Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời
NHÀ VĂN BÙI NGỌC TẤN QUA ĐỜI
Theo tin từ
gia đình, nhà văn Bùi Ngọc Tấn
đã qua đời vào lúc 6h15 sáng
nay (18/12/2014) tại Hải Phòng sau một thời
gian bị bệnh K, hưởng thọ 81 tuổi.
Anh Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên
(Hải Phòng), năm 1954 trong đoàn quân
về tiếp quản Hà Nội, sau đó
làm báo Tiền Phong, rồi chuyển về
Hải Phòng tiếp tục viết báo và
viết văn. Năm 1968, ngày 8/12, ông bị
bắt vì bị coi là liên quan đến
vụ án "xét lại" và phải
ở tù năm năm (1973). Sau hơn hai mươi
năm bị im tiếng trên văn đàn,
ông trở lại viết và xuất bản
bằng những hồi ức về nhà văn
Nguyên Hồng, bằng những truyện ngắn
nổi bật, và đặc biệt là
bằng cuốn tiểu thuyết mang tính tự
thuật "Chuyện kể năm hai nghìn".
Thời
gian lễ tang nhà văn Bùi Ngọc Tấn
gia đình đang lo liệu. Tấm ảnh
chụp mấy anh em văn nghệ sĩ xuống
thăm anh ngày 16/11/2014 không ngờ là
lần cuối gặp anh.
Buồn thật buồn
những ngày này. Khi Nguyễn Quang Lập
bị bắt và Bùi Ngọc Tấn qua đời.
Sao những người tốt đẹp, những
nhà văn chân chính cứ bị hoạn
nạn!
Anh Tấn ơi, em vĩnh biệt
anh!
Tưởng nhớ anh, em đưa lại
đây bài em viết khi đọc tập
sách "Rừng xưa xanh lá" của
anh viết về chân dung bạn bè cùng
lứa anh.
Phạm Xuân Nguyên
MỘT KIẾP BÊN TRỜI
Phạm Xuân Nguyên
Đồng thị
thiên nhai luân lạc nhân
(Bạch Cư
Dị - Tỳ bà hành)
Nhà văn
Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác
phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân
dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản
Hải Phòng (1/2003).
Đây là cuốn
sách thứ năm của Bùi Ngọc Tấn,
kể từ ngày ông cầm bút viết
văn trở lại, cách đây gần
mười năm. Năm 1995, sau 27 năm bị
ngắt tiếng, “bị văng ra ngoài quỹ
đạo”, ông trở lại văn đàn
với tập hồi ức văn học về
Nguyên Hồng với các bạn văn Hải
Phòng nhan đề Một thời để
mất. Tự cái tên sách tái xuất
đã nói lên tất cả. Trong bài
viết về một bạn văn ở tập
sách mới này ông ghi lại cảm
giác lúc đó, khi lại được
thấy cuốn sách của mình ra đời:
“Một cái rùng mình gai gai khe khẽ
chạy suốt dọc người tôi. Không.
Tên tôi đã được in trên
nhiều bìa sách. Nhưng đây là
tập sách sau 27 năm. 27 năm chết. 27 năm
sau tôi lại được đứng dưới
mặt trời. Từ thế giới bên kia, 27
năm sau tôi trở lại thế giới này.
Tôi sống lại. Ngay khi mới bước
vào nghề, nhìn tập sách đầu
tiên của mình được in cũng
không xúc động như vậy. Lúc
đó chỉ đơn giản là sống.
Là vui sống. Còn bây giờ là
sống lại. Là chết đi sống lại”
(tr. 152).
Trong khoảng mười năm sống
lại nghề văn đó, giữa hai tập
hồi ký, Bùi Ngọc Tấn có hai
tập truyện ngắn: Một ngày dài
đằng đẵng và Những người
rách việc, và một bộ tiểu
thuyết hai tập: Chuyện kể năm 2000. Ông
đã từ một hiện thực khác
trở về. Và văn ông bây giờ
là nói về một hiện thực khác
và từ một hiện thực khác mà
nhìn lại. Viết hồi ức, chân
dung, truyện ngắn, tiểu thuyết, nhân
vật chính trên các trang văn của
Bùi Ngọc Tấn là chính ông và
những người bạn cùng thế hệ
được soi chiếu từ hai phía của
một khoảng thời gian đã thành
vạch phân cách đời người đời
văn: 5 năm (1968 – 1973). Con dấu đóng
giáp lai văn nghiệp Bùi Ngọc Tấn
mang số hiệu CR 880.
