Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / NGÀNH CÔNG NGHỆ GIẤY VIỆT NAM

NGÀNH CÔNG NGHỆ GIẤY VIỆT NAM

- Tịnh Tâm — published 24/01/2011 18:18, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:18
Mục đích của bài nghiên cứu này là khảo sát từ quan điểm kỹ thuật và kinh tế sự phát triển của ngành công nghệ giấy Việt Nam trong thập niên 1999-2009 và dự đoán thành quả của sự phát triển này trong mười năm tới.


THỰC TRẠNG
NGÀNH CÔNG NGHỆ GIẤY
VIỆT NAM



Tịnh Tâm (*)



Tổng sản phẩm bình quân đầu người (per capita gross domestic product : PC-GDP) của Việt Nam tăng trung bình chừng 6% hằng năm trong hai thập niên 1990 và 20001. Sự phát triển một nền kinh tế không những được biểu dẫn qua sự tăng trưởng GDP mà còn qua sự gia tăng tiêu thụ giấy và bìa cứng bình quân đầu người (per capita paper and board consumption: PC-P&BC). Mục đích của bài nghiên cứu này là khảo sát từ quan điểm kỹ thuật và kinh tế sự phát triển của ngành công nghệ giấy Việt Nam trong thập niên 1999-2009 và dự đoán thành quả của sự phát triển này trong mười năm tới. Bài viết này sẽ không đề cập đến vấn đề cung cấp nguyên liệu gỗ từ rừng trồng cho ngành giấy, một vấn đề tế nhị của Việt Nam2. Ngoại trừ những trường hợp chẳng đặng đừng, bài viết này sẽ né tránh dùng ngôn ngữ chuyên môn trong ngành.


Dân số, GDP bình quân đầu người (PC-GDP),
và tiêu thụ giấy và bìa cứng bình quân đầu người (PC-P&BC)


Hình 1 biểu thị sự liên hệ giữa PC-P&BC với PC-GDP trong năm 2009 của các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South-East Asian Nations : ASEAN). Nhật, Trung Quốc và Nam Hàn là dữ liệu để so sánh. Nhìn tổng quát, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa PC-GDP và PC-P&BC (y = 1.063 x2 – 48.65 x + 1823; R2 = 0.918). Quốc gia với PC-GDP càng cao thì PC-P&BC càng nhiều. Nhưng sự gia tăng của mức PC-P&BC bị chậm lại khi PC-GDP vượt quá 30.000 USD. Việt Nam, Nam Dương, Phi Luật Tân, Căm Bốt và Lào là những nước với PC-GDP dưới 2.500 USD và với mức PC-P&BC thấp hơn 30 kg/năm. So với Nam Dương và Phi Luật Tân, PC-P&BC của Việt Nam tương đối cao hơn mặc dù PC-GDP thấp hơn. Một lý do có thể rằng Nam Dương và Phi Luật Tân là những nước đã mắc trầm trọng vào cái bẫy của những nước có thâu nhập trung bình (middle-income trap : PC-GDP dưới 10.000 USD) trong khi Việt Nam còn đang trên đà phát triển mạnh.

 

Hình 1. Liên hệ giữa tiêu thụ giấy và bìa cứng bình quân đầu người
(PC-P&BC) và tổng sản phẩm bình quân đầu người trong năm
2009 của các nước trong khối ASEAN
Bị chú : 1) Dữ liệu PC-P&BC từ Japan Paper Exporters/Importers Association3
2) Dữ liệu tổng sản phẩm bình quân đầu người từ World Development Indicators

 

Từ năm 1999 đến năm 2009, dân số Việt Nam đã tăng từ 77.1 triệu lên đến 88.5 triệu (Hình 2), một sự tăng gia gần 15% (y = 1.085 x – 2093; R2 = 0.989). Cũng trong thập niên này, PC-P&BC tăng 370%, từ 6.4 lên 23.9 kg/năm (Hình 3)(y = 1.772 x – 131.6; R2 = 0.965). Sự kiện này chứng tỏ rõ ràng sự phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thập niên 1999-2009.

 

Hình 2. Dân số Việt Nam tăng từ 77.1 triệu
trong năm 1999 đến 88.5 triệu trong năm 20094

 

Hình 3. Dân số Việt Nam càng tăng thì tiêu thụ
bình quân đầu người giấy và bìa cứng càng lớn
Bị chú : Dữ liệu PC-P&BC và dân số từ tài liệu tham khảo 2 và 4.

 

Hình 4 cho thấy rằng mặc dầu số lượng giấy và bìa cứng sản xuất nội địa tăng trưởng với sự tăng gia số lượng giấy và bìa cứng tiêu thụ hằng năm, số lượng giấy và bìa cứng sản xuất nội địa không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ bởi vì số lượng giấy và bìa cứng nhập khẩu cũng phải tăng để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ giấy và bìa cứng. Nhu cầu tiêu thụ giấy và bìa cứng càng lớn số lượng giấy và bìa cứng nhập khẩu càng cao và viễn ảnh này thật không tốt đẹp cho tương lai ngành giấy Việt Nam.

