Cố nhân
Cố
nhân
Bùi Trọng Liễu (*)
Trả lời một phỏng vấn (xem http://vietnam.vnagency.com.vn/VNP), Thiếu tướng Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc đã nói : « Tôi không muốn nói về tôi mà đơn giản chỉ là tâm sự của một thế hệ. Thế hệ những người như tôi đã đi trọn cuộc kháng chiến trong đó không ít người đã vĩnh viễn nằm xuống ». Anh Ngọc đã nói thế, tôi cũng nghĩ rằng khi kể chuyện về anh, tôi không chỉ kể về một cá nhân, một « cố nhân », mà kể rộng hơn thế ; không phải là tôi vô tình lạc đề. Anh Ngọc là ai : điệp viên với bí danh «Ziệp Sơn », người cán bộ công an, nhà khoa học?
Tối 2/5/2006, vợ chồng tôi đang ăn cơm, thì có chuông gọi cổng : chị T. vợ anh, lại tìm chúng tôi, báo tin cho biết là anh Ngọc vừa mất sáng hôm đó, và chị và cháu H. (con trai duy nhất của anh chị) sửa soạn lên đường về dự đám tang. (Xin nói ngay là ở đây, tôi nói tới chị T., vợ có cưới hỏi chính thức và còn định cư ở Pháp, chứ tôi không nói tới người khác, cụ thể là người mà có nhà báo viết là « người bạn đời » của anh Ngọc mà tôi không biết). Mấy ngày sau, tôi được đọc một số bài báo trên mạng do bạn bè gửi cho. Có những tin đưa chính xác, có những tin đúng nhưng khó hiểu, có những tin đưa không đúng, qua những gì tôi đã được biết hoặc chứng kiến.
Bản tin của Ban chấp hành Hội Tin học Việt Nam, các Hội Tin học thành viên và gia đình, đăng 5/5/2006 trên http://www.tinhoc-doisong.net viết như sau :
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học: NGUYỄN ĐÌNH NGỌC, Nguyên Phó Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Tin học Việt Nam, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1932, quê quán xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, thường trú tại Phòng 402, nhà D3, Tập thể Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội; nguyên Bí thư Đảng uỷ, Cục trưởng Cục Khoa học Viễn thông – Tin học, Bộ Công An, Phó trưởng ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (BCĐ49), Bí thư Chi bộ Trường Đại học dân lập Thăng Long; Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến – Điện tử Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dân Lập Tây Đô - Cần Thơ; Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương chiến công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương Vì An Ninh Tổ Quốc, Huy chương vì sự nghiệp các hội KHKT, Huy chương vì thế hệ trẻ; sau một thời gian lâm bệnh, […] đã từ trần hồi 8 giờ 56 phút ngày 2 tháng 5 năm 2006 (tức ngày 5 tháng 4 Bính Tuất) tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an. Lễ viếng đã tổ chức từ 9 giờ 30 ngày 8 tháng 5 năm 2006 tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu hồi 12 giờ 30 cùng ngày. Điện táng tại Đài hoá thân hoàn vũ, Hà Nội.
Điều quan trọng nhất đáng biết về anh Ngọc, tất nhiên là kết quả công tác điệp báo của anh, dưới bí danh « Ziệp Sơn », nhưng tiếc thay, các bản tin đều chỉ nói lướt qua. Thí dụ như có bản tin viết : « Trong vai trò một điệp báo viên, những tin tức ông cung cấp luôn chính xác, kịp thời và vô cùng quan trọng – thông tin về cuộc tập kích vào Trung ương cục Miền Nam, về việc năm 1975 Mỹ sẽ không quay lại… chỉ là một vài trong số rất nhiều những chiến công thầm lặng của điệp viên tài ba này ». « Vô cùng quan trọng » mà chỉ vọn vẹn được mấy dòng đó sao ? Hay là vì thời điểm hiện nay còn quá sớm để công bố chi tiết toàn bộ ? Hay là những chi tiết này nằm trong các bản tuyên dương mà tôi không được đọc? Biết bao câu hỏi còn chưa được trả lời. Hẳn là vào tháng 4 năm 1975, đã có nhiều nguồn tin trái ngược về khả năng Mỹ quay lại can thiệp hay không ; và những người chuyển những loại tin này gánh một trách nhiệm rất nặng vì nó ít nhiều liên quan đến quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Tôi tò mò và mong một ngày nào được biết hết …
Trong khi chờ đợi, tôi xin được kể những gì tôi được biết về anh : vì ở anh, sau người điệp viên còn có người công an, sau người công an còn có nhà khoa học; khi người điệp viên đã chấm dứt công tác, người công an ở anh vẫn còn tiếp tục nhiệm vụ – như có người phóng viên đã viết về anh : «Có ai đó đã từng nói, bộ đội còn thời chiến thời bình chứ công an chẳng lúc nào ngơi nghỉ » – và khi người công an đã nghỉ hưu, nhà khoa học vẫn còn đeo đuổi công việc.
Về việc anh đam mê học hành, nghiên cứu khoa học, cũng trong cuộc phỏng vấn dẫn trên (http://vietnam.vnagency.com.vn/VNP), anh nói: « Năm đó [1947] tôi còn rất nhỏ, cả hai bố con cùng bị giặc Pháp bắt. Biết mình sẽ bị đem đi hành hình, thay vì nói con trả thù cho bố, ông nói: “Con cố học và giúp người khác học, còn thiếu tri thức dân mình khổ đừng trách ai, chỉ nên tự trách mình”. Khi đất nước cho phép ngơi nghỉ thì tôi lại làm điều cha tôi đã dạy. Dạy học, nghiên cứu khoa học... tôi hiểu rằng, cuộc chiến giành lấy hạnh phúc, phồn vinh không thể thiếu tri thức» . Rồi với câu hỏi của phóng viên: « Phải chăng thế hệ ông còn nhiều nỗi lo khi đã làm tròn sứ mệnh của mình với đất nước? », anh đã trả lời: «Phải. Nó như cuộc chạy tiếp sức, thế hệ bố tôi đã làm tốt trọng trách đầu tiên tức là cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng để lại trên vai chúng tôi cả một gánh nặng. Và tất cả vẫn chưa kết thúc, sau 1975 tất cả những ai may mắn còn sống phải đi tiếp cuộc kháng chiến mới: cuộc kháng chiến chống sự tụt hậu về khoa học và công nghệ đòi hỏi các bạn trẻ cũng phải ghé vai gánh vác ».Tôi không biết người phóng viên khi kể lại mấy lời này có lý tưởng hóa khung cảnh không, nhưng rõ ràng là nội dung của mấy câu trả lời của anh Ngọc là chí lý, và tôi hoàn toàn tâm đắc: mất nước ở thế kỉ 19, cũng vì thiếu tri thức; những năm đói rách, cùng cực, cũng vì thiếu tri thức; những đợt làm khổ nhau, cũng vì thiếu tri thức; giáo dục đào tạo bê bối, cũng vì thiếu tri thức; tham nhũng và để tham nhũng, cũng vì thiếu tri thức, vv. và vv.
Tôi đã có dịp kể trong cuốn sách « Tự sự của người xa quê hương » (1) : tôi bị bệnh lao ngay mấy tháng sau khi đến Pháp, nên tôi « lê la » gần 7 năm trong các sanatoria và dưỡng đường cho các sinh viên ở Pháp. Vào khoảng năm 1955-56, trong lúc tôi ở dưỡng đường ở Sceaux, thì anh Nguyễn Đình Ngọc cũng ở đó, và vì thế nên quen biết. Những điều như : về ông thân sinh anh ấy bị quân viễn chinh Pháp bắt và giết (1947), tôi có nghe anh kể thuở đó. Nhưng tất nhiên, việc anh làm điệp viên thì sau ngày giải phóng, tôi mới được biết .
Ở đây, chủ yếu tôi chỉ nói đến những gì tôi đã nghe kể và/hoặc chứng kiến:
Lúc sang Pháp, thì anh Ngọc đã có vợ, chị T., và ở Pháp anh chị ấy sinh một con trai, cháu H. Theo như tôi được biết, chị T. thuộc một vọng tộc : mẹ chị T. là cháu nội hoàng giáp Đặng Văn Thụy, con gái phó bảng Đặng Văn Hướng – quan to của triều đình Huế, sau đi kháng chiến và một thời là bộ trưởng của chính phủ cụ Hồ trong kháng chiến, nhưng chết trong đợt Cải cách ruộng đất. Như vậy là chị T. là cháu gọi ông Đặng Văn Việt bằng cậu – ông Đặng Văn Việt người chỉ huy bộ đội vùng biên giới, người của con « đường số 4 anh hùng », và của chiến dịch biên giới phá các binh đoàn Lepage và Charton vv. Mẹ chị T. lại là cháu ngoại của cử nhân Hoàng Đạo Phương, là một thương gia giàu có ở Hà Nội thuở xưa; ông Phương lại đồng thời là anh của ông Hoàng Đạo Thúy (người anh cả của Hướng đạo Việt Nam, một lúc là giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn thời Dân chủ Cộng hòa, rồi chủ nhiệm Truyền tin, quân hàm đại tá quân đội nhân dân) (2). Mẹ chị T. mất sớm, bố chị T. đi kháng chiến – trước ông là công chức bưu điện thời Pháp thuộc, sau Cách mạng là cán bộ cao cấp ngành công an – sáu chị em chị T. sống với ông bà nội Trịnh Hữu Thăng, tiến sĩ tại gia (không ra làm quan) ở quê, vùng Nam Định ; đến khoảng năm 1951 quân viễn chinh Pháp càn quét dữ quá, gia đình mới gửi chị em chị T. vào Hà Nội sống với một bà dì (em mẹ chị T.), bà này là vợ ông Phan Huy Quát. Ông Quát từng làm tổng trưởng giáo dục (1949), quốc phòng (1950, 1954), ngoại giao (1964) của chính quyền Bảo Đại trong vùng tạm chiếm (3), thủ tướng mấy tháng năm 1965 ..., sau 1975 chết trong trại cải tạo.
Anh Ngọc học trường trung học Chu Văn An ở Hà Nội, là học sinh giỏi, cùng học với ông Phan Huy Lương và do đó quen với gia đình ông Phan Huy Quát (ông Lương là em ông Quát). Vào giai đoạn từ cuối năm 1951 đến 1954, do tướng De Lattre de Tassigny, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương, bắt đầu có lệnh động viên trong vùng tạm chiếm (4). Anh Ngọc tránh quân dịch, nên ra vùng kháng chiến, rồi tại đó, năm 1952, anh học lớp «điệp báo ở sở công an Liên khu IV» (như chính anh viết trong bài đăng trong cuốn sách «Giáo sư Lê Văn Thiêm », nxb Đại học Quốc gia , Hà Nội 2003), rồi : « […] Bắt đầu từ Giám đốc Công an Liên khu 4, Nguyễn Hữu Khiếu, [anh] được [Bộ trưởng Bộ Công an sau này] Trần Quốc Hoàn để mắt tới và quyết định đào tạo "đánh" anh vào lòng địch tại miền Nam dưới sự điều khiển đơn tuyến từ miền Bắc tới Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam », như một đoạn bài báo «Thiếu tướng, GS, TSKH Nguyễn Đình Ngọc : Vinh quang là lặng lẽ » đăng trên báo Công An Nhân Dân trên mạng, viết ngày 9/5/2006. Anh vào Nam, theo học ở Đại học Sài Gòn và cưới chị T. vào năm 1955. Anh sang Pháp cuối 1955 vì có được học bổng để sang học về Khí tượng, rồi chị T. cũng sang Pháp đầu 1956; cuối năm chị sinh cháu H. ở Pháp.
