Bến xuân
Bến xuân
Đặng Tiến
Xuân đã đem mong nhớ trở
về
Lòng cô gái ở bến sông
kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân
trước
Trên bến cùng ai đã
nặng thề…
Nguyễn Bính
Từ một ý thơ xuân, hôm nay chúng ta cướp cả ánh thiều quang để nói chuyện Thơ, bàn về thi tính, hay chất thơ trong từ ngữ, lấy từ bến làm ví dụ. Dĩ nhiên là còn nhiều ví dụ khác.
*
Trong ngôn ngữ, dân tộc nào cũng vậy, có một số từ ngữ được trọng dụng trong thi ca nhờ vào nội hàm, có khi nhờ vào cái vỏ âm vang, giới ngữ học gọi là cái được-biểu-hiện và cái-biểu-hiện. Nhưng chúng chỉ được trọng dụng trong một thời gian, dài hay ngắn tùy nền văn hóa mà chúng phản ánh. Trong thời gian văn hóa này, chúng được tiếp nhận, cảm thụ trên những tần số khác nhau, tùy từng thành phần văn hóa và xã hội, và tùy cảm nhận cá nhân, lúc này hay lúc khác.
Cảm thụ cá nhân, thường tình là chủ quan, nhưng việc khảo sát ngôn ngữ, có thể khách quan. Thậm chí Yves Bonnefoy, nhà thơ, nhà nghiên cứu hàng đầu về thi ca Pháp, có lần đã đưa ra khái niệm coefficient poétique1, hệ số thi lượng (hay thi tính, chất thơ) của một số từ ngữ đắc dụng trong thi ca, có khi do bản thân nó, đôi khi do văn cảnh, thì ta gọi là « đắc ».
Yves Bonnefoy, Giáo sư Học viện Pháp quốc (Collège de France) chức danh cao cấp nhất trong ngành nghiên cứu Pháp, về môn Nghiên cứu đối chiếu về chức năng thi pháp từ 1982, nối nghiệp truyền thống Paul Valéry, là chuyên gia dịch thuật Shakespeare ra tiếng Pháp, đã đối chiếu hai ngôn ngữ Anh và Pháp để lảy ra khái niệm hệ số thi lượng nói trên.
van Gogh, Bateau, 1888
Khảo sát giá trị văn học của danh từ bến, chúng ta thử so sánh khái niệm này trong thơ chữ Hán và chữ Việt, hai ngôn ngữ gần nhau. Bắt đầu bằng thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến do tác giả tự dịch ra quốc âm. Bài Ức vọng Đội Sơn II, được dịch ra thành Nhớ cảnh chùa Đọi2. Hai câu luận, 5 – 6 như sau :
Kỷ tằng trúc ảnh nghi vô
lộ
Hữu khách tang gian lập đãi
thuyền
Dịch nghĩa:
Mấy tầng bóng tre, tưởng
như không có lối đi
Có khách
giữa (bãi) dâu đứng đợi
thuyền
Nguyễn Khuyến tự dịch:
Dặm thế ngõ đâu tầng
trúc ấy
Thuyền ai khách đợi
bến dâu đây
Tác giả dùng từ “bến” không có trong nguyên tác ; cũng hợp lý, vì “đợi thuyền” thì thường ở bến. Nhưng về mặt chữ nghĩa, trong nguyên tác không có khái niệm bến: tang gian nghĩa là giữa (cây) dâu; vì gần sông nên có thể dùng chữ bãi, đúng nghĩa và hợp luật bằng trắc.
Thuyền ai khách đợi bãi dâu đây
Tiếng Việt có thành ngữ “trên Bộc trong dâu” mà Nguyễn Du đã dùng trong Kiều để dịch câu chữ Hán “Bộc thượng tang gian” chỉ những cuộc hẹn hò tình ái bất chính. Nhưng Nguyễn Khuyến lại đưa lên từ bến, thay vì “trong dâu”, mà không ai dám nói là cụ dịch sai thơ mình, hay túng vần ép chữ, hay không sành chữ nôm.
