liền, phải chiến đấu như một ‘hiệp sĩ cô đơn’ một thời gian rất dài chống lại cả một bức tường thành kiến được dựng lên cuối thế kỷ 19, rồi cuộc chiến đấu lần lượt được tiếp sức bởi Bohr, Heisenberg, Born, Schrödinger để đưa thuyết lượng tử đến toàn thắng như ngày nay. Những nỗ lực của Planck, người cha đẻ của thuyết lượng tử, nhằm đưa đứa con của mình trở về con ‘đường lành’ cổ điển, phù hợp với tính bảo thủ của ông, đều thất bại “một cách bi thương” như ông thừa nhận. Ngược lại Planck từng bước bị ‘kéo lê’ đi ngày một xa hơn trên con đường mà ý tưởng lượng tử của ông đã vạch ra. Planck là một nhà ‘cách mạng miễn cưỡng’. Ông cũng đã từng bảo rằng: “Một chân lý mới của khoa học thường thắng lợi không phải bằng cách những kẻ chống đối nó sẽ được thuyết phục và tuyên bố mình được dạy dỗ, mà đúng hơn bằng cách những kẻ chống đối dần dần chết hết, và thế hệ mới ngay từ đầu được làm quen với nó.”
Trong khi đó Planck ngày càng bị
cuốn hút bởi thuyết tương đối
của Einstein. Planck là người uy tín
đầu tiên trong giới khoa học lên
tiếng ủng hộ mạnh mẽ thuyết tương
đối hẹp, một sự ủng hộ mà
nếu không có kịp thời, không
biết Einstein và sự nghiệp khoa học
của ông còn bị che khuất trong bóng
tối bao lâu nữa. Hỏi ra, Planck chưa bao
giờ nghe thấy tên tuổi của chàng
thanh niên vô danh Einstein này một lần
nào cả trong khoa học. Ngay trong semina ở
Berlin mùa đông 1905/06 Planck đã báo
cáo về thuyết tương đối của
Einstein, và tháng 3.1906 tại Hội Vật
lý Berlin ông đã nhận xét: “
‘Nguyên lý tương đối’
được đưa ra gần đây bởi
H.A.Lorentz, và bởi A.Einstein dưới dạng
tổng quát hơn, đã đem lại
một sự đơn giản hóa tuyệt
vời, nếu nó đúng, cho tất cả
các bài toán của điện động
học của các vật thể chuyển động,
đến độ câu hỏi về sự
kết nạp nó đáng được
đặt ra ở vị trí hàng đầu
cho mỗi nghiên cứu lý thuyết trong
lãnh vực này”. Nếu Einstein là
bà mụ đỡ đầu cho thuyết
lượng tử của Planck, rất vất vả,
thì cũng có thể nói, Planck là
bà mụ đỡ đầu rất nhiệt
tình cho thuyết tương đối của
Einstein bằng cả uy tín của mình, một
lý thuyết mà lúc bấy giờ chỉ
có vài ba người hiểu.
Thời đại vàng của vật lý học Đức
Theo sáng kiến của Planck
và Nernst, nhất là do sự quyết tâm
cao độ của Planck, năm 1913 Einstein được
mời về Viện hàn lâm Phổ, Berlin,
với những điều kiện cực kỳ
ưu đãi. Sự hợp tác giữa
Planck và Einstein từ đó kéo dài
gần hai thập niên liền, với lý
thuyết tương đối và thuyết
lượng tử làm nền tảng, làm
cho Berlin trở thành trung tâm điểm của
vật lý lý thuyết của thế giới.
Đó là thời
kỳ vàng son
của ngành vật lý Đức. Một
tình bạn nảy nở giữa hai con người
có cá tính rất khác nhau đôi
khi đến trái ngược, dựa trên
không phải chỉ những quan tâm khoa học
chung, và còn trên sự kính trọng
và mối thiện cảm cho nhau. Nhưng thái
độ của hai con người lại rất
khác nhau đối với những vấn đề
của cuộc đời và thời cuộc.