Ở Pháp, anh Ngọc học lấy được 3 bằng kỹ sư và bằng tiến sỹ cấp ba (doctorat 3ème cycle) về Khí tượng. Mấy năm sau, anh và tôi soạn luận án tiến sĩ nhà nước về Toán, ở Đại học Paris cùng thời, nhưng không cùng ngành. Anh bảo vệ luận án dưới sự hướng dẫn của giáo sư C.Ehresmann, dưới đề tài « Sur les espaces fibrés et les prolongements » (Về không gian phân thớ và thác triển), thuộc ngành tô-pô và hình học vi phân. Tôi bảo vệ luận án năm 1962, anh Ngọc bảo vệ năm 1963 và anh có làm giáo sư ở Đại học Poitiers, rồi ở Đại học Brest ở Pháp một thời gian. Cái thuở còn soạn luận án, rồi đi dạy ấy, chúng tôi khá thân, nhưng tất nhiên tôi không biết anh là điệp viên. Anh chị Ngọc và vợ chồng tôi thời ấy cùng sống ở Antony, ngoại ô nam Paris, nhà ở chỉ cách nhau nửa cây số, gặp nhau luôn. Đi dạy ở địa phương xa hàng mấy trăm cây số – tôi dạy ở Lille cách Paris 200 km, anh ấy dạy ở Brest cách Paris 600 km – nhưng nhà vẫn ở vùng Paris, vì thuở ấy sinh hoạt khoa học phần lớn tập trung ở thủ đô Paris; các giáo sư đại học lại chỉ phải giảng bài 3 giờ/một tuần ; lèo tèo hướng dẫn vài ba nghiên cứu sinh đồng thời lại là phụ giảng viên của mình ở đại học địa phương ; ngành Toán lại không có phòng thí nghiệm, mình chỉ cần tập trung có mặt ở đó độ hai, ba ngày là đủ. Cho nên thuở đó có cái tên gọi các giáo sư không cư ngụ tại chỗ là « turbo-prof » – (anh KV. đề nghị tôi dịch là « giáo sư vù » : chợt đến rồi lại «vù» đi nhanh). Ai không sống trong khung cảnh đó thì dễ bị lẫn lộn và hiểu lầm : anh Ngọc không hề giảng dạy ở những nơi mà anh ấy học ở Pháp (trường Viễn thông, trường Hải công, Đại học Paris) như có phóng viên khẳng định. Về cái việc anh Ngọc học « dàn hàng ngang », chuyên môn này rồi chuyên môn nọ, tôi muốn nói một cách công bằng : theo tôi, không phải tại anh mắc cái tật của một số người Việt Nam, ưa học lấy càng nhiều bằng « là là » lại càng tự cho là oai, chứ không chịu (hay không có khả năng) học cao học sâu. Anh Ngọc có chủ ý khác. Có lần anh tâm sự với tôi là : nước mình lạc hậu, thay vì cá nhân mình bỏ hết hơi sức « rặn » ra thêm được vài định lý để đăng nhiều bài báo, chẳng có ích gì thực sự ; mình nên để công sức « nhập » những môn mới vào nước mình để giúp cho thế hệ sau mình có điều kiện tiến lên, còn tốt hơn. Về lý luận này, tôi có phần chia sẻ.
Phóng viên tác giả của bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn trên, còn viết : « Có lần ông kể với tôi, vì ông tự ái, tại sao người Việt Nam lại không thể giảng bài ở Pháp mà không nhìn vào giáo án. Thế là suốt nhiều đêm ông đã đọc và thuộc lòng giáo án đại học. Sáng hôm sau vào lớp, ông chỉ cầm một chiếc bút và thao giảng những kiến thức cao siêu trước sự ngạc nhiên của sinh viên nước ngoài ». Xuất phát câu chuyện chi tiết là như thế này : Vốn là thuở anh Ngọc và tôi còn học và soạn luận án, thì có một ông giáo sư ở Đại học Paris tên là ông G. Choquet, là một trong những « tổ sư » của ngành tô-pô. Xin nói qua về ông Choquet này. Ông ta vốn là bạn đồng khóa với ông L. Schwartz – người bạn thân thiết của Việt Nam mà tôi có dịp nói tới trong cuốn sách (5) – thuở trẻ ông Choquet học rất giỏi, thi vào thi ra, đều đỗ thủ khoa còn ông Schwartz thì lần nào cũng đỗ á nguyên, thứ nhì sau ông này ; điều này ông Schwartz có kể trong cuốn hồi ký của ông (6). Nhưng ông Schwartz thì được huy chương Fields, còn ông Choquet thì không, tuy ông cũng là một cự phách trong làng Toán. Ông Choquet có một cách giảng bài khá đặc biệt, đó là vào giảng đường « tay không », không có giấy tờ, hồ sơ sách vở, tay trái bỏ vào túi quần, tay phải cầm phấn viết trên bảng, cả buổi không cần nhìn giáo án gì cả, rất gây ấn tượng cho sinh viên. Theo tôi, thì vị cũng có ý « trộ » thiên hạ. Bởi vì trí nhớ dù tốt đến đâu, cũng có giới hạn của nó, và tất nhiên đã nhiều lần vị nhớ lộn, giảng bài không trôi, phải xin lỗi lần sau giảng lại… Ông Ngọc nhà ta cũng muốn làm như vậy, và tất nhiên « đi đêm có ngày gặp ma »; một bữa, cũng giảng bài lộn, bí không tìm ra đầu đuôi, phải khất sinh viên lần sau giảng lại. Nếu vì ngành điệp viên cần luyện trí nhớ – và đó là một cách luyện trí nhớ – thì tôi thông cảm, chứ coi đó là cách giảng dạy có tính thuyết phục, thì tôi không tin. Thuở ấy, cái lần giảng lộn bài phải khất sinh viên, anh Ngọc có thú thật khi kể lại cho tôi nghe, và chúng tôi cười với nhau mãi. Thời đó, tôi chưa biết anh là điệp viên, nên chúng tôi có thảo luận về cách giảng dạy. Tôi thì cho rằng mình có bổn phận tôn trọng và nâng đỡ sinh viên – nhất là thời đó sinh viên còn chưa có phụ đạo, ít sách vở tài liệu, ít người có học bổng, một phần không nhỏ sinh viên lại là những người đã đi làm kiếm sống (giáo viên tiểu học, trung học, viên chức, vv.) tới học thêm để tiến thân, mình không nên vì lòng tự ái cá nhân mà gây thiệt thòi cho họ. Bởi vì, theo tôi, có bài giảng soạn sẵn kỹ càng, đánh số thứ tự, định nghĩa hay định lý đọc ra phải chính xác từng chữ, từng ký hiệu, thì sinh viên mới tiếp thu dễ dàng, và như vậy họ dành được nhiều thì giờ để tham khảo thêm ngoài bài giảng. Nhưng đó là lý luận của người giảng dạy, không phải là lý luận trong khung cảnh của một … điệp viên.
Trở lại chuyện anh Ngọc và cái sứ mạng điệp viên của anh ấy ; tôi chỉ nhớ là anh ấy thỉnh thoảng đi Thụy Sĩ « thăm bạn » (anh chị có một cặp bạn thân ở Thụy Sĩ ; mãi sau này, khi gặp lại anh ấy ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, anh ấy mới kể cho tôi là Thụy Sĩ là đường dây liên lạc của anh ấy). Kể ra thuở ấy, tôi ngay thật không nghi ngờ gì, tuy bao nhiêu bài nhạc, bài hát miền Bắc mà tôi có được là do anh ấy cho mượn để thu vào máy, vv. Nhưng tôi đoán, thời ở Pháp là cái thời sửa soạn cho anh một cái vỏ, một địa vị cao để sau đó dễ lọt sâu ; công tác của anh có lẽ chỉ thực sự bắt đầu khi anh đã trở về Sài Gòn, chứ ở Pháp có gì đâu mà tìm hiểu, có lẽ ngoại trừ việc anh tìm ra tung tích của người sĩ quan Pháp đã hạ lệnh giết cha anh.
Lại nhớ đã có lần (vào khoảng cuối 1959, đầu 1960) tôi hỏi anh ấy là tại sao anh ấy lại tham gia cái « hội ông Quân » mà không tham gia « hội ông Quế », anh chỉ cuời lảng mà không trả lời. Đầu đuôi câu chuyện như sau, tuy tôi không nhớ hết chi tiết, và có hỏi thăm những người cùng thời, nhưng cũng không ai nhớ rõ hết. Trước hết xin nói vài lời về hai ông này, đều là nhà toán học. Ông Phạm Mậu Quân bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1954 ở Đại học Paris. Ông Ngô Văn Quế, bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1966 cũng ở Đại học Paris. Ông Quế thì tôi có quen sơ sơ, ông Quân thì tôi biết nhiều hơn vì có lúc là đồng nghiệp ở Đại học Lille trong vài năm. Hội ông Quân lập ra – lâu ngày tôi không nhớ, nay hỏi thăm, có người bảo là hội đó mang tên « Science et Culture pour le Vietnam » (Hội Khoa học và Văn hóa cho Việt Nam) – thuở ấy bị/được coi là một hội phái hữu, một phần vì ông Quân lúc đó không ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một phần có lẽ tại ông lấy em gái ông Phạm Khắc Hy, đại sứ của của chính quyền ông Diệm ở Pháp (sau này ông bà ly dị). Hội do ông Quế làm hội trưởng, mang tên là « Association des Etudiants Vietnamiens en Science et Technique », (Hội sinh viên Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp), gần phong trào Việt kiều – nghĩa là nếu dùng đúng ngôn ngữ một thời, đó là một « tổ chức quần chúng » của Nhóm Việt Ngữ – được thành lập khoảng cuối năm 59, đầu năm 60, sau khi hội Liên hiệp Việt kiều bị chính phủ Pháp của ông De Gaulle cấm (7) . Còn Nhóm Việt Ngữ (sau này đã giải tán), là nhóm cốt cán của phong trào Việt kiều ở Pháp ; tôi không tham gia nhóm này, nhưng có được nghe nói tới ; sự tích của nhóm này có được kể trong cuốn hồi ký của đại sứ Võ Văn Sung (8). Vì thế « Hội ông Quế » được coi là hội phái tả. Tôi không tham gia hội ông Quân vì tôi coi chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng nên và chính quyền ông Diệm nối theo là không « chính thống/đáng » (légitime) (9) ; tôi cũng không tham gia hội ông Quế vì lúc đó tôi nghĩ rằng tôi đã đi làm, không phải là sinh viên. Tôi hỏi anh Ngọc tại sao anh chọn tham gia hội ông Quân mà không tham gia hội ông Quế, vì lúc đó vấn đề ý thức hệ đặt ra rất nặng. Sau này tôi mới biết là anh Ngọc cần củng cố cái vỏ cho công tác của anh ấy sau này.
Cũng có một câu chuyện tình cờ xảy ra, làm anh chị ấy bị nghi oan. Có một lần, anh ấy để chị và cháu đi « trại hè » do phong trào Việt kiều ở Pháp tổ chức. Chẳng may vào dịp đó, có mấy sinh viên du học ở Pháp bị chính quyền ông Diệm cắt chuyển ngân. Từ đó, có sự suy luận là anh chị ấy làm «chỉ điểm cho địch ». Thực ra đó chỉ là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, nó không nằm trong sự cố tình tạo ra cái vỏ chống cộng, bởi vì có cái đạo lý « không gây hại cho cá nhân người khác ». Còn tôi thì đã có một lần tới sứ quán ông Diệm ở Paris để … phản đối việc cắt chuyển ngân của sinh viên du học (10).