Không khí cổ kính câu thơ chữ Hán chuyển sang khí hậu thơ Việt, nhẹ nhàng, bàng bạc, sầu mộng. Về mặt quy luật Đường thi, thì câu thơ nôm của Nguyễn Khuyến đối ngẫu không hoàn chỉnh, mà lỏng lẻo. Chữ Hán và Việt tuy cấu trúc gần nhau, nhưng thi pháp khác nhau: thơ Việt xuất sắc ở những hư từ: ngõ đâu… trúc ấy… thuyền ai... dâu đây…, những âm hao luyến láy: dâu đây, ấy, ai mơ hồ mà quyến luyến. Nhịp thơ Đường luật 4/3 là cổ điển, nhưng cách cài đặt những âm hao vào tiết điệu câu thơ, là tuyệt vời. Câu thơ chữ Hán: nghi vô lộ khẳng định, câu thơ nôm ngõ đâu…mơ màng giữa nghi vấn và phiếm định. Tôi chạnh nhớ sang câu thơ Huy Cận trong Tràng giang:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Xuân Diệu dứt khoát cho rằng từ đâu là phủ định, đi với câu sau Không cầu gợi chút niềm thân mật, nhưng hỏi sang chính tác giả, thì Huy Cận… không chắc!
Nới rộng nguồn thơ như thế, là để cùng nhau thưởng thức một câu thơ hay và qua giá trị thi pháp của từ ngữ, cùng thấy rằng từ bến ở đây, Nguyễn Khuyến, rất ý thức, đã đặt đúng nơi và đúng lúc.
Chúng ta sẽ còn thấy thêm nhiều ví dụ khác, qua thơ dịch Hán Việt, với ba bài nổi tiếng nhất: Phong Kiều dạ bạc, Hoàng Hạc Lâu và Tỳ Bà Hành.
Nguyệt lạc ô đề
sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành
ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung
thanh đáo khách thuyền
(Trương Kế, Phong Kiều dạ bạc)
Bản dịch quen thuộc nhất, gốc của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) thường bị gán nhầm sang Tản Đà, hai lần dùng chữ bến không có trong nguyên văn:
Trăng tà chiếc
quạ kêu sương
Lửa chài cây
bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm
nghe tiếng chuông chùa Hàn San 3
Riêng với tên Cô Tô nhiều dịch giả nổi tiếng như Tản Đà, Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim đều thêm vào chữ bến, là không sát, vì Cô Tô, nay gọi là Tô Châu, thuộc tỉnh Giang Tô, là một thành phố trên cao, ngày xưa tương truyền vua Ngô đã dựng đài cho Tây Thi. Nhưng vì nguyên tác có chữ “bạc” (ghé thuyền) và chữ “thuyền”, nên dùng danh từ bến là hợp lý, tuy vẫn là thêm vào nguyên tác. Câu này sẽ phái sinh:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…
của Hàn Mạc Tử; hay ca từ trong Phạm Duy :
Thuyền tôi đậu
bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng…
Điển cố còn gợi ý cho Quách Tấn:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Nhà thơ dùng chữ bến cho một địa danh có nghĩa là cầu (kiều) có trồng cây phong; học giả người Pháp, Demiéville dịch ra là “Pont de l’érable”.
Ví dụ phổ biến tiếp theo là bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, với hai câu 5-6:
Tình xuyên lịch
lịch Hán Dương thụ
Phương
thảo thê thê Anh Vũ châu
Trong nguyên tác, không có chữ nào có nghĩa là bến, nhưng trong bản dịch của Ngô Tất Tố, bậc thầy trong nghề dịch:
Vàng gieo bến Hán
ngàn cây hửng
Xanh ngụt châu Anh
lớp cỏ dày.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, một bậc thầy của thi ca, trước khi lià đời, đã “chuyển ngữ” bài thơ để gửi gắm tâm tư, cuối năm 1975:
Cây bến Hán
Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ
Anh Vũ chẳng ai chơi.
Chữ bến dựa theo phong cảnh và ý nghĩa trong nguyên tác, nhưng vẫn là một sáng tạo. Nó tạo thêm âm hưởng cho câu thơ, như con thuyền cập bến vừa khi.
