Tưởng nhớ Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)
Những ngày cuối năm, tìm thăm
người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập
Phùng Quán
Dưới
đầu đề
“Những ngày cuối năm, tìm thăm người
dựng
Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập”,
bài
này được nhà văn Phùng Quán
viết
cách đây đúng một năm. Tác
giả đã
gửi ngay cho báo Văn Nghệ, nhưng cho đến đến nay
vẫn chưa thấy đăng.
Diễn Đàn công bố
tài liệu này, trước hết vì
giá trị
văn học của một bài kí thống thiết. Đó
cũng là một chứng từ lịch sử quan trọng về ngày
Tuyên ngôn Độc Lập 2.9.1945.
Tài liệu
này còn mang một ý nghĩa sâu
sắc:
Nguyễn Hữu Đang (sinh năm 1913) được coi là người
đứng đầu phong trào Nhân văn-Giai phẩm,
còn
Phùng Quán là thành
viên trẻ tuổi
nhất của phong trào này. Cả hai đã
kiên
quyết không chịu “đấm ngực nhận tội”
và
càng không chịu tố cáo người
khác.
Chính vì vậy mà hai ông
đã bị
đàn áp nặng nề. Đặc biệt ông Nguyễn
Hữu Đang đã bị biệt giam 15 năm ở Hà Giang
(từ năm 1958 đến 1973 – có lẽ ông
là
một trong vài ba người trên trái đất
này
hồi đó không biết có cuộc chiến tranh
Việt-Mĩ), rồi bị đưa về quê nhà Thái
Bình an trí gần 20 năm trời.
Từ đầu
năm 1993, ông đã trở về sống ở Hà Nội,
được trả lương hưu cán bộ bậc 5, nhưng vẫn
chưa có nhà ở. Bạn bè ông
đang yêu
cầu chính quyền cấp nhà, bằng không họ
sẽ vận động đồng bào và kiều bào
đóng góp mua nhà cho ông.
Diễn Đàn (số 25, tháng 12.1993)
Dạ thưa Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, Thứ trưởng Bộ văn hoá Thông tin, cùng độc giả báo Văn Nghệ,
Mới đây tôi được đọc bài điếu văn đầy trang trọng và xúc động của Giáo sư đăng trên tuần báo Văn Nghệ, đọc tại lễ truy điệu của nhà điện ảnh lão thành Phạm Văn Khoa. Trong bài điếu văn có một chi tiết về thành tích hoạt động của nhà điện ảnh quá cố mà tôi đặc biệt quan tâm: “Rồi lại chính anh (Phạm Văn Khoa) dựng bục, kết hoa cho Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, chỉ trong một ngày đêm vội vã”.
Thưa
Giáo sư
Tiến sĩ Đình Quang, qua lời
điếu văn tôi có cảm tưởng việc dựng Lễ
đài Độc lập 2.9.1945 gần giống việc dựng một
cái chòi thông tin hoặc một
cái sân
khấu ngoài trời....
Nhân sự việc này tôi muốn kể hầu Giáo sư và độc giả tuần báo Văn Nghệ một câu chuyện, mục đích là để mua vui vào dịp đầu xuân năm Dậu, năm trùng phùng với năm xảy ra sự kiện mà tôi sắp kể sau đây, năm Ất Dậu 1945.
Học
theo cách nói của thi hào Nguyễn Du,
“mua
vui cũng được một vài trống canh”.
*
Tôi
là
người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ
thuật kiến trúc. Đầu năm 1990, Đại hội kiến
trúc sư toàn quốc, tôi có
gửi một
bức điện 300 chữ, chào mừng Đại hội. Mở đầu
bức điện văn, tôi viết: “Nếu đất nước xây
dựng một Đền đài Nghệ thuật, tôi xin được
làm thủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được
trải chiếu để văn nghệ sĩ ngồi. Chiếu một tôi
dành riêng cho các kiến trúc
sư. Vì
các anh chị là những người trước tiên
đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục
cho xứ sở, bằng chính các tác phẩm
kiến
trúc của mình...”. (Ở
nhà
tôi, ngoài hình ảnh) [1]
Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Đền
Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung,
Tháp
Eiffel, Khải Hoàn Môn... tôi
có chừng
vài chục tấm hình cắt ra từ các
báo
như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động,
Hà
Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng
thể vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai
tháng
Chín năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.