Đến năm 1963, sau cuộc đảo chính lật ông Diệm, ông Phạm Hoàng Hộ (11) làm tổng trưởng (bộ trưởng) Giáo dục trong chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ ở Sài Gòn ; ông có lời kêu gọi sự hợp tác của trí thức Việt kiều. Nhân chuyến công du sang Pháp của ông Hộ, có một buổi gặp gỡ (một bữa ăn) với một số trí thức Việt kiều, tôi không nhớ anh Ngọc có dự hay không, có thể là có. Riêng tôi có được ông Phạm Mậu Quân rủ đi – lúc đó tôi đang là đồng nghiệp của ông Quân ở Đại học Lille – nhưng tôi từ chối vì lẽ đã kể trên, vả lại thêm vào đó, ông Quân còn bảo tôi là buổi dự chỉ có những người « ở trên », nên tôi thấy « không ổn », vì tôi không nghĩ rằng có bằng cấp và có địa vị xã hội nào đó, là « ở trên » người khác. Ông Quân vốn là người Việt Nam đầu tiên làm luận án dưới sự hướng dẫn của ông A.Lichnérowicz, giáo sư ở Collège de France (12), nên ông ấy cho cảm tưởng là ông muốn đóng một vai trò « trưởng tràng » nào đó đối với những người Việt Nam làm luận án với nhóm ông Lichnérowicz. Anh Ngọc và tôi là ngoại đạo, nên không liên quan.
Thời còn ở Pháp, anh Ngọc cũng quen biết nhiều người Việt Nam, và anh cũng có cái tài nhẫn nhục làm quen. Vào khoảng 1965-66 có ông NVH ở Huế cũng sang Paris soạn luận án tiến sĩ nhà nước dưới trướng ông Lichnérowicz kể trên. Ông NVH này cũng là một nhân vật đặc biệt, không gây thiện cảm, nên trong đám những người Việt Nam làm Toán, ít ai làm quen với ông ta, trừ anh Ngọc, làm thân được với ông này. Khoảng cuối 1968, sang 1969 (tôi không nhớ kỹ thời điểm) có một lá thư kêu gọi trí thức Việt kiều về hợp tác ở miền Nam do ông NVH viết ; và để gây tính thuyết phục hơn, ông ấy kể trong thư rằng ông ấy có được sự nhận lời của giáo sư R. Thom, sẽ sang thỉnh giảng ở Đại học Huế, « mà không nhận thù lao ». (Ông Thom, huy chương Fields, giáo sư ở Institut des Hautes Etudes Scientifiques, Pháp). Lúc đó tôi lấy làm lạ, vì hầu hết các nhà khoa học đặc biệt là các nhà toán học ở Pháp nói chung đều ủng hộ miền Bắc ; tôi hỏi ông Thom là có đúng là ông nhận lời đi Huế thỉnh giảng không, thì ông ta cười trả lời tôi rằng : « Tôi có biết người này là ai đâu, mà bảo rằng tôi nhận lời đi dạy Huế ! ». Có những người Việt Nam « bạo » khiếp, dám khẳng định những điều nghe tưởng như thật.
Tháng 2 năm 1966, bỗng nhiên anh Ngọc lấy quyết định về Sài Gòn (sau này mới biết là anh ấy được trao nhiệm vụ như vậy). Tôi thì hết sức can, lại nhân dịp có cậu họ tôi là người trong ngành ngoại giao của chính quyền Sài Gòn đi qua Pháp, tôi có mời cơm để cậu tôi khuyên anh ấy đừng về ; anh ấy chỉ cười và cảm ơn. Bài báo Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, cũng là bài báo duy nhất trong nước mà tôi đọc thấy, viết lướt về vợ con anh Ngọc : « Chiến tranh và nhiệm vụ cách mạng vô cùng cam go, có thể hy sinh bất cứ lúc nào, ông cũng không ngờ chuyến trở về tạm biệt vợ con ngày đó... trở nên xa vời mãi mãi... », nhưng bài báo không nói tại sao lại xa vời mãi mãi – trong khi một vài bài báo khác lại chỉ viết về một « người bạn đời » của anh. Tôi thấy cần công bằng nên xin nói thêm những điều tôi biết. Thuở anh Ngọc rời Pháp về Sài Gòn, tôi không hiểu vì lý do gì chị ấy và cháu không về, mà ở lại Pháp ; sau này tôi mới nghe kể là – trái với lời đồn một thuở – chị T. biết công tác điệp viên của anh ấy ngay từ ngày vợ chồng mới lấy nhau. Anh Ngọc lấy quyết định về một mình, vì sợ nguy hiểm cho chị T. và cháu, có thể bị bắt làm con tin, nếu công tác bí mật của anh ấy bị lộ. Rồi anh ấy về giảng dạy ở Đại học Sài Gòn. Có những điệp viên đóng vai thượng lưu, chơi chim chơi chó, cà-phê, sâm banh; còn anh Ngọc đóng vai một ông trí thức gàn dở, vốn đã có sẵn có khi còn ở Pháp, nhưng lại càng lộ cái gàn dở hơn nữa khi về Sài Gòn. Đôi khi tôi cũng tự hỏi : khi phải đóng một vai trò gàn dở, con người dần dần có thể biến thành cái nhân vật mình đóng, tựa hồ như luôn luôn phải « tự quất » mình (autoflagellation ) không ? Anh thường để lại hình ảnh một con người khắc khổ, ít hưởng thụ, không thích ăn ngon mặc đẹp, ngày ăn một bữa, làm việc đến kiệt sức té xỉu, rất chặt chẽ trong việc chấm điểm bài vở cho sinh viên, vv. Ngó anh, tôi không khỏi nghĩ tới hai câu thơ Nguyễn Khuyến trong bài « Mẹ Mốc » : « Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc. Tâm trung thường thủ tự kiên kim », (nghĩa là : mặt ngoài không cần đẹp như ngọc ; nhưng trong lòng hằng giữ bền như vàng). Nhưng, theo tôi nghĩ, ngoài cái vỏ cứng nhắc ấy, thực ra anh là một con người tận tụy, khắc nghiệt với chính mình mà khoan dung hơn với người khác, và tôi nghe đồn là anh đã che chở, nâng đỡ cho nhiều người trong phạm vi có thể, trong những ngày khó khăn nào đó. Hơn thế nữa, trong anh là một tâm hồn lãng mạn : không chỉ « lãng mạn cách mạng », mà còn lãng mạn theo nghĩa… thông thường. Không quen biết thì khó hình dung được con người ấy lại rất mê nhạc lãng mạn phương tây. Tôi còn nhớ một kỷ niệm nhỏ : vào dịp cưới vợ chồng tôi, trong mớ quà mừng của anh chị, anh chọn tặng tôi đĩa bản concerto pour piano của Grieg, và đĩa bản nhạc concerto pour violon của Brahms, trong khi tôi lại ưa nhạc baroque hay xưa hơn nữa. Có điều nữa là anh Ngọc rất ghét nhạc Offenbach ; lý do là theo anh, nhạc Offenbach dính liền với French Cancan (13), với vui chơi đùa giỡn. Nhưng thực ra, nhạc Offenbach đâu chỉ có vậy : tính nhạo báng, giễu cợt và « bất kính » cũng không loại trừ vẻ đẹp của âm điệu. Nhưng vào thời điểm mà nước nhà đang khói lửa, thái độ của anh cũng dễ hiểu.
Bên gia đình chị T. ở Sài Gòn có những người có địa vị cao cấp, ngay cả trong quân đội, mà anh Ngọc rất thân thiết. Anh ấy về Sài Gòn rồi, chị T. ở lại lo việc làm ăn, nuôi con và tiếp tế cho gia đình của chị và của anh còn ở miền Bắc. Có một khoảng thời gian, chị T. nhờ vợ tôi dạy học thêm cho cháu H. chủ yếu là về Toán vì chị không có khả năng ấy. Rồi sau đó đến lượt ông A. Grothendieck, thay vợ tôi, đảm nhiệm việc này. Ông Grothendieck, huy chương Fields, thuở ấy là giáo sư tại Institut des Hautes Etudes scientifiques, tổ sư của ngành Hình học Đại số, được đa số giới toán học coi là một nhà toán học lớn nhất của thế kỉ 20. Thuở ấy cũng là chỗ quen biết thân thiết. Nhà ông bà Grothendieck cũng gần, ông bà rất có cảm tình với Việt Nam, đã có lúc chứa những người Mỹ trốn lính ; ông là một trong những nhà khoa học tích cực ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi đã có dịp nói lướt về ông, trong bài tôi viết về ông L. Schwartz trong cuốn sách (5) đã dẫn. Năm 1967, ông có sang Hà Nội, giảng dạy làm xê-mi-na trong vùng sơ tán. Nhưng ông cũng là người khá kỳ dị, từ cách ăn mặc, đến cách cư xử, rất ngay thật, tận tụy, nhưng hoàn toàn không nhân nhượng, làm cho nhiều người không hiểu được. Sau này, ông ta dứt bỏ Toán học – có giả thuyết cho rằng tại ông thất vọng không giải được mấy bài Toán khó còn đang mở – cắt đứt quan hệ với mọi người kể cả gia đình, ở ẩn nơi nào, không ai biết điạ chỉ nữa.
Trở lại câu chuyện anh Ngọc về Sài Gòn, tôi không có dịp liên lạc. Sau Tết Mậu Thân 1968, ông Phạm Mậu Quân có về thỉnh giảng ở Đại học Sài Gòn ; lúc trở lại Pháp – lúc đó ông ấy và tôi còn cùng đang dạy ở Đại học Lille – ông kể cho tôi biết là ông ấy giận anh Ngọc lắm. Lý do ông nêu là đúng vào bữa ông thuyết trình, anh Ngọc cũng làm một buổi thuyết trình cùng ngày cùng giờ cùng đề tài, làm giảm số người đến nghe ông ấy. Thêm vào đó, ông lại càng giận vì bà khoa trưởng (có lẽ là bà giáo sư Trần Ngọc Tiến) bữa đó có con ốm không tới giới thiệu ông ấy với cử tọa được. Thời đó, mấy người giáo sư đại học đều ở trong cái tòa nhà, số 274 đường Công Lý (sau gọi là Nam Kỳ Khởi nghĩa), chả biết ông Quân có nghi sự trùng khớp đó là « không ngẫu nhiên » không (14).