Bài thơ dịch Hán Việt nổi tiếng thứ ba là Tỳ Bà Hành của Bạch Cự Dị, bản dịch được truyền tụng nhất do Phan Huy Thực, xưa kia ghi là do Phan Huy Vịnh, tuyệt trần ngay từ câu đầu:
Bến Tầm dương canh khuya đưa khách
Nguyên tác:
Tầm dương giang đầu dạ tống khách
Dịch sát ta sẽ có: “Đầu sông Tầm dương đêm tiễn khách”, sát và êm tai nhưng không hay. Có người nêu lên tính cách tượng hình của âm thanh: bến và khách là hai âm trắc, dấu sắc, đầu và cuối câu, đóng khung cho năm âm bằng liên tiếp, là hình ảnh hai bên bờ sông cao hơn mặt nước, tượng hình cái bến. Giải thích như thế, dù có khiên cưỡng, cũng được nhiều người thích thú. Trong bản dịch còn có câu hay:
Thuyền không đỗ
bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi
nước trôi lạnh lùng
Chữ bến dịch từ “giang khẩu” trong nguyên tác, nghĩa na ná, nhưng âm vang có khác, do duyên nợ ba sinh vốn có trong tiếng Việt, giữa bến và thuyền.
Dẫn chứng những bản dịch Việt Hán, mà chỉ nói đến thơ Đường, không nhắc đến ví dụ trong văn ta, như Chinh Phụ Ngâm, là thiếu sót. Nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, nhiều bản dịch ra quốc âm, phổ biến nhất là bản Phan Huy Ích, thường được gán cho Đoàn thị Điểm. Câu nhiều người thuộc:
Chốn Hàm Dương chàng
còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương
thiếp hãy trông sang
Nguyên văn:
Lang cố thiếp hề, Hàm
Dương
Thiếp cố lang hề, Tiêu
Tương
Rõ ràng là không có ý “bến », và hai câu tiếp theo nói đến khói Tiêu Tương, sông Tiêu Tương
Tiêu Tương yên
trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương
thụ cách Tiêu Tương giang
Bản dịch, lần này chính của Đoàn thị Điểm, theo khảo sát văn bản của Hoàng Xuân Hãn:
Bến Tiêu Tương
mấy hàng khói tỏa
Cây Hàm
Dương bóng lá ngất đầu 4
Nghiệm cho cùng dịch sát, dò theo từng chữ một, cũng không phải là khó, chỉ cần đổi hay dời một đôi chữ trong các ví dụ trên đây; bạn đọc có thể làm thử. Nhưng các dịch giả toàn là bậc tài danh, họ dùng từ bến, có khi tự nó đến, đến chỗ ấy, khi ấy; có khi vì trong tiếng Việt từ bến có ngân vang mà chữ Hán, những giang đầu, giang tân, giang khẩu, độ đầu, cổ độ…không gợi lên, nghĩa là từ bến bản thân nó có một “hệ số thi lượng” cao như Bonnefoy đã nói. Do đó bản nôm Chinh Phụ Ngâm có rải rác nhiều từ bến, có thể là một công cụ dịch thuật thuận lợi cho thi pháp.
Chất thơ có khi nhờ vào vỏ ngôn ngữ, cái biểu hiện, âm chấn mà nhà bác học Gaston Bachelard gọi là “giá trị phát âm” (valeur vocale) “một đức tính xướng ngôn hoạt động trên bậc thềm những mãnh lực của giọng nói” mà Edgar Poe gọi là mãnh lực của lời nói 5.