 

 

Hình 4. Liên hệ giữa sản xuất và nhập khẩu với tiêu thụ
giấy và bìa cứng của Việt Nam trong thập niên 1999-2009
  Bị chú : O Sản xuất giấy và bìa nội địa hằng năm
Nhập khẩu giấy và bìa hằng năm
P&B : giấy và bìa cứng


Dự kiến cho tương lai


Bảng 1 chỉ rõ rằng những dự kiến số lượng sản xuất giấy và bìa cứng cho đến năm 2009 của văn phòng thủ tướng, Hiệp hội giấy Việt Nam/Công ty giấy Việt Nam (Vinapaco) đều thấp hơn số lượng sản xuất trong thực tế. Ngược lại những nguồn cung cấp dự liệu này lại tưởng tượng một số lượng sản xuất giấy và bìa cứng cho những năm 2015 và 2020 quá cao hơn số lượng dự liệu của nghiên cứu này.

 

Bảng 1. Số lượng giấy và bìa sản xuất hàng năm dự kiến bởi nhiều nguồn (đơn vị:1.000 tấn)

Năm

Số lượng sản xuất thực sự

Hiệp hội giấy Việt Nam6

Tổng công ty giấy Việt Nam7

Quyết định thủ tướng  năm 19988

1999 3525 180
2000 3825 326 300
2002 3825  375
2007 1.1306
2008 1.1113
2009  1.2813 960
2010 1.270a 800 1.050
2015 1.855a  5.186
2020 2.496a 3.600
Bị chú : 1) số in nghiêng là số dự kiến ; 2) a : suy tính dựa trên hình 2-4
 

Dự kiến số lượng giấy và bìa cứng tiêu thụ cho những năm 2003, 2010, 2015 và 2020 được ghi trong Bảng 2. Dự kiến của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (Ministry of Agriculture and Rural Development : MARD) tương đối thấp hơn dự kiến của nghiên cứu này. Bảng 3 ghi dự kiến của nghiên cứu này về dân số, PC-P&BC, sản xuất giấy và bìa cứng nội địa và số lượng giấy và bìa nhập cảng vào những năm 2010, 2015 và 2020.

Căn cứ vào Bảng 3, dự kiến của nghiên cứu này cho thấy rằng Việt Nam sẽ phải nhập chừng 950 ngàn tấn giấy và bìa cứng cho năm 2010, 1.35 triệu cho năm 2015 và 1.8 triệu cho năm 2020. Với một nền ngoại thương thâm thủng như hiện tại, từ năm 2010 đến năm 2020, Việt Nam phải tốn thêm từ 800 triệu đến 1.4 tỷ USD mỗi năm để nhập khẩu giấy và bìa cứng (lấy giá trung bình của giấy và bìa cứng là 800 USD/tấn). Đây không phải là một số tiền nhỏ đối với kinh tế Việt Nam.

Sự khác biệt giữa những dự kiến của nghiên cứu này và các nguồn khác từ trong Việt Nam có lẽ do sự khác biệt của những giả định của những dự kiến đó. Cần phải nói thêm rằng dự kiến từ nghiên cứu này được đặt trên giả định là nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng trung bình 6% hằng năm, số lượng giấy và bìa cứng sản xuất tăng 10-15% mỗi năm, và dân số Việt Nam vẫn gia tăng trung bình 15% mỗi năm cho thập niên tới (Bảng 1-3). Với giả định này dân số Việt Nam trong năm 2020 sẽ xấp xỉ 100 triệu. Vấn đề giải quyết sinh sống cho 100 triệu người này sẽ là một gánh nặng lớn cho chính quyền tương lai.

 

Bảng 2. So sánh dự kiến tiêu thụ giấy và bìa từ nhiều nguồn (đơn vị : 1.000 tấn)

Năm

Dự kiến từ nghiên cứu này

Dự kiến của bộ MARD9

2003 916 971
2010 2.214 1.767
2015 3.207 2.675
2020 4.295 4.057
 
 

Bảng 3. Dự kiến dân số, tiêu thụ giấy và bìa cứng bình quân đầu người (PCP&BC),
số lượng sản xuất, và số lượng nhập khẩu của nghiên cứu này

 

Năm

Dân số (triệu)

PCP&BC (kg/năm)

Số lượng sản xuất
(1.000 tấn/năm)

Số lượng nhập khẩu
(1.000 tấn/năm)

2010 88.4 25.0 1.270 944
2015 93.6 34.3 1.855 1.352
2020 98.8 43.5 2.496 1.799


Tình trạng sản xuất giấy và bìa cứng ở Việt Nam


Chín cơ sở tư nhân đã đi vào hoạt động sản xuất giấy từ năm 2009 và được tóm tắt trong Bảng 4. Ngoại trừ công ty VinaKraft vừa được đưa vào sản xuất đầu năm 2010 với năng suất 220.000 tấn/năm hay 660 tấn/ngày, tám công ty khác chỉ có năng suất tối đa 50.000 tấn/năm hay 150 tấn/ngày. Bởi vì nhà máy VinaKraft không thể đạt được năng suất thiết kế nội trong năm đầu (2010) nên tổng năng suất của 9 cơ sở sản xuất này không thay đổi bao nhiêu dự kiến số luợng sản xuất trong năm 2010 của nghiên cứu này ghi trong Bảng 1, 2.