Về Sài Gòn rồi, tôi có nghe kể là anh Ngọc quay ra « nghiên cứu » chiêm tinh, và có lời đồn đại về tài nghệ bói tử vi của anh, điều mà tôi không thấy anh nói tới khi còn ở Pháp. Một trong những lý do được giải thích sau này là anh sử dụng cái vỏ đó để làm công tác điệp viên, như bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, viết : « Nghe đâu, Giáo sư, TSKH Nguyễn Đình Ngọc là người được giới chính trị cấp cao chính quyền Sài Gòn [chú thích của BTL : có lẽ là gia đình họ] hay cậy nhờ xem về hậu vận, ở một vị trí với uy tín vỏ bọc thuận lợi như thế, những tin tức tình báo chuyển về An ninh Trung ương Cục sẽ vô cùng có giá trị ». Có điều là sau ngày thống nhất, rồi ngay cả khi đã trở ra Hà Nội nhận công tác mới, anh còn tiếp tục bói tử vi ; có người còn khen tài nghệ của anh là « quỷ khốc thần sầu » (anh HTB cho biết rằng ở Hà Nội thuở ấy có dư luận cho là có 3 vị xem tử vi hay: nhạc sĩ Hồng Đăng, ông Trần Quốc Vượng, và anh Nguyễn Đình Ngọc). Anh muốn gây ảnh hưởng với ai, hay là chính anh cũng đâm ra tin ? Đọc trong cuốn sổ lưu niệm đám tang anh, tôi thấy có một ông thiếu tướng, tiến sĩ KHKT quân sự, chủ nhiệm Bộ môn Cận Tâm lý thuộc Trung tâm nghiên cứu tài năng con người, khi nhắc đến sự trao đổi với anh, viết : «[...] cố gắng tìm hiểu một số vấn đề bí ẩn mà chính chúng ta cũng chưa giải thích ». Nhưng xem chừng như « Bụt chùa nhà không thiêng », nghe nói anh quyết anh sẽ còn sống thêm mấy tháng nữa, nhưng bệnh tật đã làm cho lời đoán không nghiệm. Nhưng đó là chuyện phụ.
Sau chiến tranh, năm 1977, nhân một dịp về nước, tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, mới gặp lại anh trong một bữa cơm riêng tại nhà người bà con, ở ngôi nhà 274 Nam Kỳ Khởi nghĩa đã kể trên. Khi ấy anh chưa ra Bắc nhận công tác mới. Lại nghe nói là anh còn trong đợt « chờ đợi kiểm tra ». Điều này, bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006, cũng có viết lướt : « Càng leo cao, người tình báo như ông càng cô đơn trong thực hiện nhiệm vụ, đó sẽ là điều dường như Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc muốn gửi gắm cho đồng nghiệp trẻ. Bởi có thời gian, do hoạt động đơn tuyến, ông cũng bị đặt nhiều dấu hỏi; thậm chí đến sau giải phóng miền Nam năm 1975, nhiều người trong lực lượng Công an còn chưa biết Nguyễn Đình Ngọc là ai, cả khi năm 1988, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Cục trưởng Cục Khoa học và Kỹ thuật và tháng 10/1994 được phong hàm Thiếu tướng ». Tối hôm đó, khi chở tôi về khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi bằng xe đạp, tôi có hỏi anh về chuyện gia đình, anh có tâm sự một số điều. Về những lý do gì để cặp vợ chồng anh bị rạn nứt, anh có lời giải thích riêng. Tôi cũng đã nghe chị T. giải thích và tôi biết là sau 1975, Bộ Nội vụ nhiều lần cố gắng tạo điều kiện để chắp nối lại, nhưng việc không thành. Tôi biết nói gì hơn, khi tôi biết chị đã khóc cạn nước mắt trong nhiều năm, và dường như từ lâu nước mắt của anh đã chỉ « chảy vào bên trong ». Lời đồn và sự thật ? Anh và tôi vốn đều không ưa để lộ tình cảm, nhưng tối hôm đó hình như anh nhận thấy tôi lén chùi khóe mắt, anh im lặng nắm vai tôi hồi lâu trước khi chia tay.
Rồi đến năm 1981, lần cuối cùng tôi về nước, trong buổi « Đoàn trí thức » tụi tôi trình bày về « hồ sơ Việt kiều : tiềm năng trí thức, kinh tế, vv. » (15) ở Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, anh có lại nghe, nhưng bữa đó đông người và tôi rất bận, nên chỉ kịp nói với nhau mấy câu chào hỏi. Rồi giữa anh và tôi cũng không có dịp liên lạc gì trực tiếp.
Mấy năm sau (tôi không nhớ kỹ thời điểm), tình cờ trong một buổi chiêu đãi ở Sứ quán ta ở Paris, vợ chồng tôi thấy anh Ngọc lại tìm tụi tôi : anh đi trong phái đoàn ông Bùi Thiện Ngộ (Bộ trưởng bộ Nội vụ, thuở ấy hình như chưa tách ra bộ Công An) sang hợp tác với Pháp về Interpol, và mua trang bị cho Bộ Nội vụ. Nhìn thấy anh mặc bộ « đồ lớn » complet-veston có cả gilet, tôi cười hỏi rằng có phải là bộ đồ của ông thân sinh anh thuở xưa không ? Anh cũng cười và ngạc nhiên là tôi vẫn còn nhớ : vốn là thuở còn ở trong dưỡng đường ở Sceaux, một buổi tối, tôi ghé qua phòng anh, thấy anh đang dùng bút mực xanh để « chấm » các sợi chỉ đỏ trên bộ quần áo của ông thân sinh anh, thuở ông còn làm y sĩ trước thời cách mạng, bộ quần áo mà anh mang theo sang Pháp thời còn là sinh viên – anh không ưa các sợi chỉ đỏ trên bộ áo mầu xanh đậm, nên phải bỏ ra mấy đêm mới « chấm » hết các sợi chỉ đỏ đó trên bộ áo. Kể vậy để thấy tính con người anh như thế nào. Lần đó, tôi có nhắc nhở đến chuyện gia đình, nhưng anh vẫn không muốn gặp lại vợ con. Lúc ấy có tin đồn anh đã có « người bạn đời » từ một thời gian.
Anh Ngọc có lẽ cũng do nghề nghiệp điệp viên, ít khi nhắc kỹ đến gốc gác thời mình còn học ở Pháp. Tôi nhớ câu chuyện sau đây : Giới khoa học Pháp – trong đó có các nhà Toán học – thuở chiến tranh và ngay sau chiến tranh, có nhiều cảm tình với Việt Nam, nên nhiều người tự nguyện đi Việt Nam giảng bài, làm xêmina, vv. Có một lần ông F. Bruhat, giáo sư Đại học Paris 7, cũng là nhà toán học có tiếng, đi Việt Nam về, bảo tôi : « Lúc làm thuyết trình, tôi có được một người phiên dịch tuyệt vời, rất uyên bác, tên là Ngọc, anh có quen không ? ». Tôi hỏi lại: « Anh ta không nói gì với anh về những năm anh ta ở Pháp à ? Và anh cũng quên hết về anh ta rồi sao ? Chính anh là thành viên của ban giám khảo luận án của anh ta, và chính anh là người đã ra cái đầu đề « luận án thứ hai » cho anh ấy đấy mà ! ». Cần nói thêm cho dễ hiểu : thời đó, khi bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước ở Pháp, ngoài việc bảo vệ cái luận án « chính », có lệ là ban giám khảo còn buộc thí sinh phải trình bày một giáo án trên một đề tài mà ban giám khảo trao cho, trong một lĩnh vực xa lạ với đề tài của cái luận án « chính », và chỉ được soạn giáo án này trong một thời gian giới hạn (vài ba tháng), để kiểm tra khả năng tiếp thu của thí sinh. Không nói gì với ông Bruhat là cố nhân, phải chăng cũng là một thứ méo mó nghề nghiệp điệp viên ? Ngay cả năm ngoái, khi con nhớn của tôi cùng đồng nghiệp ở nước ngoài về tổ chức Hội nghị về Tin học RIVF'05 (Research, Innovation and Vision for the Future) ở Cần Thơ, anh có lại dự, và tự giới thiệu mình nay là « phóng viên khoa học ».
Tôi cũng nghe anh HTB kể : Tháng 2/2006 sau hội nghị RIVF'06 ở Thành phố Hồ Chí Minh có cuộc họp mấy người phụ trách RIVF bàn làm sao đưa Việt Nam và RIVF vào thành một section của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers). Bữa đó anh Ngọc cũng dự, rất yếu nhưng vẫn góp ý say sưa, nhanh lẹ như thường lệ.
Thuở xưa có ông Phan Kế Bính viết cuốn « Nam Hải dị nhân », kể sự tích về những nhân vật như Hai Bà Trưng, Bố Cái đại vương, Lý thường Kiệt, …, và Lê Như Hổ ngày ăn nổi một nồi ba mươi cơm, vv. Sau này, nếu ai có ý định viết một cuốn « Nam Hải dị nhân » mới, xin đừng quên nhân vật Nguyễn Đình Ngọc …
Trở lại chuyện gia đình, mãi những năm gần đây, mới có sự « liên lạc » trở lại giữa anh ấy và chị T. và cháu H. (từ lâu đã trưởng thành), sau mấy chục năm gián đoạn, có lẽ vì chị T. kiên trì tìm nối lại, nhưng sự hàn gắn thì không có. Chuyện đời tư của một « thường nhân » thì không nên nói tới, nhưng khi một nhân vật đã có danh (tôi muốn nói : « homme public ») , thì trái lại cũng cần biết thêm để soi rõ hoàn cảnh của thời cuộc. Về anh Ngọc thì công lao tất nhiên là nhiều ; nhưng hy sinh và đau đớn thì cũng rất lớn, có thể nói là anh ít may mắn hơn một số người khác. Người ta đồn đại nhiều về anh ấy, nhưng mấy ai biết được sự thật ở chỗ nào ? Anh đã có lời phát biểu với một phóng viên : « […] người cán bộ điệp báo như một ngọn đèn dù công suất có lớn đến đâu thì cũng không có giá trị tự thân. Phải có một sợi dây liên lạc, một cách thức để truyền thông tin, không có điều này thông tin mà người điệp báo thu thập được không có giá trị gì cả ». Tôi đoán rằng tuy anh không nói tiếp ý của anh, có thể anh cũng đã không quên rằng có những người khác đã góp phần tạo điều kiện cho anh thực hiện được sứ mạng của anh. Chị T. bảo tôi rằng nếu vào những giai đoạn cuối, chị và cháu nhiều lần về thăm anh những ngày bệnh anh đã nguy kịch – anh như « sống lại » mỗi lần gặp lại cháu – là vì chị nhớ tới lời ước mong của anh thuở công tác tính mạng còn như treo sợi tóc (sợ chị và cháu bị kẻ địch bắt làm làm con tin vì công tác của anh) : ước mong có chị và cháu ngồi cạnh anh khi anh nhắm mắt. Điều mong ước ấy, có thể giờ chót anh còn nhớ chăng.
Tôi có được chị T. cho xem mấy tấm hình đám tang anh, do Bộ Công An tổ chức. Thấy có tấm trướng đề « Vô cùng thương tiếc … », linh cữu phủ quốc kỳ, có hàng chữ « vì an ninh tổ quốc », có đội túc trực danh dự, có dàn nhạc mặc binh lễ phục trắng, có hàng trăm vòng hoa, có hình ảnh mấy ông tướng công an tới viếng … Thấy bà « bạn đời » chít khăn đen cùng anh em bà và « cậu con nuôi » đứng ở đầu linh cữu, rồi đến cháu H. và chị T. cùng thân quyến chít khăn trắng, thấy cháu H. mang bát cơm có cắm hai chiếc đũa « chẻ » – một tập quán từ thuở xa xưa mà tôi đã bẵng quên – thấy cậu con nuôi mang bát nhang. Rồi lại thấy lọ tro sau hỏa táng ; nghe nói anh mong được chôn cạnh mộ cha mẹ anh. Lại đọc cuốn sổ tang, thấy ghi lời lưu niệm của bạn đồng học thuở trường trung học Chu Văn An, của đồng nghiệp sau này, của học trò anh, … ; cũng thấy có lời ghi nhắc đến một vài sĩ quan cao cấp của chính quyền Sài Gòn, lại thấy có cả lời ghi của một người nước ngoài bằng tiếng Pháp mà cảm tình chắc là phải lớn : « Chào tạm biệt và hẹn tái ngộ một ngày sắp tới » (Au revoir et à bientôt).