Ông viết điều này trong sách kinh điển La poétique de l’espace (Thi tính của không gian), khi nhận xét về tính từ vaste (rộng, bao la, bát ngát) trong thơ Baudelaire: từ này được sử dụng nhiều lần, nhưng ít khi trong nghĩa khách quan của nó, mà thường do âm hưởng nội tâm. Thậm chí, trong từ vaste, nguyên âm a đã là “nguyên âm của bao la”6. Chúng ta chợt nhớ cảnh lầu Ngưng Bích: bốn bề bát ngát xa trông… Và lưu ý đến nguyên âm ê trong ca dao:
Thuyền về thuyền nhớ bến
chăng
Bến thì một dạ khăng
khăng nhớ thuyền
Từ bến, sau nghĩa khách quan, có thể để lại một âm hao ngân vọng trong tâm tưởng, trong thơ, như ta đã thấy, và còn thấy rõ hơn nữa qua ca từ của tân nhạc: Con thuyền xa bến…, con thuyền không bến…, bến ấy ngày xưa. Và đặc biệt là trong bài Chuyển Bến của Đoàn Chuẩn.
*
Bouchaud, Sông Hương, 1902
Bến là nơi tiếp xúc giữa đất liền và nước, nước sông, hồ hay biển; bến là một thiên nhiên được chỉnh trang để giặt giũ, tắm rửa hay lấy nước. Nghĩa đến sau, ngày nay thông dụng hơn là: nơi thuyền bè ghé vào, dần dà ẩn dụ thêm ý nghĩa đưa tiễn, mong chờ, đón đợi. Những ra đi mong có ngày về. Hay không hẹn ngày về
Sen xa hồ sen khô hồ
cạn
Lựu xa đào lựu ngả đào
nghiêng
Em xa anh như bến xa thuyền
Như
Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên
cho tái hồi
(Ca dao Bình Trị Thiên)
Đất và nước, thủy thổ, là hai yếu tố cơ bản cho đời sống, vật chất và tâm linh. Nhưng nếu chỉ có giao tiếp giữa đất và nước, thì mới nên bờ chứ chưa thành bến: bến là thêm sự hiện diện của con người. Có thể nói: bến là cuộc hôn phối giữa đất và nước do con người môi giới. Sông biển làm xa cách, bến là thành tựu của con người vượt thiên nhiên để đến gần nhau, từ làng này sang làng khác, rồi từ nước nọ sang nước kia. Làm cho “ những đất đai, những chân trời gần lại” theo lời thơ Văn Cao, 1956.
Làng quê Việt Nam bình dị, ít danh lam thắng cảnh; nông dân Việt Nam gắn bó với bờ ruộng, lũy tre, ít xê dịch, ngao du, trong những phương tiện giao thông giới hạn. Do đó, bến đò đã là biên cảnh, rồi phong cảnh, dần dà trở thành tâm cảnh. Bến là cánh cửa mở ra thế giới, cho những ước mơ, nhưng đồng thời cũng khép lại những phương trời viễn mộng.
Nguyễn Minh Châu có tập truyện tên Bến quê lấy tiêu đề từ một truyện ngắn, chắc là ông tâm đắc. Nhân vật tên Lũy, là một “người cha sắp từ giã cõi đời, đang dấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng”. Anh nắm liệt giường, phải có người đỡ dậy để nhích “từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản” bậu vào cửa sổ để nhìn xuống sông Hồng. Cao hứng anh bảo đứa con trai xuống đò sang bên kia sông “chẳng để làm gì cả. Đi chơi loanh quanh, ngồi xuống nghỉ ngơi ở đâu đó một lát rồi về”. Kỳ thật, Lũy chỉ muốn nhìn theo đứa con, hình ảnh của chính mình, ra bến đò, xuống đò, sang sông. Và để nhìn ngắm bến đò “một giải đất đứng bên này, một đám đông khách đợi đò. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy !!”. Cảnh tượng như thế thì lấy gì làm hấp dẫn ? “Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có và mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá, thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận, đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. 7
Phải gắn bó với nông thôn xưa, với những bến đò, với quê hương khốn khó, mới thẩm thấu điều riêng, niềm mê say lẫn với nỗi ân hận trước một bờ sông, một bến đò của nhân vật Lũy, hình ảnh của tác giả Bến quê.