Đó là dãy
số tù của Bùi Ngọc Tấn khi ông
bị bắt tập trung cải tạo về tội
“tuyên truyền phản cách mạng”
mà sau này một người bạn tù
đã gọi thẳng tên sự vật một
cách ngắn gọn và chính xác là
“tội nói sự thực” (CKN2000, tr.
60). Ông, và bạn bè đồng lứa,
yêu văn chương, hăm hở bước
vào văn chương với một niềm
tin trong trẻo và một cái nhìn trong
sáng về con người và cuộc sống
mới. Chính sự trong trẻo tâm hồn
và trong sáng đôi mắt đã
khiến họ phẫn nộ với những gì
vấy bẩn, che khuất hiện thực tốt
đẹp được lấy làm đề
tài cho trang viết của mình. Và thế
là Bùi Ngọc Tấn và bạn bè
ông bị quy tội danh “tuyên truyền
phản cách mạng”. Điều đó
có nghĩa là gì? Hơn một lần
ông đã tường minh:
“Điều
đó chỉ có nghĩa là Phương
đã nhìn thấy và báo động
về những cái xấu xa đang mọc lên
trên lưng chế độ như nạn móc
ngoặc đang hình thành và bắt rễ
trong các ngành mậu dịch. Nạn cửa
quyền trong các cơ quan tiếp xúc với
dân. Bệnh thành tích, hình thức,
điêu dối trong báo cáo và cuộc
sống. Chủ nghĩa lý lịch, chủ
nghĩa thành phần đã làm thiệt
hại bao nhiêu đến sự nghiệp chung
v.v… Phương đã nhìn thấy
những gì trái với bản chất xã
hội chủ nghĩa, muốn lên tiếng bảo
vệ những lý tưởng của cách
mạng. Vì cách mạng. Vì cách
mạng là xương máu của bao thế
hệ. Vì mình là người tâm
huyết, một lòng theo cách mạng. Là
sự nhìn nhận cuộc sống đúng
với hiện thực, không phải chỉ một
màu hồng. Là lòng mình yêu
thiết tha nhân dân này, đất nước
này. Là chống lại sự bất công
mới đã có và đang có như
một thứ nấm mốc lây lan. Để
cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự
nghiệp tốt đẹp hơn đúng với
mục tiêu của nó.
Và như vậy
là nhìn đời đen tối. Là
bất mãn. Là chống đối. Là
vào rừng chỉ nhìn thấy cây mà
không thấy rừng.
Chẳng lẽ mình
không có quyền suy nghĩ, không có
quyền nói lên, không có quyền
tỏ thái độ? Chẳng lẽ mình
không còn có quyền yêu nước?
Chẳng lẽ lòng yêu nước cũng
bị độc quyền? Không! Có thể
độc quyền xuất khẩu, độc
quyền nhập khẩu, độc quyền sản
xuất muối, nhưng không thể độc
quyền yêu nước!” (CKN2000, tập 1,
tr. 191- 92)
Số hiệu tù nhân CR 880 đã
khép lại một thời đối với
Bùi Ngọc Tấn và bạn bè. “Một
thời tin tưởng. Một thời bay bổng.
Một thời hạnh phúc. Và cả một
thời nhảm nhí của chúng tôi
nữa.” (MTĐM, tr. 7). Một thời để
mất! Sau thời đó là đến
thời hoạn nạn và khốn khó. Rừng
xưa xanh lá đến hồi bị tơi
bời trong cơn bão lốc.
Trong mười
chân dung nghệ sĩ của tập sách
mới này, có đến một nửa
Bùi Ngọc Tấn dành cho những người
bạn cùng “một kiếp bên trời”
của mình mà bóng dáng đôi
người đã từng có trong tiểu
thuyết CKN2000: Dương Tường, Lê Mạc
Lân (Vũ Mạc), Lê Bầu (Lê Bàn),
Nguyên Bình, và Hứa Văn Định.