“Einstein, một công dân thế giới
không quê hương, trong tất cả sự
nhân hậu và sẵn sàng giúp đỡ
người khác, luôn luôn không quên
gìn giữ sự độc lập của
mình, hoàn toàn không bị ảnh
hưởng bởi môi trường văn hóa
và xã hội xung quanh – còn Planck,
bám rễ sâu vào các truyền
thống gia đình và đất nước
của mình, hãnh diện về lịch sử
của người Đức và thể hiện
tính chất Phổ một cách ý thức
trong thái độ ông đối với
nhà nước. Nhưng những sự khác
biệt này không lớn so với những
cái chung: sự hứng thú trong nghiên
cứu các bí mật của tự nhiên,
sự đồng điệu trong những nguyên
tắc triết học của nhận thức và
đạo đức, và đặc biệt
của niềm vui trong âm nhạc. Họ thường
chơi đàn với nhau, Planck với cây
dương cầm, Einstein với cây vĩ cầm,
trong sự đồng cảm và vui sướng”
như Max Born nhận xét. Einstein-Planck, hai cột
trụ của hai cuộc cách mạng vĩ đại
trong vật lý của nhân loại, hai tính
cách khác nhau, tuổi tác rất khác
nhau, Planck lớn hơn Einstein 21 năm, và lại
là hai người bạn rất thân thiết
nhau. Người ta nói: Einstein là thiên
tài, Planck là quyền uy. Còn Sommerfeld ở
München là người thầy; ông thu hút
và cung cấp một loạt nhân tài
lỗi lạc cho khoa học, trong đó có
Heisenberg. Trong những năm 20, ngành vật lý
lý thuyết ở Đức đã phát
triển đến thời kỳ tinh hoa từ ánh
hào quang của ba vì sao sáng này.
Thực tế ngành vật lý lý
thuyết, mới ngày nào còn non trẻ, sẽ nhanh chóng trở thành ngành
‘khoa học định mệnh’ của thế
kỷ 20.
Max
Planck với vợ Marie, hai con gái
sinh đôi Emma và Grete,
con trai Karl lớn, và con trai út Erwin, khoảng
1900.
Vinh quang trong nghiệt ngã
Thời gian trước và sau thế chiến thứ nhất là gian nan và nghiệt ngã đối với Planck. Ông đã ký tên vào bản kêu gọi của 93 trí thức hàng đầu của giới khoa học và văn hóa của Đức để biện minh cho cuộc chiến của Đức, rồi chứng kiến sự sụp đổ của chế độ, sự thoái vị của vua Wilhelm, sự hỗn loạn về kinh tế của nước Đức. Rồi ông phải hứng chịu những đòn định mệnh nặng nề: năm 1909 vợ ông Marie Planck mất sau 22 năm hôn nhân hạnh phúc, với bốn mặt con; 1916 người con trai lớn Karl của ông chết trận gần Verdun; năm sau người con gái Grete chết khi sinh đứa con thứ nhất; hai năm sau, người con gái sinh đôi Emma cùng với Grete, sau khi lấy người chồng góa của Grete, cũng chết giống như thế trên giường sinh. Planck đau khổ tột cùng. Ông viết cho Hendrik Lorentz: “Bây giờ tôi khóc cho những đứa con thân yêu tha thiết của tôi, và cảm thấy bị cướp đọat, và nghèo đi. Có những lúc tôi nghi ngờ giá trị của chính cuộc sống”. Ông tự an ủi mình “rằng con người không có quyền được hưởng những điều tốt đẹp”. Einstein không cầm được nước mắt khi đến thăm Planck: “ông ấy giữ mình đứng thẳng và can đảm tuyệt vời, nhưng người ta thấy nỗi đau gặm nhấm ở ông”. Planck nếm trải kinh nghiệm đắng cay mà nhà thần bí Meister Eckardt đã diễn tả: “Con ngựa nhanh nhất mang chúng ta đến sự hoàn thiện, đó là sự đau khổ”.
Huy chương Max Planck
Năm 1919 ông được công nhận giải Nobel vật lý cho năm 1918. Phải cần đến gần hai thập kỷ để Quỹ Nobel ở Stockholm công nhận phát minh vĩ đại của Planck! [Einstein cũng phải chờ đến 17 năm, sau Planck.] Có lẽ vì những phát minh như của Planck, Einstein có giá trị nhiều về lý thuyết hơn về ứng dụng là điều được ghi trong di chúc của A.Nobel!? Thực tế không phải thế. Planck được những nhà vật lý tên tuổi đề nghị như Lorentz, Einstein, Born, Wien và Sommerfeld; ông này cho rằng vật lý đã trở thành một vật lý của lượng tử. Đối mặt với sự thật là thuyết lượng tử ngày càng chứng tỏ sự thành công trong nhiều lãnh vực của vật lý, và rằng, như Laue chỉ trích, giải Nobel không thể phát cho những công trình trên lãnh vực vật lý lượng tử đang lên, bao lâu Planck không được công nhận, ủy ban Nobel cuối cùng đã từ bỏ quan điểm cho rằng, những khám phá của Planck chưa đưa đến một lý thuyết nhất quán!