Trong tiểu thuyết Đôi Bạn, 1939, Nhất Linh cũng đã cho nhân vật Dũng, trước bến đò Gió, thốt lên: cảnh bến đò bao giờ cũng buồn, nhưng không phải vì cảnh biệt ly,
“nỗi buồn ấy có một duyên cớ sâu xa hơn (…), Dũng thấy là hình ảnh của cuộc đời…, những khách bộ hành, một buổi chiều đông, qua bến đò,in bóng trong chốc lát trên dòng nước trắng của cuộc đời chảy mãi không ngừng(…). Buồn nhất là những cái quán xơ xác của các bến đò. Mình là những cái quán ấy, đứng yên trong gió lạnh nhìn cuộc đời trôi qua trước mắt”
(Đôi Bạn, tr 68 bản Hương Anh, Paris, 1951, tr 57 bản Văn Mới, Califorrnia, 2010)
Nhất Linh có thể đồng cảm với nỗi ân hận đau đớn nửa thế kỷ sau của Nguyễn Minh Châu: họ cùng là những tác gia lớn lao vì tài năng và vì tác phẩm đậm đà tình người. Tình người không nhất thiết phải gồm cả tình quê. Nhưng tình quê thì ắt phải có tình người.
Bến quê, nghe theo cách nào đó, là hai từ trùng lặp ý: mỗi Quê là một Bến. Ra đi và trở về. Ra đi từ bến sông Thương của Anh Thơ, để Trở về bến mơ, bài hát của Ngọc Bích. Hạnh phúc của Ulysse không phải là cuộc phiêu lưu dài, đầy chiến công và thành tích, mà là buổi trở về, bến xưa thềm cũ, nơi có con chó già nhận diện được cố nhân.
Nhà thơ Đặng Đình Hưng, muốn cách tân thơ đã sáng tác một thi phẩm tân kỳ đến bí hiểm, nhưng chọn một tiêu đề đơn giản: Bến lạ (1991), hình ảnh được lặp lại nhiều lần như một điệp khúc trong ngôn từ hiện đại:
Tôi ghé Bến lạ cắn một
quả vả và những kỳ lạ
Màu
xanh chưa chín…
Và kết thúc bài thơ:
Đời jì
Sao cứ
đi đi những cái vali cứ về
Bến
lạ !
Derain, Port de Collioure, 1905
Như vậy thơ dù cách tân đến đâu vẫn cần buông neo vào một hình ảnh thân thuộc, tạo tính cách đồng thuận, ở đây là cái bến.
Lê Đạt, một nhà thơ hiện đại khác, cảm hứng từ bài thơ Nguyễn Khuyến, đã gieo đôi vần điệu u hoài:
Mộng đầu sông
mưa
ngâu
thuyền bến cũ…
(Thu điếu)
Hay tân kỳ hơn:
Em đời bến nước
tên em mát
Đội mắt em qua mấy
nắng rồ…
(Vào hè).
Tập Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, ấn bản 1993, mở ra với bài Cỏ Bồng Thi bắt đầu bằng:
Chị đưa Em đến bến
này
Cheo leo mỏm đá
Trước
vực
Sau khe
Thòng lọng tơ gì
quấn gót
Cũng là một bến…lạ. Vì bến thì phải nơi bằng phẳng cho người xuống thuyền. Có lẽ từ bến tự đến với Hoàng Cầm, trên hài âm lãng đãng của nó.
Nếu Lưu Trọng Lư có lần ví mắt em là một dòng sông, thì Hoàng Cầm ví hàng mi với cái bến, cũng không có gì là trái lý:
Ngày em ngủ bến
mi ánh nắng đọng
Chiều em đi
không quá một vòng tay.
(Ngẩn ngơ)
Hoàng Cầm đã đi xa lắm, rời xa những bến khói sương… bến sông xa… Nếu anh còn trẻ… (1943). Có người còn nhắc câu này của ông:
Anh nhớ em đôi mắt trong như
ngọc
Đã mờ phai sương khói
bến thu xa
Hỏi lại thì Hoàng Cầm… không nhớ !!!.