 

Bảng 4. Cơ sở sản xuất tư nhân mới đã đi vào hoạt động6

Số

Tên công ty

Vị trí

Sản phẩm

Năng lực sản
xuất (tấn/năm)

Thời gian bắt đầu hoạt động

1 Diana Bắc Ninh Giấy lụa (tissue) 20.000  Tháng 9, 2009
2 Hòa Bình Hòa Bình Giấy in báo,
giấy tráng láng
50.000 Tháng 9, 2009
3 Pulppy Corelex Hưng Yên  Giấy lụa 28.000 Tháng 6, 2009
4 Phương Đông Bắc Ninh Giấy bao gói 420.000 Tháng 7, 2009
7 Sông Đuống Hà nội Giấy lụa 20.000 Tháng 7, 2009
8 VinaKraft Bình Dương Giấy bìa lượn sóng 220.000 Tháng 1, 2010
9 New Asia Industry Hồ Chí Minh Giấy bìa lượn sóng 50.000 Tháng 1, 2010

Tổng cộng

488.000

Bị chú :  1) Công ty Pulppy Corelex (Vietnam) là công ty Nhật đặt trụ sở ở Hồng Kông.
2) Công ty VinaKraft là công ty hỗn hợp của Thái (70%) và Nhật (30%) dùng giấy bìa lượn sóng thùng giấy cũ (old corrugated containers : OCC). Công ty này mua công ty New Asia Industry hồi cuối năm 2009.

 

Bảng 5 là danh sách hai mươi hai (22) dự án mới hoặc mở rộng của Công ty giấy Việt Nam (Vinapaco )5. Nhưng sau khi xem xét lại, Vinapaco hủy bỏ mười (10) dự án, hoãn lại ba (3) dự án và chỉ thực hiện chín (9) dự án. Trong chín dự án này gồm cả dự án Kongtum và Lâm Đồng mà Vinapaco dự định hủy bỏ nhưng công ty Tân Mai xin nhận hai dự án này. Đặt giả thuyết rằng cho đến năm 2020 tất cả 9 dự án đều đi vào sản xuất thì số lượng giấy sản xuất từ những doanh nghiệp nhà nước Việt Nam (state-owned enterprises : SOEs) này chỉ được 870.000 tấn/năm. Cộng thêm với dự kiến sản xuất 2.5 triệu tấn năm 2020 của nghiên cứu này (Bảng 3), số lượng giấy sản xuất sẽ là 3.4 triệu tấn/năm. Số lượng giấy sản xuất này vẫn không đủ để đáp ứng dự kiến tiêu thụ 4.3 triệu tấn/năm (Bảng 2). Như vậy Việt Nam vẫn phải nhập 900 ngàn tấn giấy và bìa cứng năm 2020, khoảng 50% số lượng dự đoán của nghiên cứu này (Bảng 3).  

 

Bảng 5. Doanh nghiệp giấy nhà nước Việt Nam (SOEs) : dự án mới hay mở rộng5

Số

Tên nhà máy

Năng lực giấy sản
xuất (tấn/năm)

Dự án

Quyết định
tối hậu

Bị chú

1 Bãi Bằng     100.000 Mở rộng Thực hiện
2 Việt Trì      30.000 Mở rộng Thực hiện
3 Tân Mai     120.000 Mở rộng Thực hiện
4 Đồng Nai     100.000 Mở rộng Thực hiện vào
Tân Mai
5 Kongtum    260.000 Mới Hủy bỏ vào
Tân Mai
6 Lâm Đồng    300.000 Mới Hủy bỏ vào
Tân Mai
7 Bắc Cạn  100.000 Mới Thực hiện
8 Thanh Hóa   200.000 Mới Thực hiện
9 Quảng Trị   100.000 Mới Thực hiện
10 Lai Châu  150.000 Mới Hoãn lại
11 Tây Quảng Nam  100.000 Mới Hoãn lại
12 Cần Thơ 150.000 Mới Hoãn lại
13 Sơn La    150.000 Mới Hủy bỏ
14 Yên Bái-Lào Cai  200.000 Mới Hủy bỏ
15 Lạng Sơn   150.000 Mới Hủy bỏ
16 Nam Nghệ An   150.000 Mới Hủy bỏ
17 Hòa Bình    300.000 Mới Hủy bỏ
18 Bắc Giang    200.000 Mới Hủy bỏ
19 Bắc Nghệ An   200.000 Mới Hủy bỏ
20 Bình Định   150.000 Mới Hủy bỏ
21 Tây Nguyên Đắc Lắc   200.000 Mới Hủy bỏ
22 Bình Thuận  150.000 Mới Hủy bỏ

    Tổng cộng

3.560.000

    Số lượng giấy sẽ sản xuất

870.000

Số lượng giấy hủy bỏ/hoãn lại

2.250.000

Bị chú : 1) nhà máy giấy Kongtum dự định sản xuất 200.000 tấn giấy tráng láng/năm;
             2) nhà máy Lâm Đồng dự định sản xuất 200.000 tấn bột/năm;
             3) nhà máy Đồng Nai chỉ có năng xuất 20.000 tấn giấy/năm.