Những người thuộc thế hệ anh Ngọc đã phải trải qua những cảnh éo le, có thể nói là rất đau khổ. Có người tham gia cuộc chiến vì lý tưởng, vì bổn phận, có người vì thời cuộc đẩy đưa , chắc chẳng có mấy ai vì công danh như lời thơ « Chinh phụ ngâm » :
Chàng tuổi trẻ vốn
dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên
theo việc đao cung …
Nhiều hoàn cảnh cũng không hẳn như lời bài ca « Quand un soldat » (« Khi người lính ») – có lẽ phải gọi là bài thơ tự phổ nhạc – của Francis Lemarque, năm 1952, ở Pháp. Thuở ấy, tôi nghe mà thấy dửng dưng ; nay đọc lại lời thơ, cũng thấy rung cảm. Tất nhiên, tác giả chỉ nói cảnh người lính đi chiến đấu không lý tưởng, nằm ngoài khuôn khổ của những lý do « chính đáng » vv. Tôi không phải là « dịch giả », mà là « dịch dở », nên xin chỉ tạm tóm lược đại ý vài câu, rồi chép nguyên văn bài thơ tiếng Pháp trong chú thích (16) dưới đây:
Chàng đi
chiến chinh ; trở
thành
nguyên soái, đó là
mong ước.
Trên đường về, quần áo bẩn đeo
vai, chân chàng bước.
Ra đi lúc
tuổi đôi mươi ; chiến tranh đếm xỉa gì
đến
tình yêu,
đến lời thề ước.
Hết
chiến tranh, may
sống trở về ; thôi, tạm coi là được!
Theo cuốn « Từ điển của Quỉ » (Dictionnaire du Diable) của Ambrose Bierce (1842-1914), dẫn trong cuốn « Les Miscellanées de Mr. Schott », nxb Allia 2005, « sự khâm phục [của mình đối với một người] » được định nghĩa là « cách lịch sự để công nhận sự giống nhau giữa mình và người đó ». Vì tôi hiểu như thế nên tôi không biết tán dương ; tôi chỉ biết kể những điều tôi được biết, với cảm tình và lòng thân ái.
Và
tôi nhớ tới câu chuyện : thuở trước
ngày
Tổng khởi nghĩa tháng tám 1945, trong rừng Việt
Bắc, cụ Hồ ốm nặng, nghĩ mình không sống
được, có dặn dò ông
Giáp :
« Lúc này thời cơ
thuận lợi đã
tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập »
(17).
Vì phải giành cho được độc lập thống nhất,
những đau khổ chồng chất trong mấy chục năm, trải qua
ngoại xâm, giết chóc, càn
quét, chia
lìa, ý thức hệ, cải cách ruộng đất,
cuộc chiến Nam Bắc, vv. cộng lại, xem ra cũng xứng với
cái hình ảnh tượng trưng « đốt
cháy
Trường Sơn » đấy chăng ?
Bùi Trọng Liễu (*)
__________________________________________
Chú
thích :
(*) Nguyên giáo sư Đại học Paris (Pháp)
(1) Tự sự của người xa quê hương, (tên gốc của sách là « Chuyện gia đình và ngoài đời »), Bùi Trọng Liễu, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
(2) Người lính già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường số 4 anh hùng, Đặng Văn Việt, nxb Trẻ, Hà Nội 2002.
(3) Hai mươi năm qua : 1945-1964, Đoàn Thêm, nxb Nam Chi Tùng thư, Sài Gòn 1965.
(4) Theo sách đã dẫn (3), chế độ quân dịch trong vùng Pháp tạm chiếm được ban bố ngày 15/7/1951 ; lệnh cấm thanh niên xuất ngoại ban hành ngày 7/8/1951 ; tới ngày 16/10/1951, có 15000 thanh niên bị nhập ngũ ; 1000 thanh niên có bằng « Trung học đệ nhất cấp » trở lên theo học trường sĩ quan Nam Định và trường sĩ quan Thủ Đức ; ngày 1/12/1952, gọi nhập ngũ các thanh niên từ 20 đến 28 tuổi có bằng « Cao đẳng tiểu học » để theo học các lớp sĩ quan.
(5) Chung quanh việc Học, Bùi Trọng Liễu, nxb Thanh Niên, Hà Nội 2004.
(6) Un mathématicien dans le siècle, Laurent Schwartz, nxb Odile Jacob, Paris 1997.
(7) Trách nhiệm của ông De Gaulle trong việc khởi đầu chiến tranh (của Pháp) ở Việt Nam là rất nặng. Nhưng từ năm 1963, ông ta nêu đề nghị trung lập hóa miền Nam Việt Nam, và năm 1964, kêu gọi chấm dứt mọi sự can thiệp cửa nước ngoài vào miền Nam Việt Nam. Trong thư gửi Hồ Chủ tịch, ngày 2/8/1966, Tổng thống De Gaulle viết : « Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giằng xé đất nước Ngài hôm nay ». Trong ngôn ngữ của một chính khách lão luyện, đó phần nào là sự nhìn nhận (tuy muộn màng) trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1945-1946. (Nguồn : Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), do ông Nguyễn Đình Bin chủ biên, với sự tham gia của các ông Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Trường, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Diên, vv., nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002).
(8) Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris, Võ Văn Sung, nxb Quân đội Nhân dân, 2005.
(9) Khác với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ Cách mạng Tháng tám 1945 mà ra, lại có sự thoái vị của vua Bảo Đại, trao lại quyền chính, thể hiện tượng trưng qua việc trao ấn kiếm ở Huế, trước ngày Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Rồi sau đó lại có ngày Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, bàu lên Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam. Ở đây, tôi chỉ nói về mặt chính quyền, không luận đến vấn đề ý thức hệ.
(10) Lại nhớ tới một giai đoạn của du học sinh Việt Nam tại Pháp, tôi muốn nói tới cái khoảng những năm trước và sau 1950 ít lâu. Cuộc sống cũng cơ cực lắm, chứ không « phây phây » như có người tưởng. Ngoại trừ những con em gia đình thật khá giả, một số gia đình gửi được con đi Pháp du học tự túc thuở ấy, là nhờ ở việc đổi tiền. Theo cuốn sách (3) đã dẫn, từ ngày 25/12/1945 tới ngày 10/5/1953, giá hối đoái 1 đồng bạc Đông Dương (piastre) là 17 francs Pháp – nhắc lại là đây là franc cũ, chưa phải là franc « nặng » thời ông De Gaulle trở lại cầm quyền thời Cộng hòa thứ V (franc « nặng » tồn tại từ 1960 đến 2002) – cho đến ngày 11/5/1953, chính phủ Pháp « đơn phương » phá giá đồng bạc Đông Dương, 1 đồng bạc Đông Dương chỉ còn bằng 10 francs Pháp, mà không hỏi ý các chính phủ các Quốc gia Liên Kết (Etats Associés) trong Liên hiệp Pháp (Union française) – nghĩa là các chính phủ Việt Nam của « quốc trưởng » Bảo Đại (tiền thân của chính quyền Cộng hòa Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm), và Miên, và Lào do Pháp dựng nên trong các vùng tạm chiếm – mặc dù theo các Thỏa ước ký với các chính phủ này, Pháp phải hỏi ý họ trước. Theo hai cuốn sách « Le trafic des piastres » của Jacques Despuech , nxb Deux Rives Paris, 1953, và « La guerre française en Indochine, 1945-1954 » của Alain Ruscio, nxb Editions Complexes, 1992 (cám ơn anh Vũ Ngọc Quỳnh đã cho tôi thông tin về hai cuốn sách này), trong khoảng 1945-1953 kể trên, do giá hối đoái được thặng lên – giá thực của đồng bạc Đông Dương lúc đó được ước lượng khoảng giữa 8,50 và 10 francs – có việc buôn lậu tiền. Một số chính khách và người thường, trở nên giàu to. Thí dụ như cuốn sách của Despuech kể là năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và vợ là bà Nam Phương chuyển sang Pháp 176.500.000 frs trên tổng số tiền chuyển 426.700.000 frs ; hoặc chuyện con gái của E. Bollaert (Cao ủy Pháp ở Đông Dương từ tháng 4/1947 đến tháng 10/1948) bị nhân viên hải quan khám ở sân bay Tân Sơn Nhứt thấy mang một bị đựng 50000 đô-la. Có mấy kiểu buôn tiền :
a) Chuyển đồng bạc Đông Dương thành tiền franc sang Pháp ;
b) Chuyển đồng bạc Đông Dương thành franc, dùng franc mua lậu đôla, dùng đôla mua bạc Đông Dương, chuyển đồng bạc Đông Dương thành franc (quay vòng như vậy).
c) Dùng franc mua đồng bạc Đông Dương ở Bangkok, HongKong, với giá 1 đồng bạc Đông Dương ăn 8 francs, mang tiền bạc Đông Dương đó về một trong ba nước Đông Dương (Việt, Mên, Lào), dùng tiền đó chuyển sang Pháp với giá 1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 francs (quay vòng như vậy).
Nhưng cũng nhờ sự buôn tiền này mà một số gia đình nghèo gửi được con sang Pháp học. Và tôi cũng được anh KV. cho biết là theo ông Hoàng Xuân Hãn kể : Nhờ có sự hối đoái thặng giá này mà nhà xuất bản Minh Tân (do ông Nguyễn Ngọc Bích thành lập) sống được và làm được mấy việc ích lợi : in lại các cuốn « Từ điển Hán Việt và Pháp Việt » của Đào Duy Anh với lời tựa ca ngợi kháng chiến, phổ biến ở vùng bị tạm chiếm ; « Danh Từ khoa học », « La Sơn phu tử » của Hoàng Xuân Hãn ; xuất bản « Từ điển thực vật học » của Đào Văn Tiến, và « Phénoménologie et matérialisme dialectique » của Trần Đức Thảo, vv. [Về tiểu sử ông Hoàng Xuân Hãn, tôi có viết một chút trong cuốn (1) đã dẫn. Còn ông Nguyễn Ngọc Bích : ông là bạn đồng học của ông Hãn ở Ecole Polytechnique (hình như khoảng năm 1928-30, hay sau đó một hay hai khóa) và sau đó trường Cầu Đường Ponts et Chaussées ; những năm đầu kháng chiến, ông hoạt động ở Khu 9 (Tây Nam Bộ) ; bị bắt sau một trận càn, và bị Pháp đưa sang Pháp ; sau ông lại học đại học y khoa và tốt nghiệp bác sĩ y khoa cuối 50, đầu 60 ; khoảng năm 1964 (sau đảo chính lật Diệm) ông về Sài Gòn, ra ứng cử tổng thống (danh sách Cao Đài) ; hình như mất ở Sài Gòn vào cuối những năm 60). Có một giai thoại : việc phá cầu trong kháng chiến, chỉ cần một khối lượng nhỏ chất nổ, đặt đúng chỗ là phá sập những cái cầu lớn mà người thiết kế lại là một kĩ sư cầu đường người Pháp học cùng trường (chuyện kể là cùng khóa), ông này từng nhận xét : "Biết phá như vậy phải là người biết xây, chắc chắn là Nguyễn Ngọc Bích". Đó lời tôi nghe anh KV. cho biết theo lời kể của ông Hãn. Nhưng tôi đọc trong cuốn sách « Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật », nxb Văn hóa, Hà Nội 1995, thấy kể câu chuyện phá cầu tương tự là công của ông Lê Tâm – kỹ sư Cầu đường ở Pháp về kháng chiến, mà tôi sẽ có dịp nói tới ở chú thích (14) dưới đây. Vậy tôi xin ghi luôn cả ra đây ].