Mỗi
lần ngắm nhìn cái công trình
kiến
trúc mỏng mảnh được xây dựng bằng gỗ,
ván,
đinh, vải; được thiết kế và thi công trong
vòng 48 giờ - nếu chậm lại một giờ là hỏng
- rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một
lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục
của người lính già tôi bao giờ cũng cay
lệ. Lòng tôi dâng trào biết
bao niềm
cảm xúc và suy tưởng miên man ... về Tổ
quốc và Nhân dân, về Cách
mạng và
Khởi nghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng
hào kiệt đã thấm đẫm giang sơn kể từ khi
trên mặt đất xứ sở Việt Nam xuất hiện công
trình kiến trúc mỏng manh này.
Nó
biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình
dáng
cùng với tổng chể kiến trúc của nó,
đã
tạc khắc đời đời vào kí ức của cả dân
tộc...
Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước từ đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi... Người Hiệp sĩ vĩ đại của Nhân dân và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki... đứng trên lễ đài, mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” bất hủ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng...”
Ai có thể tái tạo
công trình kiến trúc Lễ đài
Độc
lập cùng với tổng thể kì vĩ đó?
Không
một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của
tôi, Lễ đài Độc lập là cái
cột
mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ
và
bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc.
Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc
lên
cái cột mốc này, số phận của cả dân
tộc đã thay đổi, và số phận nhỏ bé,
hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay
đổi. Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ
tôi đã trở thành một
nhà
văn...
Cũng từ cái mốc kiến trúc mỏng manh
này,
cả dân tộc đã xuất phát, bước
vào
cuộc trường chinh sáng láng nhất, lâu
dài
nhất và dữ dội nhất của thế kỉ, với gánh
nặng lịch sử trên vai: “Ta vì ta ba chục
triệu
người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên
đời”
[2].
Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?
*
Vậy
ai là
tác giả cụ thể công trình kiến
trúc
Lễ đài Độc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi
luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ước
tìm
hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó
cái
khôn, và trong điều kiện và
hoàn cảnh
trắc trở của đời mình, tôi không sao
thực
hiện nổi niềm mong ước đó.
Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:
Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 mm X 210 mm, đóng dấu tròn với dòng chữ “Ngày Độc lập” và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:
„Kính
gửi
ông Thị trưởng Hà Nội,
Bộ Tuyên
truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức
ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc
lập”.
Muốn
cho ngày ấy có một tính
cách thiêng
liêng, Ban tổ chức chúng tôi
yêu cầu
Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền,
nhà
thờ cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt
trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng
Ngày
Độc lập.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”
Một thư khác
của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ
Thông tin và Tuyên truyền, đề
ngày
31.8.1945. Hình thức và con dấu như
trên.
Nội dung thư:
„Kính
gửi
ông Thị trưởng Hà Nội,
Nhân
“Ngày
Độc lập”, chúng tôi yêu cầu
Ngài
cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai
bên
những phố lân cận.
Còn
về lễ
chào
Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa
soạn
cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước
tây
đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ
có
chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”
Một thư khác,
hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai
bức thư trên, với nội dung:
„Kính
gửi
ông Thị trưởng Hà Nội,
Muốn cho Ngày
Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945 tới
đây
được hoàn hảo, chúng tôi yêu
cầu
Ngài thông báo ngay cho các
Phố trưởng
để các ông ấy báo tin cho
các nhà
trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam
giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở
Hội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi
lên
vườn hoa sau Sở tài chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”
Sau khi đọc kỹ
những tư liệu trên, tôi suy luận: ông
Nguyễn
Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc
lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác
giả công trình kiến trúc Lễ
đài.
Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.
*
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.
Cách đây khoảng
mười
lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về,
tá
túc tại quê nhà. Hàng năm
vào
dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên
Hà
Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô
(cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân
gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân.
Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh:
“Anh
kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em
thế?”.
Anh cười: “Mình sống ở nông
thôn cũng
phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu
bạn, lại còn có cả thóc và
rơm cho
nông dân vay”. - “Hiện nay anh
đang làm gì
ở dưới đó?”. “Mình
nghiên cứu Lão
Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản
Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu
thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” [3].
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”
Nỗi
lo lắng này thường xuyên ám ảnh
tôi.
Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về
công
trình Lễ đài Độc lập, năm đó
tôi
nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần
giáp Tết. Tôi nói khó với
vợ: “Em
bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy
tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình
tìm
thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ
ra giêng anh đi có được
không?”. “Anh
bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi
đến
ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần
cái
tuổi tám mươi, mà lại một thân một
mình...”. “Anh có biết địa
chỉ của anh
Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở
Thái
Bình, địa chỉ cụ thể thì không
biết”.
“Cả cái tỉnh Thái Bình rộng
mênh
mông với hơn hai triệu dân, không
có
địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”.
“Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì
anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít
nó
cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho
tôi nửa
số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với
vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một
nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một
việc không đâu! Tôi vội nhét
mấy tờ
giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm
đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý
kiến.
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi [4] rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ công tác ở đâu ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”. Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy (cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi) sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...”. Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...
*
Con
đường đá
mười mấy cây số chi chít ổ gà.
Gió
cuối đông buốt như kim châm táp thẳng
vào
mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên
man về sự thăng trầm của những kiếp người tình
nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con
đường
cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào
trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công
–
Nơi anh Đang tá túc – tôi
vào cái
quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng.
Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ
Hà
Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu
tràn
li và nói: “Ông ấy thỉnh
thoảng vẫn
ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước.
Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái
xã
Vũ Công này. Mới cách đây dăm
hôm,
ông ấy đèo sau xe cái rỏ tre
ràng
buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt
được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè
bò vào nhà mình. Định
làm thịt
ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay
buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy
lạng mỡ lá...”. Tôi bật phì
cười: “Ông
ấy bây giờ lại thêm cái tài
bắt rắn
độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy
cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui
thật! Tôi có người bạn làm thơ
tên
là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi,
làm câu
thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra
trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá
không
buồn được!”. Ông chủ quán rót
thêm
li rượu nữa, giọng hào hiệp: “Li này
tôi
đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có
bán
được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về
phàn
nàn: nó không chịu mua, nó
bảo loại
rắn này không nằm trong bộ tam
xà!”. Tôi
cười ngất.
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện „Hương cuội“ của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười... “Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
*
Cái
chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ
khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư
trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác
dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục
cái
khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo
may-ô thủng nát, quần lao động vá
víu.
Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm
bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc
dây thép, bên trong có
hòn sỏi
nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên
leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh
giải thích tác dụng của chùm lục lạc:
Đi lại trong đường làng những đêm tối trời,
anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe
máy
phóng ẩu đâm sầm vào, làm
anh ngã
trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng
bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo
mõ
vào cổ trâu – trâu
gõ mõ, chó
leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo
vào
cạp quần, báo hiệu có người để họ
tránh
xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không
kém...
Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục
lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy
đỡ cô độc. Chính giữa gian chái
kê
cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng
không
khép kín được, khoá một chiếc
khoá
lớn như khoá nhà kho. Trên
nóc tủ,
xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở
Hà Nội người ta thường quẳng vào các
đống rác. Cạnh tủ là một cái giường
cá nhân, bốn chân giường được thống cố
thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống
chăn bông trần rách thủng, và một xấp
quần áo cũ làm gối.... Sát
chân
giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ
có
hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi
dây
thép buộc treo vào tường. Anh nói,
giọng
Lão Trang: “Một cái bàn bốn
chân là
một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân
nó
là một con người”. Trên mặt
bàn xếp
kín các chai lọ, vỏ đồ
hộp, vài con dao làm bằng mẩu
thép vụn. Anh chỉ vào vài
cái "hòm" được xếp bằng những viên gạch
vỡ, như thuyết minh viên
gSiới
thiệu hiện
vật trong bảo tàng nghệ thuật: “Nó
là
loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu
chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền
của nó làm cho các loại chuột, mối,
dán
phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ
rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới
gầm bàn là mấy chục đôi dép
cao su
hư nát, đứt quai, được bó thành từng
bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng,
một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo,
mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề
đó, phủ lên một lớp bụi tro... Lúc
tôi
bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải
thích: “Giờ này các
cô giáo nấu
ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi
đã trộn rơm với bùn trát những khe hở
sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang
–
anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng
có
cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi
xào nấu lẫn với khói, cái mũi được
bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc
hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ
mua
cái gì về ăn”.
“Thôi khỏi cần. Chú
về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng
nay
tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô
địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn
rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ
vào
lồng ủ rơm, còn nóng nguyên.
À, tôi
lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi,
quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp
Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy
giáo mấy chén, còn đủ cho
chú say
sưa suốt mấy ngày ở chơi”. Anh xăng xái
lấy
chùm chìa khoá buộc chung với
chùm
lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi
liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần
áo cũ nát để lẫn với những chồng báo,
giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới
cùng
để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và
nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh
lúi
húi tìm một lúc khá
lâu mới lôi
ra được chai rượu cam còn già nửa:
“Đây
rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để
chỗ này lại tìm sang chỗ kia”.
Tôi cười,
nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng
là một nhà
quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm
chọn
loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm
rượu, để đãi khách quí”.
Tôi chỉ
những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu
tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà vợ em ở
nhà khi em hút xong, cô ấy phải dọn
nhặt đem đốt”.
Anh kêu lên: “Thế có tiếc
không! Lần
này chú về trên đó nhớ dặn
cô,
có vỏ bao thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh
Đang, càng nhiều càng tốt. Nó
là
hàng đối lưu của tôi đấy...”.
“Hàng
đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi.
“Để tôi
dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế
nào là hàng đối lưu. Tôi xem
ra chú
mù tịt về môn kinh tế chính trị
học”.
Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy
khói
của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở
gian buồng này à?”.
“Ngày tôi mới
về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác
xã. Chẳng là cán bộ xã cũng
thông
cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi,
nên
đề nghị tôi ra đó trông coi
giúp như
nhân viên thường trực của trại. Ở đó
một thời gian. Nhà kho cũng thoáng
mát, tôi
có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết
hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác
xã trả công điểm mấy chục cân
thóc,
mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc,
rơm này tôi không phải dùng
đến,
trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai
trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay.
Ngoài
ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng
thêm ít thóc nếp, đem lên
Hà Nội
biếu các chú... Khi bắt tay vào việc
dịch
thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô,
tiếng lợn kêu âm ĩ quá làm
tôi
mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi
công
việc trông coi trại, chuyển về đây để được
yên tĩnh hơn”.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”. Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: “Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”. Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”. “Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số [5] đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung [6], mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”. Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: “ Em suy luận ra anh là Trưởng ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”. Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.
Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo. Sáng hôm sau, đồng bào tập hợp trong ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh [7], cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh. Các anh cần gì, chúng tôi sẽ lo chạy đầy đủ, Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ [8], cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
*
“Ông Đang ơi! Ông Đang
ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo
ngoài
cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi
nhìn
ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi
chú
cầm một cành tre, đầu cành tre thõng
thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi
dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi:
“Ông
có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ
đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn
nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như
thế nào?”. “Ông cho
cháu mỗi con hai cái
vỏ bao ba số”. “Các chú đừng
có giở
thói bắt chẹt”, giọng nói vá
dáng
bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi
chác, “Mỗi con rắn này chỉ
giá trị
bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì
ông
cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba
số, các chú có đổi thì đổi,
không
đổi thì thôi”. Hai chú
bé ngần ngừ
một lúc, rồi nói: “Chúng
cháu đổi
ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy
ra
hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một
chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú
bé
cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận
không
kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một
chú
nói: “Ông đổi cho cháu
cái vỏ bao
khác, cái này bên trong
không có
tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao
xem
lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao
khác.