Cùng một chuyến đò, còn có Phùng Cung. Đi vắng nhà đằng đẵng mười hai năm, khi trở về, 1972, ông không còn tìm thấy “ bến cũ” như Lê Đạt, nhưng vẫn nhận ra quê xưa từ những sợi lạt bó rau:
Bạc tóc trở về
quê
Bỡ ngỡ tìm đò bến
mới
Nhìn dáng lạt bó rau
Nhận
được người làng
(Người làng)
Nhận ra thôn làng
, dễ hơn nhận ra người làng. Con
người khó nhận ra nhau hơn phong
cảnh.
Sợi lạt bó rau càng khó
nhận ra.
Vậy cái bến có thể nằm im lìm như bến My Lăng, bến Cộ, những bến đợi dưới cây già đâu đó, nhưng từ bến thì lại lênh đênh theo thời gian, nổi trôi theo thời cuộc. Chỉ trong tác phẩm Văn Cao thôi, thì cái Bến Xuân, bến Bính bên Sông Cấm mộng mơ năm 1942 đã khác với cảnh ai qua bến nắng hồng với những bóng người sầm uất bến Then bên bờ sông Lô, 1947. Từ bến cảng Hải Phòng những ngày tranh đấu 1945, Mỗi ngày mồng một tháng năm… Tàu đứng chết trên bến, cho đến ngày giải phóng 1954, khách nước ngoài đầu tiên vào bến… chúng tôi hôn nhau… những đất đai, những chân trời gần lại… (Những người trên cửa biển, 1956).
Bùi Xuân Phái, Thuyền và biển
Muốn đạt tới niềm vui huynh đệ ấy, con người phải đi qua một cái bến vùng cao, như Nguyễn Đình Thi đã đi qua, 1950 khi tìm viếng mộ bạn là nhà vănTrần Đăng đã hy sinh trên chiến trường biên giới Lạng Sơn, trước đó chưa lâu:
Qua bến sông quen tôi
về đây
Tìm mộ anh nơi ven núi
cũ
Tôi ngắt những hoa rừng tím
đỏ,
Ngắt nhiều hoa nữa nhiều
trên tay
Hoa rừng
Nhưng rồi cũng có cái bến nằm ngoài thời gian, im lìm mà vẫn linh động, trong một bài tứ tuyệt Phạm Tiến Duật làm 1969, thời cao điểm của chiến tranh, mô tả tâm trạng một người lính lái xe :
Cái vết thương
xoàng mà đưa viện
Hàng còn
chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa
nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn
nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
(Nhớ, trích từ Vầng trăng và những quầng lửa, 1983, tr 27)
Trong bài này, chữ “bến” chỉ bãi đậu xe vận tải. Nhưng trong tâm tưởng người đọc, bến đây là bến thuyền, ngang mặt sông khi nhìn nghiêng từ khoang thuyền, đối lập với mặt trăng trên cao, như trong cảnh:
Cắm thuyền sông
lạ một đêm thơ
Trăng thượng
tuần cao sáng ngập bờ
Đâu đó
Tầm Dương sầu lắng đợi
Nghe
hồn ly phụ khóc trên tơ…
(Vũ Hoàng Chương)
và cách luyến láy, vừa tiếp nối vừa đối lập: nằm ngửa nhớ… nằm nghiêng nhớ… của Phạm Tiến Duật thật tài hoa, trong một bài thơ ngắn thuộc loại hay nhất thời chiến tranh, không khỏi nhắc đến nguồn thơ cổ trong Lý Bạch:
Cử đầu vọng
minh nguyệt
Đê đầu tư cố
hương.
Ngẩng đầu nhìn
trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố
hương.