 

Bên cạnh dự án mới hay mở rộng của Vinapaco, còn có những dự án tư nhân hay bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước như nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai, Việt Trì, Đồng Nai v.v.. Bảng 6 tóm tắt những dự án này. Hầu hết những dự án này chỉ có trên giấy tờ. Ví dụ dự án sản xuất bột giấy từ giấy vụn thâu hồi của công ty Sài gòn ở Quảng Ngãi hay dự án công ty Việt Nam ở Phú Thọ, dự án công ty Việt Thắng ở Hải Dương đều có dự định bắt đầu sản xuất trong năm 2010 nhưng mãi cho đến cuối năm 2010 vẫn chưa có động tĩnh nào. Hoặc là công ty Tân Mai với một kế hoạch đầy tham vọng để biến một cơ sở sản xuất nhỏ ở Biên Hòa, 120.000 tấn/năm, thành một trung xí nghiệp với một tổng công suất 750.000 tấn/năm với những nhà máy mới ở Quảng Ngãi, Kongtum, Bà Rịa. Tuy nhiên ông chủ Tân Mai, Trần Đức Thịnh, đã rao tiếng đem bán công ty Tân Mai hồi đầu mùa thu 2010 bởi vì thiếu vốn. Như vậy dự án Tân Mai đã chết khi còn trong trứng và 630.000 tấn/năm giấy mà Tân Mai dự kiến sản xuất sẽ phải khấu trừ từ những dự liệu cho tương lai.

 

Bảng 6. Dự án sản xuất mới hay khuếch trương năng lực của tư nhân và nhà nước6

Số 

Tên công ty

Vị trí

Sản phẩm

Năng lực sản
xuất (tấn/năm)

Thời gian hoạt
động dự kiến

1 An Hòa Tuyên Quang Giấy tráng láng
Bột giấy tẩy trắng   
130.000
130.000
2012
2012
2 Côn Cương Nghệ An Bột giấy tẩy trắng 50.000 2010
3 Julius Glatz 
Vietnam  
Hồ Chí Minh Giấy thuốc lá 12.000  ?
4 Kyuryu Bình Dương Giấy bìa lượn sóng 400.000 ?
5 Lý Văn Hậu Giang Bột giấy tẩy trắng 150.000 2011
Phương Nam Long An Bột giấy tẩy trắng 100.000 2012
7 Sai gon Quảng Nam Bột giấy tẩy trắng 115.000 ?
Giấy lụa (tissue) 35.000 2011
Giấy bìa đóng thùng 140.000 2011
Giấy cạt tông 52.500 2011
Bột từ giấy vụn 800 tấn/ngày 2010
8 Tân Mai  Lâm Đồng BCTMP, GP 200.000 2012
Quảng Ngãi Giấy tráng láng 200.000 2011
CTMP 130.000 2011
Kongtum BCTMP 130.000 2011
Giấy tráng láng 200.000 2012
Bà Rịa Giấy in báo 150.000 2011
9 Tân Hòa Tân Hòa Bột giấy 50.000 Kế hoạch
Giấy bao gói 60.000 Kế hoạch
10 Việt Nam Phú Thọ Bột giấy tẩy trắng 250.000 2010
11 Việt Thắng Hải Dương Giấy tráng láng 50.000 2010
12 Vinapaco
(Bãi Bằng)
Phú Thọ Bột giấy tẩy trắng 180.000-
250.000
2011
13 Vinapaco
(Thắng Hoà)
Thắng Hòa BCTMP, DIP 100.000 2012
Giấy in, giấy viết 100.000 2012
14 Bãi Bằng Hòa Bình Giấy in, giấy viết 50.000 2010

Tổng cộng 

1.967.500

Bị chú : 1) BCTMP : bleached chemi-thermomechanical pulp = bột nhiệt cơ hóa tẩy trắng
            2) DIP : de-inked pulp = bột giấy vụn tẩy mực
            3) GP : groundwood = bột mài

 
 

Những doanh nghiệp giấy chủ lực của nhà nước Việt Nam


Nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai, Việt Trì, Đồng Nai là bốn doanh nghiệp cổ phần giấy chủ lực của nhà nước Việt Nam. Việt Trì là một nhà máy giấy xây dựng nhờ viện trợ Trung quốc và đi vào sản xuất năm 1961. Sau 1975 nhà máy tê liệt vì bị đánh bom liên tục trong thời chiến tranh Việt Nam. Lý do là vì nhà máy có một cơ sở phát điện. Năm 2001 nhà máy Việt Trì được tái trang lại với một máy sản xuất giấy bìa cứng với năng suất thiết kế 25.000 tấn/năm nhờ vào vốn vay mượn từ những ngân hàng Nam Hàn. Bởi vì năng sức sản xuất của Việt Trì quá thấp, 30.000 tấn/năm và bởi vì nhà máy Đồng Nai đã bị nhập vào Tân Mai nên chỉ có Bãi Bằng và Tân Mai sẽ được bàn luận ở đây.


1. Nhà máy giấy Bãi Bằng

Lịch sử thành lập của Bãi Bằng được diễn tả trong “The pulp invasion : the international pulp and paper industry in the Mekong region10 (Xâm lược bột giấy : Công nghiệp giấy và bột giấy quốc tế ở đồng bằng sông Cửu Long). Đây là kết quả viện trợ kinh tế của Thụy Điển cho Việt Nam. Giao kèo viện trợ ký năm 1974 nhưng nhà máy mãi đến cuối năm 1982 mới được hoàn thành. Nhà máy được trang bị hai (2) máy giấy với tổng công suất thiết kế 55.000 tấn giấy/năm và ba (3) nồi nấu bột giấy hóa học dùng xút với tổng công suất thiết kế 48.000 tấn bột/năm. Trong những năm đầu thập niên 1990 chỉ có một máy giấy hoạt động bởi vì Bãi Bằng không có ngoại tệ để mua phụ tùng cho máy giấy số 2. Bảng 7 cho thấy rằng số lượng giấy sản xuất năm 1990 của Bãi Bằng là 30.200 tấn, hay 55% của tổng công suất thiết kế.

