Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / ĐỌC OKU NO HOSOMICHI CỦA BASHÔ

ĐỌC OKU NO HOSOMICHI CỦA BASHÔ

- Đào Hữu Dũng — published 01/02/2015 18:35, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:19


ĐỌC OKU NO HOSOMICHI
CỦA BASHÔ
Con đường hẹp vào chiều sâu tâm thức


Biên soạn: Nguyễn Nam Trân



troi giat

Ta mơ đời trôi giạt


Diễn Đàn : Bài biên khảo này là phần dẫn nhập, giới thiệu tác giả và tác phẩm, cùng với kết luận của dịch giả. Toàn văn bản dịch và chú giải Oku No Hosomichi hơn 100 trang A4 được đính kèm dưới dạng pdf theo đường dẫn ở cuối bài.


Dẫn Nhập


Đường mòn miền Bắc (tạm dịch nhan đề Oku no hosomichi viết dưới hai tự dạng 奥 の 細 道 hay お く の ほ そ 道) của Matsuo Bashô (1644-1694) là một tác phẩm kinh điển trong văn học Nhật Bản. Nó gồm có hai phần thơ và văn. Hai phần này không đứng riêng rẻ nhưng hòa quyện vào một khối. Trên ba thế kỷ đã trôi qua mà người Nhật vẫn còn nhắc đến nó với tất cả sự cảm khái và trân trọng. Không những Oku no hosomichi diễn tả được hồn thơ của bậc đại sư haiku Matsuo Bashô, mà còn là tác phẩm giúp khám phá chiều sâu văn hoá có lịch sử non hai nghìn năm của dân tộc Nhật Bản.

Có người sẽ hỏi tại sao người viết lại phí công phí sức đi dịch lại một tác phẩm từng được nhiều người chuyển ngữ ra tiếng Việt và đã có bản dịch khá chuẩn mực? Thực tình thì đây là một việc làm quá tầm tay mình nhưng lòng cố chấp nông nổi muốn có một bản dịch - dầu là vụng về - của riêng tây đã ám ảnh người viết từ nhiều năm nay. Huống chi nhân dịp này, người viết cảm thấy mình còn có cơ hội hiếm có cung cấp thêm một số thông tin chung quanh tác phẩm giúp bạn đọc yêu thích Bashô có thể đi xa hơn trong việc thưởng thức áng danh văn.

Người viết không “trực dịch” nguyên bản vì như thế sẽ thành sao chụp, làm nó tẻ nhạt, gồ ghề khúc khuỷu do sự cô đọng và đa nghĩa của cổ văn (văn viết) nhưng “thông dịch” như các dịch giả Nhật Bản thường làm khi đứng trước độc giả bản xứ bằng cách “thao tác” sang kim văn (hiện đại văn, văn nói). Do đó, nó có thể khác với một số bản dịch sang Việt ngữ có trước đây. Hơn nữa, lần này, người dịch cũng nhân dịp sửa chữa những thiếu sót mình mắc phải trong một lần dịch trước.

Chú thích và phê bình cho Oku no Hosomichi đến từ những quyển sách thấy trong thư mục và ý kiến riêng của dịch giả.


Giới thiệu tác giả


Về thân thế và sự nghiệp Bashô, xin xem Chương 1 của quyển sách dịch Matsuo Bashô, bậc đại sư Haiku mà chúng tôi đã phỏng dịch từ tác phẩm Matsuo Bashô, the Haiku Poet (1970) của Giáo sư Ueda Makoto cũng như Niên biểu đính kèm, tất cả đều đọc được tự do trên mạng. Ở đây, người viết chỉ nêu lên những nét chính về nhà thơ cũng như một vài điều chưa được đề cập tới trong văn bản trên và đặc biệt liên quan tới Oku no hosomichi.

Bashô 芭 蕉 sinh năm 1644 (Kan.ei 21) ở Iga Ueno (thị trấn Ueno, tỉnh Mie), con trai thứ trong gia dình Matsuo 松 尾, một samurai cấp thuộc hạ gọi là musokunin (vô túc nhân), không bổng lộc tuy có vinh dự được đeo kiếm, thời bình chỉ chuyên việc nông nhưng cũng có khí phách con nhà võ và một ít chữ nghĩa. Lúc ấy, cơ sở chính trị Nhật Bản đã đâu vào đấy, Shôgun đời thứ ba Iemitsu (家 光 Gia Quang) vừa lập xong một hệ thống hành chính an định.

Thuở nhỏ Bashô theo hầu cậu chủ trẻ Tôdô Yoshitada, một người yêu mến văn chương nên có dịp theo ông ta trau dồi thơ phú. Từ khi cậu chết sớm, ông lang bạt kỳ hồ. Sau một thời gian, ông lên Edo và quyết chí bước vào cõi thơ haikai. Thông minh, sáng tạo, chẳng mấy lúc ông đã nổi tiếng và được liệt ngay vào hàng sư phó (haikaishi).