Cuộc đời họ thời chìm lặng
ấy có thể tóm gọn bằng một
chữ: BÁN. Bán máu và bán văn
để trước hết là phải tồn
tại. Chế Lan Viên sau khi trải một đời
lắm vinh nhục trong nghề văn, những ngày
cuối đời đã nguyền rủa thế
kỷ hai mươi ông sống là thế
kỷ “muốn nuôi sống xác thân
phải làm thịt linh hồn”. Những
người bạn văn của Bùi Ngọc
Tấn không thế, họ muốn duy trì
cơ thể nên phải giết cơ thể,
họ muốn giữ linh hồn nên phải làm
thịt linh hồn. Dương Tường bán
máu, rồi mách cho Mạc Lân cùng
bán. Bữa bún chả mấy người
bạn đón Bùi Ngọc Tấn ra tù
tại Hà Nội là bằng vào tiền
Mạc Lân “bán máu đột
xuất”. Chi tiết này ông đã
đưa vào tiểu thuyết (CKN2000, tập
1, tr. 201).
Bán chữ là viết văn
chui. Định nghĩa viết văn chui: “là
viết văn không cho người khác
biết, trừ người đặt hàng
mình” (tr. 73). Lịch sử kinh tế Việt
Nam khi viết về thời bao cấp chắc phải
dành chỗ cho khái niệm “khoán
chui”, một sự xé rào làm ăn
đã phải trả giá bằng đời
một bí thư tỉnh ủy trước khi
nó mở đầu cho một cơ chế
quản lý mới. Lịch sử văn học
Việt Nam mai ngày có chỗ nào cho
khái niệm “viết văn chui”? Việc
này Mạc Lân rành, Lê Bầu rành,
Bùi Ngọc Tấn cũng rành, ông kể.
(Cùng thời này Phùng Quán cũng
đã hàng chục năm sống cảnh
“cá trộm, rượu chịu, văn
chui” bên Hồ Tây). Nguyên nhân
hiện tượng này là “không
được viết, hoặc được viết
nhưng không được in hay được
in nhưng không được ký tên
cũng không được nhân nhuận
bút” (tr. 72). Hậu quả ở đây
là văn mình tên người (thêm
một thành ngữ mới), đưa đến
lắm chuyện bi hài. Trường hợp Mạc
Lân là tiêu biểu.
“Như có
một năm ba truyện ngắn Lân viết
cho ba người được giải thưởng
(của Hà Nội và của Tổng công
đoàn)… Có một điều Lân
lấy làm lạ là cái người
chỉ đứng tên cho văn bản mà
không hề viết lấy một dòng khi
sách đã được in, gặp Lân
là người đã viết ra nó lại
cứ trò chuyện với Lân theo cái
kiểu như chính anh ta là người đã
sáng tác`ra nó, chính anh ta là
tác giả. Hoặc nói một cách bề
trên: “Đoạn ấy viết được.
Mình đi đến đâu người ta
cũng khen. Dư luận tốt lắm.” Anh
lắc đầu: Cũng nhiều lúc muốn
tống một quả đấm vào mặt họ
nhưng lại cố nén. Rồi cười:
Làm ăn phải giữ lấy cái mối.”
(tr. 76 – 77)
Lê Mạc Lân là con
trai nhà văn Lê Văn Trương (chữ
Mạc thế chữ Văn ở tên lót
để kỷ niệm một người bạn).
Cảm hứng của Bùi Ngọc Tấn ở
những trang viết chân dung là “đi
tìm thời gian đã mất”. Cho mình.
Và cho bạn. Năm 20 tuổi (1954) ông
trong đoàn quân chiến thắng từ
núi rừng về tiếp quản Hà Nội.
Năm 34 (1968) tuổi ông bị lâm vòng
lao lý. Khi từ các trại trở lại
đời thường ông đã ở vào
độ tuổi mà Khổng tử nghĩ là
“bất hoặc”. Cầm lại cây bút
viết văn gần mười năm nay, ông
đã bước vào tuổi 70. Ngẫm
lại con đường đời đường
văn mình và bạn bè đã
trải qua với rất nhiều lận đận,
Bùi Ngọc Tấn thấy “thời gian gấp
ruổi” như tên ông đặt cho bài
viết về Mạc Lân. Cũng có thể
thấy ông, qua chân dung Lê Bầu, người
“hiểu giá trị của thời gian”.
Và ông đã không thể nhắc
lại bây giờ một câu đùa vui
như ngày nào với cái chân giả
của Vũ Tín, phóng viên ảnh Thông
tấn xã Việt Nam, bởi vì biết
rằng “thời trai trẻ đã qua”.