Trở lại vụ buôn tiền và một số gia đình nghèo gửi được con sang Pháp học: vì hàng tháng mỗi người (thường dân) chỉ được chuyển một số tiền giới hạn, có những nhà nghèo huy động cả gia đình họ hàng gửi hộ tiền cho nhà giàu (bằng bưu phiếu, mandat-poste), rồi được trả lãi và dùng cái tiền lãi đó mà gửi cho con em mình du học ở Pháp sống. Thuở ấy, những du học sinh sống bằng cách này cơ cực lắm, có cảnh sống chung năm, sáu người trong một buồng trọ – thuở ấy ở Pháp còn đầy dãy những khách sạn cho thuê phòng ngủ hàng tháng, không có nước ; vòi nước và cầu tiêu chung ở cầu thang ; có khi không có sưởi – ăn uống rất kham khổ, một tuần mới đi tắm gội một lần ở các hiệu tắm công cộng lúc đó còn tồn tại. Nghèo đến cái mức đi thi còn có trường hợp không có đồng hồ đeo tay, phải mang theo trong cặp cái đồng hồ báo thức to bằng cái bát ! (Cái khoảng những năm ấy, còn nhiều chuyện buôn bán lậu vặt ; hàng rào thuế quan trong ngay mấy nước châu Âu chưa bỏ, có những người Việt Nam hoặc một vài tiệm ăn ở Paris, như một tiệm ăn gần kế Collège de France, bán lén đô-la hay đồng hồ Thụy-sỹ lậu, vv.). Kham khổ là một phần lý do tại sao có nhiều người bị bệnh lao. Học sinh ở ký túc xá trong trường cũng còn tương đối khá hơn. Sinh viên được ở trong Cité universitaire de Paris như « Nhà Đông Dương » (trong ký túc xá đại học), được coi là hạng sinh viên « bảnh ». Cái cảnh sinh viên ngồi quán cà-phê tán gẫu bàn thế sự, là chuyện hãn hữu, đôi khi là khoe hão hoặc là do sự tưởng tượng của người kể. Những năm sau, khi chính quyền Bảo Đại được Pháp nhả cho thêm một chút quyền, thì cũng có những học bổng cho sinh viên, và có những sinh viên có học bổng loại ấy để ăn học, nhưng « trái tim thì vẫn ở bên trái » ; đó là khởi thuỷ của cái câu « ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản ».
Vì tôi đã trải qua những thời khó khăn như vậy, nên tôi nhạy cảm với việc du học sinh trông đợi tiền của gia đình gửi sang để ăn học. Thời ông Diệm, đã hết chuyện buôn lậu tiền rồi , nhưng các gia đình có con đi học tự túc phải có sổ chuyển ngân mới được phép gửi tiền từ miền Nam sang Pháp. Ai mà có triệu chứng ủng hộ miền Bắc thì bị cắt sổ chuyển ngân. Tôi không nhớ cái việc chị T. bị nghi sau khi đi trại hè của phong trào Việt kiều, xảy ra năm nào. Nhưng cái lần mà tôi tới Tòa đại sứ của chính quyền ông Diệm để phản đối việc cắt sổ chuyển ngân của một số sinh viên, là vào khoảng cuối 1959 hay đầu năm 1960. Có anh C. của phong trào Việt kiều ở Pháp rủ tôi đi, thì tôi đi, và chỉ hai người chúng tôi ; có người khác được rủ nhưng không dám đi vì có gia đình ở miền Nam sợ bị khủng bố. Tôi không có ràng buộc ấy, và lúc ấy để mưu sống để tiếp tục soạn luận án, tôi đã tìm được việc làm ở Trung tâm nghiên cứu (Direction des Etudes et Recherches) của Electricité de France, nên chẳng sợ sức ép. Vả lại cái người nhân viên (cố vấn tòa đại sứ, mà nay ta gọi là tham tán sứ quán) tiếp chúng tôi hôm đó cũng chẳng phải là hoàn toàn xa lạ gì đối với tôi : người này, NTH, là con một bạn đồng liêu với bố tôi thuở còn làm quan ; em người này lại là bạn học với anh tôi thời chúng tôi còn học ở trường trung học Nguyễn Khuyến ở Yên Mô trong vùng kháng chiến từ 1947 đến 1949. Bữa đó, người nào nói thì người nấy nghe, xong rồi thì hồn ai nấy giữ…
Còn những du học sinh mà gia đình ở lại miền Bắc thì đành phải tự lo liệu. Trong rất nhiều năm sau đó, không có du học sinh từ miền Bắc sang Pháp, hiếm hoi mới có một vài thực tập sinh sang tu nghiệp…
Vì đã phải trải qua và chứng kiến những giai đoạn đó và những giai đoạn khó khăn khác, nên tôi rất thông cảm với những ai không gặp may trong việc học hành và trong địa vị xã hội ; đồng thời tôi cũng rất trân trọng với những ai đã may mắn thành công ; khi người ta phải sống, ăn, ở, học trong những hoàn cảnh như kể trên, thì đi thi đỗ được cũng là chuyện mừng rồi, nói gì đến chuyện tranh đua với người khác.
(11) Nhân đây xin nói thêm, tôi không quen ông Phạm Hoàng Hộ, nhưng có nghe tiếng. Tôi chỉ thấy ông ấy có một lần, nhưng là sau này, trong một trường hợp đặc biệt : Vào tháng 11/1984, ông Võ Văn Kiệt lúc ấy đang là Phó Thủ tướng, nhân chuyến công du ở An-giê-ri, trên đường về, ghé qua Pháp; vì ông ít thì giờ, Hội người Việt Nam tại Pháp tổ chức một bữa ăn trên thuyền máy đi chơi (bateau Mouche) trên sông Seine, để vừa được tiếp ông, vừa để ông thăm phong cảnh Paris luôn thể. Anh chị em chỉ định tôi ngồi cạnh ông Kiệt để khi thuyền đi qua, tôi giới thiệu với ông những thắng cảnh và di tích lịch sử cổ dọc bờ sông : tháp Eiffel, điện Louvre, Viện Hàn Lâm, vết cũ của Tour de Nesle, Palais de Justice xưa là cố cung, Hôtel de Ville, Nhà thờ Notre-Dame, vv. Bữa hôm đó, còn có hai người (ngoài Hội người Việt Nam) cũng được mời : một người là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, một người nữa là ông Phạm Hoàng Hộ (lúc ấy được phép từ Việt Nam sang làm việc một thời gian ngắn ở Museum d’histoire naturelle thuộc Đại học Paris, hình như sắp hết hạn). Tôi có nghe kể là ông Hộ sau ngày Giải phóng được chính quyền coi như là nhân sĩ, nhưng cũng gặp khó khăn trong công việc, và đời sống rất cơ cực ; lúc ông ở Pháp như kể trên, thì hình như một phần gia đình ông đã định cư ở Ca-na-đa ; vì thế ở thời điểm nói trên có tin đồn là ông ở lại không về ; có lẽ vì vậy mà ông Kiệt mời chăng, tôi không biết thực hư thế nào. Ông Hộ có mặt bữa đó nhưng ít nói, hầu như lặng im suốt buổi (tôi chỉ thấy ông ta có một lần ấy thôi). Dưới đây là lời chứng của anh HMĐ gửi cho tôi qua e-mail ngày 19/7/2006, tôi xin chép lại, nhưng không có lời bình vì tự tôi không biết : Ông Hộ là tác giả của quyển « Cây Cỏ Miền Nam » hiện chỉnh biên thành « Cây Cỏ Việt Nam » và sắp tới sẽ được in sau hằng chục năm chờ đợi. Năm 1961 ông có viết thư gửi Tòa Đại sứ Mỹ phản đối việc sử dụng chất khai quang và năm 1970 cùng với Meselson & al. tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của Agent Orange trên môi trường sinh thái ở miền Nam Việt Nam. Ông cũng đã góp sức lực xây dựng cơ sở vật chất và lực lượng giảng dạy và nghiên cứu cho Viện Đại học Cần Thơ. Sau 1975 ông được bổ nhiệm hiệu phó Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ; ông chống lại việc tuyển sinh theo lý lịch và từ chức hiệu phó…
(12)Collège de France là một cơ sở nghiên cứu bậc nhất của Pháp ; tôi đã có dịp giới thiệu một chút về cơ sở này trong bài « Giáo dục đại học : Những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng », đăng trên báo mạng « Thời Đại Mới » số tháng 11-2005 :
http://www.thoidai.org/ThoiDai6/200506_BTLieu.htm
Vì chữ Collège nên có một số người Việt Nam hiểu lầm, và có câu chuyện vui sau đây : vào năm 1950, lúc tôi tới Pháp, có cậu học sinh tìm đến cơ sở này để xin vào học classe de seconde (lớp 10 của ta hiện nay) vì thấy chữ Collège nên ngỡ là trường trung học.
Nhân nói đến ông Lichnérowicz giáo sư ở Collège de France, và hướng dẫn rất đông nghiên cứu sinh làm luận án (tiến sĩ nhà nước) trong đó có nhiều ông Việt Nam, tôi muốn kể có câu chuyện này nữa : Ông G. Poitou, giáo sư Toán Đại học Paris-Sud, hiệu trưởng Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm, có một lần « tâm sự » với tôi rằng ông Lichnérowicz là một nhà khoa học lớn, hướng dẫn nhiều luận án, nhưng không có luận án nào xếp « hạng nhất » cả. Nói xong, ông ta lại tủm tỉm cười, nói tiếp rằng ông ta tự đánh giá luận án của ông ta chỉ vào « hạng ba » thôi. Tôi nghĩ thầm : sao ông lại nói với tôi như vậy, hay là ông cho rằng mấy ông Việt Nam ưa xếp hạng ngôi thứ ? Lúc đó, tôi cười trả lời ông ta rằng : tôi không ưa xếp ngôi thứ, luận án của tôi xếp vào hạng thứ bao nhiêu cũng được, miễn là « được việc » thì tôi mừng rồi. Tôi nói như vậy vì lúc đó ông Poitou đang nhờ tôi giải quyết một việc mà ông ấy không tự giải quyết nổi.
Câu chuyện chi tiết là như thế này : Khi nhậm chức hiệu trưởng Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm –mà nhiệm kỳ là 5 năm, và theo truyền thống thì cứ luân phiên : nếu hiệu trưởng lần trước là giáo sư ngành văn-khoa học xã hội, thì lần sau là giáo sư ngành khoa học, và quay vòng như thế – ông Poitou có đề án cải cách trường. Nhưng như ông ta đã nhận xét thuở đó : trường như cái nhà « trống » – không có bằng cấp riêng (học sinh thi bằng cấp của Université), không có giáo sư riêng (giáo sư là giáo sư Université) – chỉ có cái « tiếng » thôi. Có điều mà mà ông không nói, đó là vì cái « tiếng » mà cựu học sinh tương trợ, bênh vực nhau lắm ; tôi là kẻ « ngoại đạo », nên biết thân phận. Vì trường như cái nhà « trống », nên ông không có « quân ». Để lo cái đề án cải cách trường, ông chỉ có thể trông cậy vào sự « tự nguyện » của một vài cộng tác viên không công. Trong đám đó, kẻ đắc lực nhất là một tay giáo sư ở một đại học địa phương ; y cũng là cựu học sinh xuất sắc của trường và đã là giáo sư bậc cao. Y « tự nguyện » làm việc, nhưng lại … có ẩn ý : y cũng là « giáo sư vù » như kể trên ; nhà y ở Paris chỉ cách trường có độ trăm mét, vì thế nên sau một thời gian giúp ông, y muốn được chuyển về Paris. Y năn nỉ với ông giúp y, lại viện cớ y có cha già bệnh tật phải trông nom, vv. Ông đã trót « nhận sự giúp đỡ » của y, nên phải đành trả nợ – đây là một nét đàng hoàng của ông – nhưng ông giải quyết không được, nên phải nhờ tôi.