Một từ ngữ có thể có giá trị trong giai đoạn, và giá trị đó thay đổi theo thời gian văn hóa, nhưng cái vốn văn hóa thì tồn tại dài lâu trong tâm thức con người, cho nên, ngày nay, độc giả vẫn còn thích thú tìm lại trong thơ Hoài Khanh cái bến xa xôi trong hoài niệm:
Em thì vẫn nụ cười xanh
mắt biếc
Màu cô đơn trên
suối tóc la đà
Còn gì nữa
với mây trời đang trắng
Đã
vô tình trôi mãi bến xông xa
Hay cái bến diệu vợi, vời vợi ước vọng, trong cùng một bài thơ:
Quá khứ đó
dòng sông em sẽ ngủ
Giấc chiêm
bao nguyên vẹn có bao giờ
Ta sẽ gặp
trong ý tình vũ bão
Con thuyền hồn
trở lại bến hoang sơ
(Ngồi lại bên cầu, trong tập Thân Phận, 1962)
Bến là ngoại cảnh, mà cũng là tâm cảnh. Bến là thực tại mà cũng là hoang tưởng. Là không gian cùng với thời gian trong hiện tượng luận. Bến là thời gian ngoài thời gian, như trong bài thơ Đăng Trình của Vũ Hoàng Chương:
Bao
nhiêu hạt cát bến sông này,
Đã
bấy nhiêu ngàn thế kỷ nay,
Ta vượt
ngàn năm đường ánh sáng,
Đi
từ vô tận đến nơi đây.
Bến đây có thể là một Cõi Về, vào một kiếp khác, và đâu đó,cũng là một Bến Quê:
Đêm đêm ta dõi mấy
tầng cao,
Tìm một không gian mới lạ
nào,
Lấp lánh Quê Trời thơ
hẹn bến,
Giam mình Quê Đất mãi
hay sao ?
Bài thơ này Vũ Hoàng Chương cảm hứng từ những thành tựu khoa học không gian, những phi thuyền đầu tiên mà loài người phóng lên thám hiểm vũ trụ, 1957, có đoạn lồng lộng thi tứ:
Này
lúc vèo qua hệ thái dương
Ném
sau ngàn lửa đóm kim cương,
Mạn
phi thuyền cháy lên hừng hực
Ta gõ
mà ca: thiên nhất phương…
Phi thuyền hực cháy, nhà thơ ngồi trong đó, mà vẫn an nhiên “gõ mà ca” thơ Tô Đông Pha: vọng mỹ nhân hề…thì quả là ngang tàng, hào sảng, siêu thoát. Bài thơ tuyệt diệu, đưa khoa học vào chân trời mơ mộng, làm giao điểm giữa kỹ thuật và thi ca.
Bến là một tâm cảnh đã nằm sâu trong tiềm thức cộng đồng, có khi không ai nhắc đến mà ta vẫn nhớ, như trong câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu:
Đã nghe rét mướt luồn
trong gió,
Đã vắng người sang
những chuyến đò.
Trong câu thơ, nào có chữ bến nào đâu, sao mà ta vẫn thấy ? Thế thì cái bến nằm ở đâu ? Xin thưa nó nằm ở chỗ ngắt câu 4/3, khi giọng người chậm lại, chùng xuống
Đã vắng người sang
-
những chuyến đò..
Trở về lý thuyết cơ bản của thi pháp: mọi kỹ thuật hình thức đều tiềm ẩn nội dung của nó. Điều cơ bản, nhưng không phải lúc nào, và ai ai cũng nhận ra.
*
Giáng Hương, Bến cá, 1960
Bến quê… Mỗi quê hương là cái bến trong trí nhớ. Nhớ một bến quê ngày xuân trong thơ Nguyễn Trãi: Trại đầu xuân độ (Bến xuân đầu trại):
Độ đầu xuân
thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm
lai thủy phách thiên
Dã kính
hoang lương hành khách thiểu
Cô
châu trấn nhật các sa miên.
Xuân Diệu dịch tài tình, vừa sát ý vừa thoát lời, dịp Tết 1977:
Cỏ xuân đầu bến xanh như
khói
Thêm hạt mưa xuân nước
vỗ trời
Đường nội vắng xa,
hành khách ít
Thuyền côi gác
bãi suốt ngày ngơi.
Trong Quốc Âm thi tập, Nguyễn Trãi một đôi lần đã có dùng từ bến:
Bến
trúc đường thông cảnh cực
thanh…
Bến liễu mới dời thuyền
chở nguyệt…
Sau đó là trong Hồng Đức quốc âm thi tập:
Bãi tạnh thuyền ai bến liễu dời.
Có lẽ đây là những « bến » nôm đầu tiên trong thơ quốc âm. Cần lưu ý đến cụm từ « thuyền ai » thường trở đi trở lại trong thơ ta, nhờ nội hàm và âm giai, như trên đã nói.