Năm 1929 để
vinh danh Planck, huy chương cao quý nhất của
ngành vật lý Đức, Huy chương
Max-Planck của Hội Vật lý Đức ra
đời, và hai người đầu tiên
được vinh dự đón nhận là
Max Planck và Albert Einstein.
Planck và đệ tam đế chế
Sự nắm quyền của quốc xã năm 1933 chấm dứt thời đại vàng son của ngành vật lý, cũng như tất cả các ngành khoa học của Đức nói chung. Hitler làm một cuộc thanh lọc toàn diện, đặc biệt ở tất cả các đại học và viện nghiên cứu. Một cuộc di tản khổng lồ của những người làm khoa học (và không phải chỉ có khoa học) sang các nước khác diễn ra, đặc biệt sang Mỹ. Einstein lúc đó may mắn đang ở Mỹ. Ông tuyên bố rút ra khỏi hàn lâm viện Phổ, để tránh cho các bạn ông và Planck khỏi sự khó xử sẽ đến. Trong một cuộc họp sau đó, Planck viết những lời sau đây về Einstein như để giãi bày với đời sau: “Tôi tin tôi phát biểu trong sự đồng tình của các đồng nghiệp chuyên môn của tôi và của tuyệt đại đa số tất cả nhà vật lý khi nói những điều sau đây: Ngài Einstein không chỉ là một trong nhiều nhà vật lý xuất sắc, mà Ngài Einstein còn là nhà vật lý mà qua những công trình đã được công bố của Ngài trong Hàn lâm viện, nhận thức vật lý trong thế kỷ chúng ta đã có sự thay đổi sâu sắc mà ý nghĩa của nó chỉ có thể so sánh với những công trình của Johannes Kepler và Newton. Tôi sở dĩ nói điều này là để hậu thế không nghĩ rằng các đồng nghiệp hàn lâm của Ngài Einstein không có khả năng đánh giá tầm quan trọng của Ngài đối với khoa học.” Khi Fritz Haber, nhà hóa học Đức gốc Do Thái đã có phát minh độc đáo là “lấy được bánh mì từ khí trời”, một người rất yêu nước, và ‘có công’ là sử dụng vũ khí hóa học đầu tiên trong thế chiến thứ nhất, lãnh giải Nobel hóa học cùng năm với Planck, chết vì bệnh và kiệt sức trên đường lưu vong, Planck tổ chức lễ truy điệu, trong sự bao vây và cấm đoán của quốc xã. “Tôi tổ chức buổi lễ này, trừ khi cảnh sát bắt tôi đi”. Và Planck thực hiện buổi lễ truy điệu, với đầy ắp những người tham gia. Trên bục diễn văn ông phải đưa cánh tay phải lên đến lần thứ ba mới nói được hai chữ “Heil Hitler” (“Vạn tuế Hilter”). Planck kết thúc bài diễn văn với câu nói “Haber đã chung thủy với chúng ta, chúng ta sẽ chung thủy với ông ấy”. Ông đã xin gặp Hitler để can thiệp cho các nhà khoa học gốc Do Thái, nhưng hoài công. Ông công khai phản đối sự truy bức người Do Thái và ra sức bảo vệ danh dự họ, giúp đỡ họ, và bị tố khổ ác liệt bởi các tay sai của Hitler trong khoa học như Stark và Lenard trong khoa học.
Tháng 9 năm 1939 quân đội Đức kéo lê sự chết chóc và tàn phá vào hết nước này đến nước khác của châu Âu. Planck, ở tuổi 81, viết cho Laue: “Hòa bình không đến gần mà lại đi xa. Sự mất trí này, sự tự sát này của giống loài được ca tụng của chúng ta, còn kéo dài đến bao giờ nữa? Tình hình là tuyệt vọng. Nhưng tôi vẫn luôn còn hy vọng - chứng kiến kết cục”.