Sau này chú mà làm
cán bộ thu
mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu
thua
thiệt”.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào
cái
rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như
người buôn bán vừa vớ được món hời:
“Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai
tôi sẽ đãi chú món rắn om
riềng mẻ.
Ăn vào chú sẽ khoẻ, bơi qua sông
không cần phà Tân Đệ”.
*
Tôi
ở lại chơi với anh Đang ba
ngày, thuê một anh phó nháy
ở xã
trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm.
Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa
dùng
đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn
chát
nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay
tôi
đang cố gắng hoàn thành thiên hồi
ký
thuật lại tất cả những gì có liên quan
đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào
con đường hoạt động cách mạng cho đến những
năm tháng gần đây... Trong hồi ký,
tôi
sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến
nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như
bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”
Cụ Hồ
viết... còn hay mất, nếu còn thì
bây
giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu
trong bản “Tuyên ngôn”, nhưng
không kịp vì
bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng
ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách
việc in ấn những tài liệu có liên quan
đến vận mệnh đất nước này, nhưng ... như chú
biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí
Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không
có
bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”
... Tôi
sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục
tuổi đầu rồi còn gì, mà lại
không
có điều kiện làm việc, ban đem coi như chịu
chết, đèn đóm tù mù,
đúng là
đóm thật”... Anh im lặng một lúc
lâu,
rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp:
“Chú
có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay
là gì không?”,
không đợi tôi
đoán, anh nói luôn:
“Tôi lo nhất là
không biết chết ở đâu. Lúc sống
thì
tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây
cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc
chết
thì người thân mấy cũng làm phiền người
ta. Có ai muốn một người không phải ruột ra
máu mủ lại nằm chết trong nhà mình?
Ngay
cả cái chái bếp này cũng vậy,
tôi
nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường,
các
thày các cô, các
cháu học sinh...
Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn
lên
Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản
quán,
tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú
ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng
nhìn
thấy...”.
Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”
Trở vào nhà, cả
người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị
cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một
hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất
giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung
gửi tôi mang về tặng anh:
Mặt ra
giông chớp
Rạc mái
phong lưu
Gót nhọc men
về thung cũ
Quỳ dưới
chân quê
Trăm sự cúi
đầu
Xin quê
rộng lương
Chút thổ phần
bò xéo cuối
thôn!
Phùng Quán
(Tháng 12.1992)
PHẦN VIẾT THÊM
Nấn ná mãi, sáng 27 Tết tôi phải rời thôn Trà Vy trở về Hà Nội. Đạp xe ngược gió trên con đường đất sống trâu dọc bờ sông Máng, tôi bỗng thấy lạnh kinh khủng. Hai ba lần, tôi ngoái lại nhìn làn khói mỏng trên cái chái bếp, bên dưới làn khói đó là một bậc hào kiệt của đất nước đang ngồi trầm tư vì thế sự giữa một đống giẻ ráchn dép lốp đứt quai, đinh còng queo, chai lọ bụi bám đầy, những cái vỏ lon bia, những mẩu sắt han rỉ chẳng biết để làm gì. Hai mắt tôi tự nhiên cay lệ. Tôi chỉ muốn quay xe lại với anh nhưng sợ anh mắng. Từ chiều hôm qua, anh gục tôi suốt : « Sáng mai chú phải về. Tết nhất đến nơi. Chú không thể để cô ấy cúng tất niên một mình như cảnh nhà những người goá bụa cô đơn… »