Hình tượng bến, thịnh hành trong phong trào Thơ Mới. Nguyễn Bính, 1938, đã có nhịp thơ lạ:
Hôm nay, dưới bến xuôi
đò
Thương nhau qua cửa tò vò
nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh
buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh
buồm.
Một hơi thơ buồn bã mở đầu tập Rau Tần của Trần Huyền Trân :
Mưa bay trắng lá rau tần,
Thuyền
ai bốc khói xa dần bến mưa,
Có
người về khép song thưa
Để
rêu ngõ trúc tương tư lá
vàng.
(Thu, 1939)
Tâm trạng u uất một thời, qua đoạn thơ Vũ Hoàng Chương mà nhiều người biết:
Lũ chúng ta đầu
thai nhầm thế kỷ,
Một đôi người
u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu
bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền
ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
(Phương xa, 1940)
Hay Lưu Trọng Lư ngất ngưởng, trên báo Hà Nội Tân Văn, số 13 ngày 9-4-1940:
Ước gì ta có
ngựa say
Con sông bên ấy bên này
của ta.
Trời cao, bến lặng,
bờ xa
Lao đao gió sậy, la đà
dặm trăng…
Bài này khi in lại trong Tuyển Tập Lưu Trọng Lư, 1987, thì văn bản vừa thiếu sót vừa…vớ vẩn, tr.64:
Ta say ngựa cũng la đà ( ???)
*
Quê tôi cũng lắm bến, nhiều đò. Đò dọc, đò ngang, những bến đò hiu hắt chiều sông, nay chỉ thấp thoáng trong hoài niệm của một người bạn trẻ, – cũng là xấp xỉ cổ lai hy – đồng hương, nhà thơ Uyên Hà, mới gửi đến tôi:
Chị ơi chiều đến
em say khướt
Như những chàng trai lỡ
hẹn về
Chị ơi, trong bóng chiều
thổn thức
Vẫn sáng vô cùng
một bến quê.
Không cứ gì một Uyên Hà, trong chúng ta đã có bao nhiêu khách tình xuân, cùng với Nguyễn Bính, đã
Đi biệt không về với bến sông
Riêng với tôi, sau cuộc sum vầy, họp bạn trên báo hôm nay, trong mùa xuân này, trên Bến Xuân này, sẽ còn ngân dài một giọng hò mái nhì, mái đẩy, đâu đó, đâu đây, sâu lắng, vắng xa:
Tình về Đại
Lược,
Duyên ngược Kim Long
Đến
đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp
nhau còn biết trên sông bến nào.
Đặng Tiến
Xuân Ất Mùi
31-1-2015
1 Yves Bonnefoy (sinh 1923), trong Un Rêve fait à Mantoue, 1967, nxb Mercure de France. Gallimard in lại trong loại sách bỏ túi : L’Improbable et autres essais, tr. 256-257, 1992, Paris.
2 Thơ văn Nguyễn Khuyến, tr. 102 và 385, nxb Văn Học, 1971, Hà Nội, Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ, tr. 457-462, nxb Giáo dục, 1994, Hà nội. Núi Long Đội, tức núi Đọi thuộc tỉnh Nam Hà.
3 Thơ Đường, Tập I, tr.172, nxb Văn Học, 1962, in lại 1987, Hà Nội. Ghi dịch giả khuyết danh
4 Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm bị khảo, tr.143, nxb Minh Tân, 1953, Paris.
5 Gaston Bachelard, La poétique de l’espace (Thi tính của không gian) tr.179, nxb P.U.F.1957
6 Nt, tr.174 và 180.
7 Nguyễn Minh Châu, Bến quê, tr.61-64, nxb Tác Phẩm mới, 1985, Hà Nội. Truyện ngắn 8 trang, viết tháng 7-1983. Đọc thêm bình luận về bài này của Tôn Phương Lan, Phong cách nghệ thuật NMC, tr.125, nxb Khoa học Xã hội, 1999, Hà Nội.
Các thao tác trên Tài liệu