Với quyết định số 160/1998/QĐ-TTg ký ngày 4 tháng 9 năm 1998, nhà máy Bãi Bằng được chính thức năng cấp sản xuất bột lên 200.000 tấn/năm và sản xuất giấy lên 100.000 tấn/năm ở năm 2010. Năm 2001, Bãi Bằng sản xuất được 72.840 tấn giấy dựa vào bột nhập khẩu và số lượng bột sản xuất được gia tăng từ 48.000 tấn lên 61.000 tấn10. Năm 2010, Bãi Bằng đã hoàn thành công tác gia tăng sản xuất giấy thêm 50.000 tấn/năm năm 2010 với vốn đầu tư 15.8 triệu USD11. Từ đó ta có thể nói rằng Bãi Bằng chỉ cải thiện được hai máy giấy để gia tăng sản xuất giấy nhưng chưa đạt được mục đích gia tăng bột. Như vậy kế hoạch vạch định trong quyết định thủ tướng nói trên chỉ đạt được một nửa. Vấn đề là với sản xuất giấy 100.000 tấn/năm Bãi Bằng có thể giúp Việt Nam giải quyết được vấn nạn thiếu giấy trong nước hay không ?. Một vấn đề khác của Bãi Bằng là kế hoạch gia tăng sản xuất bột vẫn chưa được hoàn thành và như vậy Bãi Bằng vẫn còn phải lệ thuộc vào bột giấy nhập. Như thế giá thành giấy Bãi Bằng sẽ cao và không thể cạnh tranh với những giấy Trung Quốc, Nam Dương hay Thái lan. Số lượng sản xuất giấy và thông số kỹ thuật của Bãi Bằng được ghi trong Bảng 7 8.

 

Bảng 7. Sản xuất thực tế của hai nhà máy giấy chủ lực của nhà nước Việt Nam

Sản xuất thực tế (tấn/năm)

Năm 

Bãi Bằng 

Tân Mai

1959  Xây dựng
1962  Sản xuất
1975 Xây dựng
1982 Sản xuất
1983 10,000
1984 18,000
1985 22,700
1986 30,500
1987 28,110
1988  23,700
1989 26,200
1990 30,200 11,000
1992 20,100
1995 42,000
1998 59,000
2001 72,840
2004  72,000
2007 120,000
2008 140,000
 
 

Bảng 8. Thông số kỹ thuật của máy giấy và bộ phận sản xuất bột giấy ở Bãi Bằng

1. Máy giấy

     Số lượng máy giấy 2
     Chủng loại và nhãn hiệu máy lưới đôi Dominion Papriformer đời 1978
     Công suất thiết kế  120 tấn/ngày/máy (55.000 tấn/năm)
     Định lượng giấy thiết kế 40-150 g/m2
     Vận tốc thiết kế 800 m/phút
     Khổ lưới 4.350 mm
     Khổ giấy 3.800 mm
     Sản phẩm giấy in, viết cao cấp, giấy lụa

2. Bột giấy

     Chủng loại Bột giấy hóa học phương pháp soude
     Nguồn nguyên liệu Gỗ bồ đề, bạch đàn, tre nứa
     Máy làm dăm mảnh 2 máy
     Nồi nấu bột 3 nồi, 140m3/nồi
     Hệ thống rửa bột 4 giai đoạn
     Công suất máy sàn bột 180 tấn/ngày
     Máy sàn bột ly tâm 2 giai đoạn
     Công nghệ tẩy trắng năm 1990 : 4 giai đoạn

(Chlore - xút - hypochlorite - hypochlorite)

năm 2010 : 4 giai đoạn đổi mới
(Rửa trắng bằng oxy - Chlore – xút – hypochlorite)

     Độ trắng năm 1990 : 72-76% GE

năm 2010 : 84-92% ISO

 

2. Nhà máy giấy Tân Mai

Nhà máy giấy Tân Mai (địa danh) nguyên là Công Ty Kỹ Nghệ Giấy Việt Nam (Cogivina) do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (cũ) thành lập năm 1958 ở Biên Hòa. Nhà máy sản xuất giấy in báo dùng bột gỗ thông mài và giấy bìa cứng dùng bột hóa học nhập cảng hay mua từ công ty Đồng Nai gần đó. Bởi vì hai (2) máy giấy cũ (máy số 1 và số 2) của nhà máy có ghi tên công ty giấy Honshu của Nhật (đã sát nhập vào công ty giấy Oji từ lâu) nên ta có thể suy đoán rằng hai máy này ngay từ đầu là hai máy cũ. Công suất thiết kế của mỗi máy nhỏ, 30 tấn giấy/ngày (9.000 tấn/năm). Sau 1975, nhà máy đổi tên qua Tân Mai nhưng vẫn là công ty của nhà nước. Nhờ viện trợ kinh tế Thụy Điển, hai giàn máy nghiền bột nhiệt cơ (thermomechanical pulp refiners), một hệ thống làm dăm mảnh gỗ, và một máy giấy mới sản xuất giấy in báo (máy số 3) được kiến thiết năm 1985. Công suất thiết kế của máy số 3 là 40.000 tấn/năm. Mặc dầu thông ở Lâm Đồng được dành cho Cogivina từ xưa, Tân Mai không thể mua được gỗ thông này nên phải dùng gỗ cây bạch đàn, keo để làm bột. Kết quả là Tân Mai biến kỹ thuật bột nhiệt cơ thành bột hóa nhiệt cơ (chemi-thermomechanical pulp) năm 1995. Qua năm 1999, Tân Mai năng cấp công suất máy số 3 lên 45.000 tấn/năm. Để giải tỏa vấn đề nguyên liệu cho ba máy giấy, Tân Mai xây hệ thống sản xuất bột từ giấy vụn khử mực (de-inked pulp) năm 1999 (công suất thiết kế : 20.000 tấn/năm), và hệ thống sản xuất bột từ giấy thùng carton lượn sóng cũ (old corrugated container) (công suất thiết kế : 30.000 tấn/năm) năm 2003.