Để tôi kể cặn kẽ một chút, kẻo ai không hiểu thủ tục nơi đây, lại tưởng là tôi kể chuyện hoang đường. Nhắc lại là ở Pháp, tuyệt đại đa số các đại học đều là công lập, và đội ngũ nhà giáo hữu cơ đều là công chức, nhưng cách tuyển dụng thì khác với các loại công chức khác. Cũng nhắc lại là ở nơi đây, cũng như ở nhiều nước khác, giáo sư đại học là một « chức vụ » gắn liền với một « chỗ làm (giáo sư) » (emploi de professeur) ở một đại học ; muốn có chức danh giáo sư thì phải đợi có một « chỗ làm » ở một đại học nào đó : hoặc là « chỗ làm trống » do người đảm nhiệm về hưu hay thuyên chuyển đi nơi khác (emploi vacant) , hoặc là có « chỗ làm mới » mới do Chính phủ, qua Bộ Giáo dục, đặt ra (emploi créé). Mỗi năm, tùy theo ngân quĩ nhà nước gia giảm, Bộ báo cho trường biết có bao nhiêu « chỗ làm trống » hoặc « chỗ làm mới ». Rồi mới đến lượt Hội đồng tuyển dụng của nhà trường (commision de spécialistes) xét hồ sơ các ứng viên, và bàu chọn để tuyển một người vào mỗi « chỗ làm » đang có: kiểu bàu chọn như vậy, tiếng Pháp gọi là « cooptation ». Có hai loại ứng viên vào một « chỗ làm (giáo sư) » ở một đại học :
(i) Hoặc là đang là giáo sư đang tại chức ở một đại học Pháp nơi khác, nộp đơn để ứng cử vào chỗ làm đó ; (tuyển chọn trường hợp này gọi là « mutation »).
(ii) Hoặc là ứng viên chưa phải là giáo sư ở một đại học Pháp. Trong trường hợp này, người ứng viên phải : a) có bằng cấp tối thiểu – thuở trước, trong ngành Toán, là tiến sĩ nhà nước (Doctorat d’Etat) ; bây giờ là tiến sĩ + HDR (Habilitation à Diriger des Recherches) ; b) phải được Hội đồng khoa học toàn quốc (ngày xưa gọi là Comité Consultatif des Universités, ngày nay gọi là Conseil National des Universités) xét hồ sơ và công nhận « khả năng trở thành giáo sư đại học » (tiếng Pháp gọi là được ghi tên trên « liste d’aptitude aux fonctions de professeur des universités ») .
Vì các ứng viên đã được chọn lọc trước như thế để bảo đảm mức độ chung cho cả nước (nước Pháp là nước có chính quyền tập trung !), Hội đồng tuyển dụng của nhà trường khi bàu chọn một ứng viên nào đó, thì trên nguyên tắc, cũng không sợ bị phê phán là chọn người dốt. Còn lại là vấn đề hễ đông người thuận trong hội đồng tuyển dụng thì được tuyển. Việc bổ nhiệm (do Tổng thống Pháp ký sắc lệnh) chỉ là hình thức long trọng và hợp pháp hóa (vì giáo sư đại học là công chức), chứ trên thực tế chính quyền không can thiệp vào việc tuyểnchọn. Thuở ấy, chỗ giáo sư ở đại học Paris còn « đắt », rất đông người ham, tranh rất khó. Cái tay cộng tác viên của ông Poitou, bình thường mà nói, rất ít khả năng chen chân được, vì thế ông Poitou mới nhờ tôi, vì ông biết tôi là chủ tịch hội đồng tuyển dụng của trường tôi – vì tình hình đặc biệt, đồng nghiệp trao cho tôi trách nhiệm này trong 7 khóa liền : 21 năm, đến tận ngày tôi nghỉ hưu ! Có điều là phù thủy dù có cao tay ấn, cũng khó trị âm binh, bởi vì Hội đồng tuyển dụng cũng như cái rọ chứa vừa cua, vừa cá, vừa tôm : cua thì bò ngang, cá thì bơi thẳng, tôm thì bơi lùi. Vì thế nên tôi mới bàn với ông Poitou là phải sử dụng « ngoại lệ » – bởi vì có « ngoại lệ » không viết trong văn bản qui định , đó là hình thức « transfert » (thuyên chuyển mang theo « chỗ làm ») : ứng viên xin chuyển về trường mới, mang theo « chỗ làm » của mình ở trường cũ về trường mới, và Bộ « đền » cho trường cũ một « chỗ làm » mới. Nếu được vậy, thì ứng viên không phải cạnh tranh với ứng viên nào khác cả. Nhưng cách làm « ngoại lệ » này có 2 khó khăn, mà bình thường rất khó vượt qua : (a) phải được Hội đồng tuyển dụng của trường « mới » chấp nhận ; (b) phải được Bộ chấp nhận « đền » một « chỗ làm » cho trường cũ. Phải giải quyết khâu (a) trước, và tôi đã mất nhiều nước bọt mỏi miệng mới thuyết phục được Hội đồng tuyển dụng của trường. Rồi đến lượt ông Poitou thuyết phục Bộ « đền ». Rốt cục là giải quyết xong. Có điều là trước khi việc giải quyết thành công, tuy chẳng có đòi hỏi gì, tay cộng tác viên của ông thề thốt đủ điều ; nhưng khi việc đã thành công thì lời thề cũng như mây khói !
Chuyện y đã vậy, nhưng còn có trường hợp tệ hơn. Tôi cũng đã giúp một cách tương tự một thằng bạn học cũ thời còn soạn luận án, đưa được nó về trường tôi. Đến khi chỗ « trưởng Khoa » trống, và tôi dứt khoát từ chối không nhận làm, thì thằng này xung phong vì nó thích làm quản lý để khỏi làm nghiên cứu ; tôi cũng giúp hắn. Được làm « trưởng Khoa » rồi – mà chủ yếu là quản lý những công việc điều hành hành chính sự vụ, tiền bạc, thời khóa biểu, phòng ốc, sinh viên, vv. – hắn bị đồng nghiệp chê là trở thành một « tiểu độc tài » (petit dictateur). Một bữa hắn làm quá, tôi giận mới đem một tích xưa ra mắng hắn ; đó là câu : « Qui t’a fait roi ? » (dịch thoát nghĩa và cho hợp với ngữ cảnh, là : « Mi có nhớ ai đưa mi lên tới địa vị này không ? » ; tôi sẽ giải thích, dưới đây, gốc gác của cái tích lịch sử Pháp này). Nhưng hắn cậy là bạn cũ của tôi, và vì cái mặt của hắn còn trơ hơn cái mặt thớt, nên hắn nhăn nhở cười và cũng đem chữ nghĩa ra trả lời tôi bằng câu : « On ne peut être trahi que par les siens » (dịch thoát nghĩa là : « Chỉ có người cùng cánh mới có thể phản nhau », bởi vì – ít nhất là trong tiếng Pháp – khi đối phương, kẻ địch hại nhau, thì không thể dùng chữ « phản » được).
Bây giờ tôi xin kể lịch sử của cái câu : « Qui t’a fait roi ? » nói trên đây. Năm 987, vua Louis V chết không có con nối. Thuở ấy, nhà vua yếu, nhiều nhà quyền quí cai trị đất đai của mình như những « sứ quân ». Một trong những người đó, Hughes Capet, được bàu làm vua (mà dòng họ trị vì kéo dài đến tận cách mạng 1789, cộng thêm đoạn « tái lập » quân quyền (Restauration) 1815-1848, vv.). Lên ngôi, nhưng trên thực tế, nhà vua cũng chỉ là một thứ « sứ quân », thế lực còn yếu hơn vài « sứ quân » khác – nhà vua chỉ thực sự cai quản được một vùng đất đai trải quanh thủ đô Paris và kéo dài tới Orléans cách khoảng 200 km phía nam. Nhưng nhà vua khác với các « sứ quân » khác ở chỗ là, với sự ủng hộ của giáo hội Thiên chúa giáo đang là quốc giáo, khi được các « sứ quân cử tri » bàu lên, họ công nhận nhà vua có « thiên mệnh » trị vì để mang lại hòa bình và an cư lạc nghiệp cho dân cư trên toàn lãnh thổ. Tuy vậy, vua yếu nên phải nương nhẹ các « sứ quân ». Vào một dịp tranh chấp đất đai, nhà vua mắng « sứ quân » Adalbert de Périgord, (mà nhà vua đã phong cho tước hầu trước đó), rằng : « Qui t’a fait comte ? » (nghĩa là « [Ngươi không nhớ] ai đã phong cho ngươi tước hầu [à] ?), viên này trả lời bốp chát : « Qui t’a fait roi ? » (nghĩa là « [Ngươi không nhớ] ai đã [bàu] cho ngươi làm vua [à] ? »). Dịch chữ « t’ » tiếng Pháp ở đây rất khó, bởi vì tiếng Việt phân biệt ngôi thứ trên dưới ; tôi đành tạm dịch thoát nghĩa là « ngươi », nghe hơi xấc, nhưng không quan trọng, bởi vì với thời gian, người Pháp ngày nay chỉ nhớ câu « Qui t’a fait roi ? » theo nghĩa : « Mi vô ơn, mi đã quên ai đã đưa mi lên tới địa vị ngày nay à ? ».
Nhân nói đến trường Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm, mà trong giới đại học, (thường gọi tắt là Normale ; cựu học sinh của trường này thì gọi tắt là normalien) tôi cũng xin kể một giai thoại sau đây : vào cuối thập niên 60, có một ca sĩ một thời khá nổi danh, có thể là vì sự thích bông đùa của anh ta. Tay này vốn có học thức, có bằng tiến sĩ cấp ba (docteur 3ème cycle) về Vật lý lý thuyết. Ca sĩ mà có bằng cấp thì cũng là chuyện hơi hiếm. Có vài nhà báo, quen bốc đồng, đồng thời chẳng hiểu đầu đuôi, mới tán rằng anh ca sĩ này là cựu học sinh của trường Normale. Có người hỏi vặn anh ta ; anh ta nhanh trí trả lời rằng : Có lẽ tại tôi nói [có lúc] tôi « anormal » (nghĩa là « bất bình thường, loạn trí »), nên nhà báo hiểu nhầm là tôi [thuở trước] « à Normale » (nghĩa là học trường Normale). Cũng vui, đặc biệt là cho những ai thích tán dương và những ai thích trộ. Còn ai muốn biết anh ca sĩ này là ai (tên « nghệ sĩ » của anh ta là gì), thì cứ tìm « tên » (tiếng Pháp gọi là prénom, tiếng Anh/Mỹ gọi là given name hay first name) của nhà toán học Galois (1811-1832) thì rõ.
(13) Nói tóm tắt,French Cancan là một điệu nhảy, chế ra khoảng năm 1850, lâu tám phút, với nhạc của Offenbach, bắt nguồn từ các điệu nhảy của các cô thợ giặt ở xóm Montmartre ở Paris giải trí trong những ngày chủ nhật sau những ngày làm việc vất vả. Khi nhảy thì tốc váy, dơ cẳng cao đến tận đầu. Quán hộp đêm Le Moulin Rouge có một đội nhảy nổi tiếng. Tôi ở Pháp lâu năm mà cũng chưa có dịp đi xem tận mắt. Có thuyết cho rằng khởi thủy đấy không phải là điệu nhảy để khêu gợi hay khiêu khích giới trưởng giả thượng lưu, đó chỉ cách diễn tả lộ liễu của sự vui chơi giải trí của giới bình dân, trước khi biến thể… Ai muốn hiểu sao thì tùy.