‘Không có quyền hạnh phúc’
Thư viện của Max Planck tại nhà riêng ở Berlin. Năm 1944 nó bị phá hủy hoàn toàn trong những cuộc dội bom của quân đội đồng minh. |
Planck chứng kiến được kết cục, nhưng đau khổ biết bao. Năm 1944 ngôi nhà đầy kỷ niệm với những tư liệu cực kỳ quý báu của Planck ở đường Wagenheimstrasse, Berlin, trong đó có thư viện, thư tín và các quyển nhật ký, bị phá hủy hoàn toàn bởi các cuộc không kích của đồng minh. Lúc đó ông đã được di tản sang nơi khác. Năm 1945, trước khi chiến tranh kết thúc, đứa con trai út Erwin thương yêu nhất còn lại của ông bị quốc xã hành quyết vì có tên trong danh sách của một tổ chức lật đổ Hitler. Planck lặng người đi. Lúc đó ông đã 87 tuổi. Ông ngồi vào cây đàn dương cầm, đánh lên những điệu nhạc mà con trai của ông hằng ưa thích. “Sự đau đớn của tôi không thể diễn tả được bằng lời…Tôi lại cố gắng ngày qua ngày, để có lại sức, để cam chịu với số phận này. Bởi vì với mỗi ngày lên, một ngọn đòn mới đến với tôi, làm tôi tê tái, và làm mờ đi ý thức sáng sủa của tôi. Sẽ còn lâu tôi mới trở lại sự quân bình tinh thần. Bởi vì nó là một phần quý báu của đời tôi. Nó là tia sáng mặt trời, niềm hãnh diện của tôi, niềm hy vọng của tôi. Cái tôi đã mất đi theo nó, không thể nào được diễn tả bằng lời.” Nỗi đau kinh hoàng, định mệnh nghiệt ngã như đã bắt Planck phải chịu đựng vào giờ phút cuối đời như thể những đau khổ trước đó vẫn chưa đủ. “Tôi rất cố gắng tìm lại sức mình, để khỏi lịm đi trước đau thương. Điều giúp tôi ở đây là tôi xem như một ân huệ từ bên trên, rằng kể từ lúc tuổi thơ niềm tin vững chắc, không gì lay chuyển, vào đấng toàn năng, toàn thiện đã bám rễ trong tôi. Dĩ nhiên, con đường của ngài không phải là con đường của chúng ta; nhưng niềm tin vào ngài giúp chúng ta vượt qua được những thử thách lớn nhất.” |
Erwin
Planck trước
tòa án nhân dân |
Một tổ chức khoa học mới
Khi chiến tranh chấm dứt, với sự
giúp đỡ của bạn bè, Planck trở
về sống ở Göttingen, thành phố
của các người tiền thân của
ông. Berlin giờ đây chỉ còn là
đống gạch vụn. Ông ra sức cứu
vãn và tái thiết Tổ
chức khuếch trương khoa học
Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft như
quan tâm hàng đầu, mặc dù sức
khỏe ông đã giảm sút nặng
từ nhiều năm do bệnh tuổi già.
Phần lớn các Viện Kaiser-Wilhelm bị
phá hủy, các thành viên hoặc
bị trục xuất, chết hay mất tích;
còn vị chủ tịch cuối cùng của
Tổ chức thì cũng tự tử sau khi
chế độ quốc xã sụp đổ.
Từ những chủ tịch thì chỉ còn
lại có Planck, và ông chính là
niềm hy vọng duy nhất để tập hợp
lực lượng và cứu sống lại
Tổ chức. Tháng 9.1945 các viện được
phép hoạt động trở lại. Planck
nhận lời làm “chủ tịch danh dự”
của Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft tương lai.
Tháng 7, 1946 Hàn lâm viện Anh tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật thứ 300 của Isaac Newton. Lễ này đáng lẽ đã được tổ chức năm 1942, nhưng bị hoãn lại vì những lý do chiến tranh. Planck là nhà khoa học Đức duy nhất được mời tham dự. Một máy bay quân sự Anh đã đưa ông và vợ sang London. Tại buổi lễ, Planck được cộng đồng khoa học thế giới chào đón nồng nhiệt và kính cẩn nhất như người đại diện của một ‘nước Đức khác’. Người ta vẫn không quên những đóng góp khoa học lớn lao của ông và thái độ phản kháng tích cực của ông trong thời đệ tam đế chế. Một sự kiện nhỏ diễn ra đã làm ông không vui. Người giới thiệu chương trình giới thiệu tên tuổi của các nhà khoa học thế giới như những đại diện của quốc gia họ. Đến lượt Planck thì người đó ngập ngừng một hồi rồi mới tiếp: Giáo sư Planck, đại diện của “No country”!. Người ta kể, ông cảm thấy bị tổn thương nặng nề.