Năm 2008 nhà nước Việt Nam bán 60% cổ phần nhà máy Tân Mai, công ty giấy Đồng Nai, rừng thông ở Lâm Đồng, công ty giấy Bình An, và giấy phép cất nhà máy giấy tương lai Kongtum cho tư nhân Trần Đức Thịnh. Tổng sản xuất của ba nhà máy Tân Mai, Đồng Nai và Bình An là 140.000 tấn/năm. Như đã nói ở trên, tư nhân này không đủ vốn để kinh doanh các kế hoạch tương lai như nhà máy giấy Kongtum, Quảng Ngãi, Bà Rịa và nhà máy bột giấy ở Lâm Đồng nên đang rao bán tổng hợp hay bán lẻ những cơ sở sản xuất giấy, bột giấy và nguyên liệu này.

Số lượng sản xuất giấy và thông số kỹ thuật của Tân Mai được ghi trong Bảng 7 9.

 

Bảng 9. Thông số kỹ thuật của máy giấy và bộ phận sản xuất bột giấy ở Tân Mai

1. Máy giấy

Số lượng máy giấy 3
      Máy #1  máy lưới dài hiệu Black Clawson đời 1961
            Công suất thiết kế  30 tấn/ngày (9.000 tấn/năm)
Định lượng giấy thiết kế  40-60 g/m2
Vận tốc máy thiết kế  250 m/phút
Khổ giấy 2.520 mm
Khổ lưới 2.840 mm
Sản phẩm giấy in báo
      Máy #2 máy lưới dài hiệu Black Clawson đời 1966
Công suất thiết kế
30 tấn/ngày/máy (9.000 tấn/năm)
Định lượng giấy thiết kế 60-180 g/m2
Vận tốc máy thiết kế 250 m/phút
Khổ giấy 2.520 mm
Khổ lưới 2.840 mm
Sản phẩm giấy bao bì
      Máy #3 máy lưới đôi Valmet Simformer-N đời 1986
Công suất thiết kế  135 tấn/ngày (40.000 tấn/năm)
Định lượng giấy thiết kế 40-60 g/m2
Vận tốc máy thiết kế 650 m/phút
Khổ giấy  4.200 mm
Khổ lưới 4.600 mm
Sản phẩm  giấy in báo

2. Bột giấy

      Chủng loại và nguyên liệu  bột mài (groundwood) cho máy #1 từ gỗ thông

bột hóa học cho máy #2 từ nhà máy Đồng Nai
hay bột nhập khẩu
bột nghiền nhiệt cơ cho máy #3 từ gỗ thông
hay bạch đàn

      Máy mài bột gỗ (grinding stones 2 máy mài bột, 3 túi, 655 kw (ngưng hoạt động)
      Công suất máy mài bột nghiền 5,000 tấn/năm
      Máy nghiền bột hóa học 7 máy nghiền hình nón hiệu Black Clawson
      Bột TMP (nhiệt cơ) 4 hệ thống đĩa nghiền đơn (SDR) của công ty Defibrator

2 hệ thống cấp 1 và 2 hệ thống cấp 2

Năng lực sản xuất thiết kế bột TMP 40.000 tấn/năm
      Giấy vụn khử mực (năm 1999) năng lực thiết kế = 20.000 tấn/năm
      Giấy carton cũ thâu hồi (năm 2003) năng lực thiết kế = 30.000 tấn/năm



Nhà máy giấy nhà nước Bãi Bằng và Tân Mai
nhìn từ phương diện kỹ thuật sản xuất giấy hiện đại


1. Nhà máy giấy Bãi Bằng

Kế hoạch năng cấp sản xuất hai máy giấy ở Bãi Bằng đã đạt được mục tiêu 100.000 tấn/năm ở năm 2010. Thế nhưng công suất bột vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu máy giấy mặc dầu đã được năng cấp lên 61.000 từ 48.000 tấn/năm. Thật ra chỉ cần thay đổi nhiệt độ và liều lượng hóa chất của nồi nấu bột Bãi Bằng đã có thể sản xuất 61.000 tấn bột/năm từ lâu, khỏi phải đợi những 19 năm (từ 1982 đến 2001) để đạt được số lượng bột này.