(14) Nói nốt vài lời về ông Quân. Năm 1969, khi tôi chuyển về Paris, thì ông Quân cũng chuyển về Paris, nhưng không cùng trường – tôi ở trung tâm Sorbonne, còn ông Quân ở trung tâm Villetanneuse ở ngoại ô Bắc Paris – nên không gặp nhau nữa. Chỉ có vào mùa xuân 1970, nhân dịp có một đoàn trí thức khoa học của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa từ Hà Nội sang thăm Pháp, tôi có mời ông Quân và đoàn ăn cơm ở nhà tôi, vì lẽ sau đây : đoàn gồm 3 thành viên, trưởng đoàn là ông Ngụy Như Kontum (lúc ấy đang là hiệu trưởng Đại học tổng hợp Hà Nội), ông Lê Tâm và một ông thứ ba mà nay tôi quên tên. (Mở ngoặc để nói 1 chút về ông Lê Tâm, tên thật là ông Nguyễn Hy Hiền, Việt Kiều cũ, tốt nghiệp trường Kỹ sư Cầu đường Paris, thời kháng chiến chống Pháp, ông là cố vấn khoa học kỹ thuật cho trung tướng Nguyễn Bình trong vùng kháng chiến Nam Bộ (xem cuốn « Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật », của Nguyên Hùng, nxb Văn học, Hà Nội 1995); nghe nói ông cũng là người chế ra ba-zô-min cho kháng chiến Nam Bộ, vì thời đó trong Nam không đủ phương tiện để chế ba-zô-ka như ngoài Bắc; sau ông ra Bắc có lẽ là vào lúc tập kết sau Genève. Ông rất vui tính ; ông kể cho tôi nghe một câu chuyện vặt, nhưng nó cũng là lời chứng cho một thời đầy khó khăn : Anh Lựu tôi, sau mấy năm du học Bách Khoa Grenoble ở Pháp, về nước năm 1956, tham gia vào nhóm đầu tiên giảng dạy Đại học Bách khoa Hà Nội. Thời ấy, nhà ở còn rất chật chội ; ít lâu sau khi về, cưới vợ, anh tôi được ông bà nhạc cho mượn một mẩu vườn để xây « nhà » ; gọi là nhà cho oai vì ở nội thành thủ đô, chứ kỳ thật đó chỉ là một « túp », có một gian lợp mái nứa, cửa sổ không kính, ghim bằng mấy tấm ni-lông. Không có tiền thuê thợ, mấy anh em bạn bè xúm lại « xây » giúp. Anh Lê Tâm kể là xây xong, thì « hạ cờ tây ». Thấy tôi ngơ ngác không hiểu, anh mới giải thích : « cờ tây » là « cầy tơ », nghĩa là liên hoan một bữa thịt chó!).
Trở lại chuyện ông Quân : sở dĩ tôi mời ông Quân với đoàn là vì ông Ngụy Như Kontum, xưa cũng là Việt Kiều ở Pháp, agrégé ngành lý-hóa, khi về nước khoảng năm 1939-40 dạy ở trường Bưởi lúc ông Quân học thi tú tài ở đó, nghĩa là ông Kontum là thày cũ của ông Quân. Vào cái năm 1970 đó, đang Hội nghị Paris, cần « thêm bạn, ít thù », nên tôi đã cố làm điều đó. Rồi bẵng tin ông Quân. Mãi đến năm 1975, khi chiến tranh đã chấm dứt, có một lần ông gọi điện cho tôi : ông kể cho tôi nghe là trước đó, ông có xin được của chính quyền Pháp một số tiền để trang bị sách vở, tài liệu vv. cho miền Nam, nhưng nay việc đó không thành, ông muốn tôi làm trung gian để chuyển cho chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Lúc ấy tôi từ chối, vì tôi nghĩ rằng (và cũng e rằng có người cho rằng) « khó nhận của thừa » ; vả lại số tiền ấy rồi chính quyền Pháp cũng phải dành cho nước Việt Nam thống nhất mà thôi. Sau này nghĩ lại, tôi thấy « ân hận » vì tôi đã không đủ mềm dẻo khi giang sơn đã thu về một mối và ông Quân lại tỏ thiện chí ; nhưng quả thật là ngay sau 30/4/75, tình hình còn căng lắm, và rất khó cho tôi. (Nghe nói sau đó ông có đặt lại vấn đề này với bác Hoàng Xuân Hãn, nhưng tôi không biết kết cục ra sao). Rồi tôi không còn dịp liên lạc với ông nữa. Mãi sau này, có lẽ là vào cuối thập niên 80, khi ông Nguyễn Như Kim sang làm tham tán Khoa học và Kỹ thuật ở Sứ quán ta ở Paris, ông nhờ tôi liên lạc với ông Quân, vì ông Kim và ông Quân vốn là bạn học cũ ở trường Bưởi. Nhưng lúc đó nghe tin ông Quân đã ốm nặng và ít lâu sau, đọc báo « Le Monde », tôi thấy cáo phó của trường của ông báo tin ông đã mất.
Nhân đây cũng xin nhắc một chút về ông Kim : một thành tích của ông trong kháng chiến là chuyến mang vàng đi mua trang bị cho kháng chiến chống Pháp. Trong cuốn sách « Tạ Quang Bửu, nhà trí thức yêu nước và cách mạng », Hội khoa học lịch sử Việt Nam xb, Hà Nội 1996, ông Nguyễn Như Kim viết (trang 231) : [Trong Kháng chiến] « Giữa năm 1948, Bộ Quốc phòng [ông Bửu] giao cho tôi nhiệm vụ đi công tác nước ngoài, với một số vàng rất lớn, để mua phụ tùng máy móc VTĐ [vô tuyến điện] cho đài TNVN [Tiếng nói Việt Nam] và cho quân đội, cùng với thuốc men và sách cho đại học.[…]. Chuyến đi này thực sự là một chuyến đi đời người (xem báo Văn Nghệ số 19, 13/5/1995), tôi đã cùng một số anh em Nam Bộ mang hết sức mình để thực hiện, chỉ còn chút ít nữa thì thành công, cuối cùng bị địch bắt sau khi đã phá hủy cả một con tàu hàng hóa ». Về sự việc này, cũng trong sách đã dẫn (trang 166-168), ông Hà Đổng kể kỹ hơn : ông kể là số vàng mà ông Kim mang đi Thái Lan là 15 kg (nhắc lại là vào thời điểm đó, 1948, chưa một nước nào công nhận Việt Nam ; Việt Nam chưa muốn « ý thức hệ hóa » cuộc chiến tranh còn đang trong « đường lối trung lập công khai » trên chính trường thế giới và Thái Lan là con đường duy nhất mở ra nước ngoài). Ông Kim đã mua được các thứ cần, và đã thuê được một máy bay Catalina định chở về Việt Nam. Nhận được tin đó, ông Bửu trao cho ông Hà Đổng nhiệm vụ vào Khu 4 làm một sân bay. Cùng đi với ông Hà Đổng, có một chuyên viên là phi công người Đức tên là Schulze vốn là hàng binh. Đi qua Quỳnh Lưu, hai ông bị dân quân bắt vì tưởng là Pháp và Việt gian, sau vì có giấy giới thiệu của ông Giáp nên qua được khó khăn. Chọn được địa điểm, làm xong sân bay, thì được tin là người chủ chiếc máy bay mà ông Kim thuê, sợ rủi ro, không cho thuê nữa. Thế là ông Kim phải đi bằng đường thủy. Đến vùng biển Thanh Hóa, bị tàu Pháp vây, ông Kim phải đốt tàu và bị bắt. Ông Kim bị tù một năm trong vùng tạm chiếm ; sau khi được thả, ông sang Pháp học, rồi năm 1956 được ông Bửu gọi về Hà Nội tham gia xây dựng Đại học Bách khoa vv. . Sau ông phụ trách Viện thông tin Khoa học Kỹ thuật, trước khi sang Pháp làm tham tán.
(15) Tôi nhớ lần gặp anh Ngọc đó, vì dịp ấy, tôi vấp một chuyện « kỳ ». Dịp đó, « Đoàn trí thức (ở Pháp) » chúng tôi về nước do lời mời của Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởngVõ Nguyên Giáp để nghe và trình bày ý kiến của mình về chính sách khoa học và kỹ thuật của đất nước, đồng thời đặt cơ sở cho việc đóng góp chuyên môn sao cho có hiệu quả, có năng suất của trí thức Việt Nam ở nước ngoài, với nước nhà. Thuở ấy, Trưởng ban Việt kiều trung ương là ông Đặng Thí, Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng (tên gọi của Chính phủ thời đó). Sau buổi trình bày ở Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà Nước kể trên, có một buổi tối ông Đặng Thí tiếp chung đoàn chúng tôi, cùng với « đoàn » những vị lãnh đạo các hội Việt kiều ở nhiều nước về hội họp gì đó. Chắc vì bận công việc quan trọng khác của ông, và vì thế không đọc hồ sơ và không nghe báo cáo của cộng tác viên của ông, nên ông Trưởng ban Việt kiều Trung ương có vẻ không nắm vấn đề Việt kiều. Bữa đó, tôi bắt đắc dĩ phải nói vài lời về « hồ sơ Việt kiều » mà chúng tôi đã trình bày. Nhưng không biết « ma đưa lối quỉ đưa đường » thế nào, mà tôi lại nói một câu đại khái là « cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có một tiềm năng về kinh tế, về chất xám, mà nước nhà nên khai thác ». Vì hai chữ « khai thác » mà ông Trưởng ban không đồng ý, ông trả lời đại ý : « Chế độ ta không khai thác con người » ; thật là đúng lập trường. Tôi vốn không biết lý lịch của ông. Sau này đọc tài liệu đâu đó, thấy viết là thời cải cách ruộng đất, có mấy ông cán bộ cao cấp chỉ đạo rất đắc lực như ông Hồ Viết Thắng, ông Chu Văn Biên, ông Đặng Thí,… ; tôi không biết có phải là người trùng tên không.
(16) Nguyên văn tiếng Pháp:
Quand un soldat
Fleur
au fusil tambour battant il va
Il a vingt ans un coeur d'amant
qui bat
Un adjudant pour surveiller ses pas
Et son barda contre
son flanc qui bat
Quand
un soldat s'en va t-en guerre il a
Dans sa musette son baton
d'maréchal
Quand un soldat revient de guerre il a
Dans
sa musette un peu de linge sale
Partir
pour mourir un peu
A la guerre à la guerre
C'est un
drôle de petit jeu
Qui n'va guère aux amoureux
Pourtant
c'est presque toujours
Quand revient l'été qu'il
faut s'en aller
Le ciel regarde partir ceux qui vont mourir
Au
pas cadencé
Des
hommes il en faut toujours
Car la guerre car la guerre
Se fout
des serments d'amour
Elle n'aime que l'son du tambour
Quand
un soldat s'en va-t-en guerre il a
Des tas d'chansons et des
fleurs sous ses pas
Quand un soldat revient de guerre il a
Simplement eu d'la veine et puis voilà.
(17) « Những chặng đường lịch sử », Võ Nguyên Giáp, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994.
Các thao tác trên Tài liệu