Ngày 11 tháng 9 năm 1946 “Tổ chức nghiên cứu Max-Planck-Gesellschaft nhằm khuếch trương khoa học” được chính thức ra đời tại Bad Driburg, thay thế cho Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft cũ, thể theo nguyện vọng của những người thành lập, và cũng phù hợp với ý muốn của chính quyền quân sự lâm thời Anh trong vùng quản lý, không muốn thấy cái tên của vua Wilhelm là biểu tượng của chủ nghĩa quân phiệt. Max Planck là chủ tịch danh dự của tổ chức. Không còn cái tên nào phù hợp hơn, không còn ai xứng đáng hơn để đặt cho tổ chức. Trong bài phát biểu ngắn trước máy quay phim của báo chí để cám ơn những người thành lập là những nhà khoa học được giải Nobel còn lại, và để đáp lại sự chúc mừng và ca ngợi của họ, ông nhiều lần đã nghẹn lời.
Ra đi
Ông tiếp tục đi diễn thuyết. “Về mặt khoa học, với tuổi 89 tôi không còn sáng tạo nữa; cái còn lại là khả năng tôi theo dõi các tiến bộ khoa học mà công trình của tôi đã đặt nền móng, và thỉnh thoảng, bằng sự lập lại các bài diễn thuyết của tôi, đáp ứng nguyện vọng của những người nỗ lực đi tìm chân lý và nhận thức, nhất là tuổi trẻ.” Một trong những vị khách cuối cùng đến thăm Planck tháng 7 năm 1947 đã ghi lại vài hình ảnh và cảm nghĩ: “Tôi không thể nào quên được ấn tượng khi đứng trực diện với một dáng đứng còng lưng của một con người già nua, bước đi ngập ngừng, với cái mũ vải dẹt, và cây gậy”. Tuy ông không tiếp khách được lâu, nhưng không vì thế mà ông “làm giảm đi ấn tượng lớn của một nhân cách, dù đã ở tuổi cao và mặc cho những khó khăn thể xác nhưng cũng vẫn còn gây ấn tượng mạnh, trong khi cuộc vật lộn tinh thần của cả một đời dài đã in sâu vào các vết hằn trên khuôn mặt ông, và đã hình thành một tấm gương trong sáng của tâm hồn một con người vĩ đại. Nó hòa lẫn với sự khiêm tốn chưa từng có, điều cũng không thể xóa đi sự vĩ đại của tư chất ông như một nhà nghiên cứu và một con người, dù trong một phút giây. Ngược lại: Đứng trước tôi là một trong những con người vĩ đại của thế giới trí tuệ mà bi kịch cá nhân đã không lấy đi được chút nào của nhân cách.”
Vào những ngày cuối đời, ông nói nhiều về cuộc đời, về Thượng Đế và thế giới: “Chịu đựng can đảm trong cuộc chiến đấu cho cuộc đời, và âm thầm tuân thủ sự điều khiển của một quyền lực cao hơn ngự trị trên chúng ta”. Ông “không thuộc những người để mình cay đắng” và biết“vượt cao khỏi thế giới này”.
Ngày 4.10.1947 ông vĩnh viễn ra đi sau những giờ phút đau đớn. Quan tài được quàn ba ngày tại nhà thờ thành phố Göttingen. Người đến viếng đông chật ních. Otto Hahn, lúc này đã nhận xong giải Nobel cho hiện tượng phân hạch của mình năm 1938, và Max von Laue, người học trò được yêu quý nhất của Planck và được giải Nobel trước cả thầy mình, đọc điếu văn. Laue đứng bên cạnh quan tài được phủ đầy những vòng hoa, nghẹn lời trong nước mắt: “Và ở kia còn một vòng hoa tang giản dị. Tôi đã đặt nó xuống để thay mặt cho toàn thể những học trò mà tôi là một thành viên trong đó, như một dấu tích phù vân của tình yêu và lòng biết ơn vĩnh cửu của chúng tôi.”
Quan tài ông được các sinh viên vật lý khiêng ra xe và đưa về nghĩa trang thành phố.