Thiết kế căn bản : (1.440 phút/ngày÷282 phút/chu kỳ nấu)×3 nồi× 9.5 tấn bột/nồi×
330 ngày sản xuất/năm = 48.000 tấn bột/năm

Thiết kế cải thiện : (1.440 phút/ngày÷222 phút/chu kỳ nấu)×3 nồi×9.5 tấn bột/nồi×
330 ngày sản xuất/năm = 60.944 tấn bột/năm

Nồi nấu bột ở Bãi Bằng là loại nồi nấu gián đoạn (batch digester). Những loại nồi này tiêu thụ nhiều năng lượng (điện), nước, chiếm nhiều đất, và năng suất lẫn cường độ (strength) bột thấp. Với kỹ thuật nấu bột hiện nay, một tháp nấu bột liên tục nhỏ (small continuous digester) với một công suất thiết kế 276 tấn bột/ngày [(276+10% tăng gia sản xuất)× 330 ngày sản xuất/năm = 100.188 tấn bột/năm] sẽ đáp ứng dễ dàng nhu cầu 100.000 tấn giấy/năm của Bãi Bằng. Đặc tính của những tháp nấu bột liên tục là tiết kiệm năng lượng, nước, chiếm ít đất và năng suất lẫn cường độ bột cao.

Phương pháp nấu bột ở Bãi Bằng chỉ dùng xút (soda pulping). Điểm yếu của phương pháp này là tỷ lệ thâu hồi xút, và năng suất lẫn cường độ bột đều thấp. Chỉ cần thêm lưu huỳnh (sulfur) Bãi Bằng sẽ có phương pháp nấu bột sulphate (kraft pulping), một phương pháp phổ biến hiện đại, với tỷ lệ thâu hồi hóa chất nấu bột, và năng suất lẫn cường độ bột tất cả đều cao. Vấn đề mùi hóa chất chứa đựng lưu huỳnh sẽ được giải quyết bằng cách thu hồi tất cả hơi thải rồi đốt ở lò thâu hồi hóa chất nấu bột (cooking chemicals recovery boiler) hoặc ở lò kho vôi khô (lime kiln).

Mặc dầu Bãi Bằng đã có kỹ thuật rửa trắng bằng oxy, và giảm hai giai đoạn rửa trắng hypochloreite xuống một giai đoạn, phương pháp rửa trắng vẫn còn dùng chlore và hypochlorite, những hóa chất chứa đựng độc tố chlore. Để tránh nhiễm độc môi trường nước và không khí, kỹ thuật rửa trắng bột hóa học hiện đại đã loại bỏ hai hóa chất này từ đầu thập niên 1990. Bởi vì Bãi Bằng đã có kỹ thuật rửa trắng bằng oxy, Bãi Bằng nên có công nghệ rửa trắng dùng xú dưỡng khí (ozone). Cả oxy lẫn ozone đều có thể dùng oxy PSA (pressure swing adsorption). Trong trường hợp Bãi Bằng không muốn chọn ozone, Bãi Bằng nên có nồi phản ứng điều chế dioxyde de chlore để đi vào ngành rửa trắng không dùng nguyên tố chlore [elemental chlorine-free (ECF) bleaching]. Đã có bao giờ Bãi Bằng nghiên cứu ảnh hưởng của chlore trong nước thải nhà máy trên chất lượng cũng như sinh học tính của cá và nước ở trong nguồn nước sông nhận nước thải chưa ?. Bãi Bằng có thể bán hai máy điện giải muối sản xuất chlore và xút cho những công ty làm nguyên liệu nhựa polyvinyl chlorure (PVC plastic).

Hai máy giấy của Bãi Bằng chỉ sản xuất được 100.000 tấn giấy/năm. Hai máy này đã hết chiết khấu nên giá thành của giấy sẽ rẻ nhưng thật sự giấy Bãi Bằng vẫn chưa cạnh tranh được với giấy ngoại quốc nhập khẩu. Thiển nghĩ rằng Bãi Bằng nên nhường hai máy giấy này và ba nồi nấu bột cho Việt Trì, tốt nhất là từ hồi 2001, và thay vào đó một (1) máy giấy hiện đại với khổ giấy 7.5-10.0 m và công suất 350.000 - 400.000 tấn/năm. Những máy giấy lớn này có nhiều ưu điểm so với hai máy cũ ở Bãi Bằng : tiết kiệm năng lượng, hiệu suất cao, nhân công ít, chất lượng giấy cao. Trong trường hợp này Bãi Bằng phải có một tháp nấu bột liên tục với một công suất thiết kế đến 400.000 tấn bột/năm.


2. Nhà máy giấy Tân Mai

Bảng 9 cho thấy rằng bột cơ bản của Tân Mai là bột cơ học (mechanical pulp). Bột này chỉ thích hợp cho giấy in báo, giấy tráng láng (coated paper) và giấy cáng láng (supercalendered paper) dùng cho tạp chí và quảng cáo. Điểm yếu của bột cơ học là tiêu thụ nhiều điện lượng và độ trắng bột giấy thấp, không cao hơn 82% ISO. Trong tình trạng thiếu điện liên tục của Việt Nam, khó có thể tưởng tượng được rằng Tân Mai sẽ đủ điện để chạy đúng công suất thiết kế những máy nghiền bột này. Bởi vậy nâng cấp dây chuyền khử mực giấy vụn là phương tiện kinh tế nhất cho Tân Mai để khuếch trương sản xuất nhà máy.

Tân Mai cũng khá nổi tiếng về ô nhiễm sông Đồng Nai bởi vì Tân Mai ít chịu chi tiền để xử lý nước thải. Nhưng nếu Tân Mai đầu tư vào lên men khí methane từ nước thải và bùn bột giấy (sludge) thì Tân Mai sẽ hao tổn ít hơn về phương diện năng lượng.