Đăm đăm nhìn anh, tôi tự hỏi : « Trên thế gian này, không còn ai cô đơn hơn anh ? ». Tôi khẩn khoản : « Anh cùng về Hà Nội với em, ăn Tết cùng với nhà em, anh Cung có vui hơn không ? » – Chú cứ về trước đi, chậm lắm sáng mồng hai Tết, tôi sẽ có mặt ở nhà chú hoặc ở nhà chú Cung ». – « Nhưng anh còn vướng víu gì ở đây mà không về cùng với em được ? ». « – Chuyến này lên Hà Nội tôi sẽ ở lại. Tôi muốn tìm gặp lại anh em thời Truyền bá quốc ngữ xem ai còn ai mất, liên hệ với những anh em hiện đang sống ở nước ngoài như Hoàng Xuân Hãn. Ông ta có công lớn lắm đấy. Ông được Hội giao soạn thảo học chữ quốc ngữ theo lối mới, làm sao cho dễ học, dễ thuộc, dễ nhớ và ông đá soạn thảo rất thành công. Tài tình nhất là ông đã vần vè hoá được cách nhận diện các chữ cái :
i
tờ giống
móc cả hai
i
ngắn có chấm, tờ dài có ngang
hoặc :
o
tròn như quả trứng gà
ô thì đội
mũ, ơ là thêm
râu
Tôi ngạc nhiên : “Hồi còn giữ trâu ở làng quê, em học truyền bá quốc ngữ cũng thuộc lòng những câu vần vè đó. Nhưng em thật không ngờ tác giả của nó lại là nhà toán học nổi danh Hoàng Xuân Hãn”. “– Đó chính là tấm lòng thương nước, thương dân của người trí thức chân chính”. Anh nói thêm : “Tấm lòng của họ đối với nước, với dân trong suốt như thuỷ tinh, không gợn chút bọt đặc quyền đặc lợi. Lần này lên Hà Nội, tôi có một mục đích là tổ chức một cuộc găp gỡ những người trước đây tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ. Chúng tôi sẽ ôn lại hồi ức và viết hồi ký. Mà muốn làm như vậy thì phải có
(Bài
viết đến đây thì dừng vì
Phùng Quán bệnh nặng không
còn sức để viết tiếp). *
(*) Bài viết trên được Phùng Quán viết xong tháng 12.1992, đến tháng 1.1995, trong lúc nằm trên giường bệnh, chưa hài lòng với những gì đã viết, Phùng Quán viết thêm bằng bút chì trong tư thế nằm ngửa viết lên giấy đặt dưới tấm ván treo úp xuống trước mặt ở đầu giường. Đây chính là những dòng cuối cùng của Phùng Quán. Di cảo do bà Vũ Thị Bội Trâm, vợ nhà văn Phùng Quán cung cáp. (Phần viết thêm này lấy từ cuốn Phùng Quán, Ba phút sự thật, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2006)
[1]Chú thích của Diễn Đàn: Bản in này căn cứ vào bản sao ảnh bản thảo 19 trang viết tay của Phùng Quán, Một vài trang chụp thiếu một hai dòng chót. Chúng tôi phải ghi (…mất một dòng.. ), hoặc khôi phục đoạn câu bị mất đi, nhưng vẫn để trong ngoặc. Xin bạn đọc và tác giả lượng thứ.
[2]Chú thích của tác giả: Thơ Tố Hữu
[3]Chú thích của Diễn Đàn: Đây là cuốn viết lại lịch sử do Stalin chủ biên. Bản dịch ở đây ắt là bản dịch do Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội ấn hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dịch cuốn này ở hang Pắc bó. Không rõ hai bản dịch này có phải là một hay không.
[4]Chú thích của Diễn Đàn: Bảy mươi tuổi xưa nay hiếm, thơ Đỗ Phủ, Cụ Hồ đã trích dẫn câu này trong Di chúc 1969.
[5]Chú thích của Diễn Đàn: Thuốc lá nhãn hiệu 555
[6]Chú thích của Diễn Đàn: Phùng Cung, nhà văn.
[7]Ghi chú của tác giả: Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời làm thứ trưởng Bộ xây dựng. Hoạ sĩ Lê Văn Đệ (theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong hoạ sư, được chính Giáo hoàng Pie XI giao cho trang hoàng điện Vatican.
[8]Chú thích của Diễn đàn: Số vải len này lấy được ngày 19.8.1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng Bài.
Các thao tác trên Tài liệu