Trong những lá thư chia buồn từ khắp nơi trên thế giới gửi về bà góa phụ Marga Planck, người vợ thứ hai của ông, có một lá thư gửi từ Princeton, N.J., của Albert Einstein:
“Bây giờ cũng đến lượt chồng Bà hoàn tất những ngày của ông ta, sau khi ông ấy đã làm được cái vĩ đại và nếm trải cái đắng cay. Đó là một thời gian đẹp và thành công mà tôi được phép cùng trải nghiệm trong sự gần gũi với ông ấy. Mắt ông hướng về những cái vĩnh cửu, nhưng ông vẫn dự phần hàng ngày vào tất cả những gì thuộc về phạm vi con người và thời đại. Thế giới con người sẽ khác đi và tốt đẹp biết bao, nếu có nhiều hơn những người lãnh đạo như ông. Nhưng điều đó dường như không thể có được. Những tính cách cao thượng trong mỗi thời đại và ở khắp nơi vẫn luôn bị cô lập, không thể ảnh hưởng được cuộc đời bên ngoài.
Những giờ phút tôi được phép trải qua ở nhà của Ông Bà, những cuộc trò chuyện mà tôi đã thực hiện riêng với con người tuyệt vời, sẽ thuộc về những kỷ niệm đẹp nhất trong phần đời còn lại của tôi. Điều đó vẫn đúng, mặc dù một biến cố bi thảm đã chia cắt chúng tôi.
Tôi cầu
chúc Bà trong những ngày cô đơn
tìm thấy niềm an ủi rằng Bà đã
đem ánh sáng và sự hài hòa
vào đời của con người được
kính yêu. Từ xa tôi xin chia sẻ với
Bà nỗi đau của cuộc chia ly.”
Thư
chia buồn của A.
Einstein gửi bà
Marga Planck.
(Nguồn: Vorträge,
Reden und
Erinnerungen)
Planck đã đi tìm cái vĩnh
cửu, tuyệt đối. Và ông đã
được toại nguyện: những khám
phá vĩ đại của ông trong khoa học,
thuyết lượng tử, hằng số tác
động h,
cùng với tên tuổi của ông đã
trở thành những cái vĩnh cửu,
tuyệt đối trong vũ trụ và thế
giới chúng ta. Hằng số h,
với trị số của nó, được
khắc lên bia mộ của ông tại nghĩa
trang thành phố của Göttingen như biểu
tượng của một khám phá vĩnh
hằng đã theo ông suốt cuộc hành
trình gian khổ./.
Nguyễn Xuân Xanh
Thành phố Hồ Chí Minh, 20.4.2008
Tài liệu tham khảo:
-
Nguyễn Xuân Xanh, Einstein. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. Fahasa phát hành.
-
Armin Hermann, Planck. Rohwohlt, 1973.
-
Armin Hermann, Lexikon Geschichte der Physik A-Z. Aulis Verlag Deubner &Co KG, 1987.
-
Armin Hermann, The Genesis of Quantum Theory (1899-1913). MIT Press Classic, 1971.
-
Hans Roos & Armin Hermann, Max Planck. Vorträge, Reden, Erinnerungen. Springer, 2001.
-
John L. Heilbron, Max Planck. Hirzel, 2006.
-
Ernst P. Fischer, Der Physiker. Max Planck und das Zerfallen der Welt. Siedler, 2007.
-
William H. Cropper, Great Physicists. Oxford University Press, 2004.
-
Max von Laue, Zu Max Plancks 100. Geburtstage. Trong Max von Laue, Aufsätze und Vorträge. Vieweg, 1961.
-
Walther Gerlach, Max Planck. Trong Die Grossen, Band IX, 1. Kindler Verlag, 1976.
-
Max Born, Max Planck. Trong Die Grossen Deutschen, Band 4. Propyläen Verlag, 1957.
-
J.C. Polkinghorne, The Quantum World. Princeton Science Library, 1984.
-
Hans Hartmann, Schöpfer des neuen Weltbildes. Athenäuem Verlag, 1952.
-
Hans Hartmann, Max Planck als Mensch und Denker. Karl Siegismund Berlin, 1943.
-
Friedrich Herneck, Bahnbrecher des Atomzeitalters. Buchverlag Der Morgen Berlin, 1984.
-
Werner Heisenberg, Schritte über Grenzen. Piper, 1977.
-
Werner Heisenberg, Physik und Philosophie. Ullstein Materialien, 1981.
-
Carl F. Weizsäcker, Bartel L. van der Waerden, Werner Heisenberg. Reihe Hanser, 1977.
-
Edmund Whittaker, Von Euclid zu Eddington. Humboldt Verlag, 1952.
1 Xin xem thêm chi tiết trong quyển Einstein, NXB Thành phố, của tác giả.
Các thao tác trên Tài liệu