Tương tự như Bãi Bằng, máy giấy của tập đoàn Tân Mai (hiện tại gồm Tân Mai, Đồng Nai và Bình An) cũ và nhỏ. Ngay cả máy giấy Tân Mai đặt mua ở Gia nã đại và đang được chuyển về Việt Nam cũng chỉ có công suất thiết kế tối đa 150.000 tấn/năm và đời máy cũng đã cũ gần hai mươi năm.

Bởi vì Tân Mai là công ty bán cổ phần của nhà nước nên Tân Mai có trách nhiệm cung cấp giấy in báo cho nhà nước. Đặt giả thuyết rằng Tân Mai sản xuất được 150.000 tấn giấy in báo/năm. Cũng đặt giả thuyết rằng mỗi tờ báo nhà nước gồm tám trang rộng tổng cộng 0.864 mét vuông và định lượng giấy báo là 42 g/m2 thì mỗi tờ báo chiếm mất 36.3 g [(0.54 m×0.4 m)/2 mặt ×8 mặt×42 g/m2]. Như vậy Tân Mai chỉ có thể cung cấp nhà nước được 11.320 tờ báo mỗi ngày (150.000 tấn/năm ÷ 365 ngày/năm ÷ 36.3 g/tờ báo). Số lượng này không đủ cho nhà nước và do đó Việt Nam sẽ vẫn phải nhập khẩu giấy in báo. Nếu Tân Mai có hai máy giấy với công suất 250.000 tấn/năm/máy và có thể sản xuất giấy báo 38 g/m2 thì Tân Mai có thể cung cấp cho nhà nước 41.723 tờ báo mỗi ngày. Nếu hai máy này có khả năng sản xuất giấy copy thì kinh tế của hai máy này lại tăng cao hơn. Với kỹ thuật sản xuất tự động hiện đại, những máy giấy sản lượng lớn này sẽ sản xuất giấy với chất lượng tốt, và tiêu thụ ít năng lượng và nhân công.


Ghi chú kết luận


Trong thập niên 1999 đến 2009 ngành công nghiệp giấy Việt Nam tăng trưởng nhảy vọt kể cả sản xuất và tiêu thụ. Ngoại trừ máy giấy của công ty ngoại quốc, Vina Kraft, có công suất 220.000 tấn/năm, hầu như các máy giấy của công ty quốc doanh và tư nhân trong nước đều cũ và công suất thấp. Bởi vậy số lượng giấy sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng trong nước. Điều này sinh ra thâm thủng ngoại thương.

Ngành công nghiệp giấy là một ngành bảo thủ, cần nhiều vốn và tiêu hao nhiều năng lượng. Với kỹ thuật sản xuất giấy hiện đại, chỉ có những máy giấy với năng suất cao hơn 200.000 tấn/năm mới có thể gây ra lợi nhuận cao. Bởi vậy vốn đầu tư ngoại quốc là một điều cần thiết. Và kế hoạch sản xuất của những công ty quốc doanh phải đặt trên cơ sở này để có thể cạnh tranh với giấy nhập khẩu. Nói vậy không có nghĩa là kỹ thuật bảo vệ môi trường mới nhất và có hiệu quả nhất không được ứng dụng trong những cơ sở sản xuất tân tiến này.


Tịnh Tâm

(*) Tác giả Gốc Huế nhưng nay với hộ chiếu ngoại quốc, học vấn cấp Ph.D.,
và gần hai mươi lăm năm làm việc trong ngành giấy



Tài liệu tham khảo


1. Porter, M.E., 2010 Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2009-2010. Bản dịch tiếng Việt.
(http://tailieu.tapchithoidai.org/Porter_Complete.pdf)

2. Duy Tuấn, Trường Giang, Hoàng Sang, 2010.

Kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 8 : http://www51.vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/

Kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7 : http://www10.vietnamnet.vn/vn/phong-su-dieu-tra/

3. Japan Paper Exporters/Importers Association, 2010. Data presented at Japan Vietnam Paper Business Promotion Seminar, Tokyo, September 22.

4. Anon, 2010. Demographics of Vietnam.

http//en.wikipedia.org/wiki/Demographics_of_Vietnam

5. Roda, J.M., Rathi, S.S., 2005. Pulp and plantation development in Malaysia and in the Mekong Region : Overviews of the results. A CIRAD presentation at the Asia Pro Eco Programme, Brussels, December 5th.

6. Anon, 2009. Overseas news, Japan Tappi Journal 63(12) : 103-106

          2010. Overseas news, Japan Tappi Journal 64(10) : 96-99

7. Le Huu Quang Huy, 2010. Data presented at Japan Vietnam Paper Business Promotion Seminar, Tokyo, September 22 th.

8. Quyết Định số 160/1998/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 1998

9. Jong, W-d, Do Dinh Sam, Trieu Van Hung, 2006. Forest Rehabilitation in Vietnam : Histories, realities and future. Center for International Forestry Research, Harapan Prima, Jakarta, Indonesia, p.20

10. Lang, C., 2002. The pulp invasion : the international pulp and paper industry in the Mekong region, World Rainforest Movement, Montevideo, Uruguay, pp. 99-144.

11. Anon, 2010. Vinapaco invests in improving technology.

http://vietnambusiness.asia/tag/Vietnam-paper-industry


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us