Thời gian gấp lắm rồi, ông hối
thúc bạn, và mình. Cái chết
có thể ập đến bất cứ lúc
nào, lạnh lùng và dửng dưng. Nó
cắt ngang lời đề tặng trên cuốn
sách đầu tiên thời hậu goulaq của
ông dành cho vợ chồng nhà văn,
nhà biên kịch Hứa Văn Định:
“Để hai bạn biết rằng mình
lại viết. Rằng mình vẫn còn
thoi thóp chứ chưa chết hẳn”. Ông
đã đốt cuốn sách này trước
mồ bạn. Hứa Văn Định là một
trong những người bạn tích cực
thúc giục, động viên Bùi Ngọc
Tấn viết văn trở lại, vì không
thể không viết, sau những gì đã
trải. Lời người bạn nói: “Ông
phải viết tiểu thuyết. Tôi tin ông
sẽ có những thành công rất đặc
biệt. Trách nhiệm của ông nặng
lắm” (tr. 151) là sự giao phó và
gửi gắm của bạn bè. Bùi Ngọc
Tấn tìm thấy ở đó điểm
tựa tinh thần để đứng dậy và
đi tiếp. Như ông đã tìm thấy
điểm tựa tinh thần ở Nguyên Hồng,
Lê Đại Thanh, Nguyễn Thị Hoài
Thanh. Và cuộc đời đã đền
bù cho ông. Câu nói của Hứa Văn
Định đã chứng nghiệm. Bùi
Ngọc Tấn đã có những người
đọc mới tri âm, như với họa
sĩ Nguyễn Thanh Bình, sinh sau ông hai mươi
năm. Hai người chỉ mới gặp nhau một
lần, họa sĩ đọc văn, nhà văn
xem tranh, “mà như đã biết nhau
từ bao giờ rồi”. Điều đó
Bùi Ngọc Tấn nhận là chỉ nghệ
thuật mới làm được. Có lẽ
cần thêm: chỉ những người có
tình thương khi đã trải qua đau
thương. Nguyễn Thanh Bình đã đổ
máu ở chiến trường để bây
giờ vẽ tranh, một mình làm nên
một dòng toàn trắng, bán được
tranh, giàu có, không phải bán
máu.
Bùi Ngọc Tấn viết văn
trầm tĩnh và đôn hậu. Hình
như đây là kết quả của sự
kết hợp bản tính người và
trải nghiệm đời nơi ông. Sau những
gì đã xảy đến với ông,
nếu văn ông có giọng cay độc,
chua chát, cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng không! Ngay cả sự trầm tĩnh
và đôn hậu ở đây cũng
không hề là phải cố ý, gồng
mình, tỏ vẻ. Ông đưa lại cho
người đọc những dòng văn tự
nhiên, dung dị, khi những oan trái, khổ
đau lặn vào sau câu chữ làm nên
sức nặng và chiều sâu của những
điều được viết ra. “Hãy
kể những chuyện đau bằng cái
giọng hài”, Bùi Ngọc Tấn đã
làm được như lời khuyên của
Dương Tường, Hứa Văn Định.
Giá trị nhà văn của Bùi Ngọc
Tấn trước hết là ở giọng
điệu ấy. Một giọng điệu văn
chương làm người đọc hiểu
ông, tin ông, đồng cảm với ông
và cùng ông đồng cảm với
những phận người, những kiếp bụi
nhân sinh. Cao hơn chuyện văn chương
là chuyện cuộc đời. Bùi Ngọc
Tấn là nhân vật của văn ông
và đồng thời ông cũng là
tác giả của những điều ông
viết ra. Văn chương đó là sự
thật.
“Tôi là bạn của ông
Dương Tường”. Bùi Ngọc Tấn
viết về những người bạn văn
đã đau khổ và thủy chung cùng
mình, như mình. Các ông là bạn
của nhau. Dương Tường có câu
thơ tuyên ngôn: Tôi đứng về
phe nước mắt. Các ông mỗi người
đã gánh cây thập ác đi
trọn con đường trần ai của mình.
Không vứt xuống.
Không chạy
trốn.
Không gục ngã.
Không
dừng bước.
Và dẫu không là
Chúa, Bùi Ngọc Tấn, và bạn bè
ông, đã được phục sinh.
Tokyo 30.4.2003
Nguồn: FB của tác giả
Các thao tác trên Tài liệu