Thế nhưng không bằng lòng với những gì đạt được, ông tự nguyện làm người lữ khách vĩnh viễn, rời bỏ tất cả để bước vào cuộc sống phiêu bạt. Những chuyến đi dài cầu đạo ấy sẽ đem đến nguồn thi hứng mới vừa tạo cơ sở cho một lý luận thơ khác với những trường phái đi trước như Teitoku, Danrin mà ông có thời hâm mộ. Chuyến đi về miền Đông Bắc, bối cảnh của Oku no hosomichi, là chuyến đi dài nhất và gian khổ hơn cả. Nó cũng là chuyến đi nhiều thành quả, giúp ông hoàn chỉnh lý luận Fueki ryuukô 不 易 流 行 (Bất dịch lưu hành), Fuuga no makoto 風 雅 の 誠 (Phong nhã chi thành), khái niệm Karumi 軽 み (Nhẹ lâng) thêm vào khái niệm Sabi 寂 び (Cô quạnh tịch liêu) đã có trước.

Nhà thơ lữ hành và bậc đại sư Bashô đã qua đời năm 1694 ở tuổi 50 (tính theo tuổi mụ là 51) trên bước lữ hành như sở nguyện. Đó là một cuộc đời ngắn ngủi nhưng di sản ông để lại thật là phong phú, ảnh hưởng tỏa rộng và lâu dài.

Khi Bashô lên đường đi đâu, lúc nào ông cũng có bạn đồng hành nhưng người thường xuyên di với ông và được ông vô cùng tin cậy là Sora. Sora xuất thân ở Kami-Suwa (tỉnh Nagano bây giờ), tên thật là Iwanami Masataka 岩 波 正 字, thường được nhắc dưới cái tên Kawai Sôgôrô 河 合 惣 五 郎. Khoảng giữa lứa tuổi 30, Sora đã tìm đến Edo và theo học haikai với Bashô.Trong chuyến đi về miền Oku, ông lãnh việc điều tra và thu thập tài liệu về đường đất và tính toán chi phí cho cuộc hành trình. Những điều này còn ghi chép lại một cách chân phương trong tập nhật ký tùy tùng của ông. Nhờ tư liệu này mà chúng ta ngày nay mới biết được đâu là phần hiện thực, đâu là phần hư cấu trong Oku no hosomichi. Có thể xem Nhật ký đi đưòng của Sora và những bức thư ông để lại là tài liệu quan trọng nhất cho người muốn tìm hiểu về áng danh văn của Bashô vậy.

Thế nhưng Sora không phải đơn thuần là một môn sinh theo học haikai với thầy Bashô. Trong đời thường, ông là một nhà Thần đạo học uyên thâm, có cả khả năng giảng giáo lý cho các quan chức đền thần. Ông còn là người am tường về địa lý nữa. Ông từng lãnh trách nhiệm tuần du đó đây cho chính phủ tuy mục đích của những chuyến đi ấy là gì thì không ai nắm rõ.

Sau khi Bashô qua đời, Sora tiếp tục làm những chuyến lữ hành vì công vụ. Năm 1710, Mạc phủ Edo đã gửi ông như quan tuần tra vùng Kyuushuu và ông đã qua đời ở đảo Iki, hưởng thọ 62 tuổi. Như thế, cũng như thầy mình, Sora đã mất trong một chuyến lữ hành. Cuộc đời ông hãy còn nhiều điểm cần được soi sáng.


Khái lược về tác phẩm


Cách gọi “Oku no hosomichi” お く の ほ そ 道 (Áo chi tế đạo) đã xuất hiện trong tác phẩm du ký giữa thế kỷ 14. Hồi đó, người ta gọi đường lên Ôshuu (Áo châu) miền Đông Bắc Nhật Bản là Ôshuu kaidô (奥 洲 街 道, Áo châu nhai đạo) một con đường lớn. “Áo” ở đây viết có thể chỉ Áo châu tức vùng Đông Bắc đảo Honshuu, vừa có nghĩa bí mật, sâu thẳm. Đối xứng với nó có một con đường nhỏ và ngắn cùng tên “Oku no hosomichi” (đường nhỏ vào vùng sâu) gần bên phủ thành Taga nay ước định nằm gần chùa Tôkôji (Đông Quang Tự) ở Iwakiri thuộc tỉnh Sendai (xem thêm đoạn 22 của Oku no hosomichi, có nhắc đến). Đường nhỏ này chạy dọc theo dòng sông Nana Kitagawa cho đến thành Taga. Thế nhưng vào thời của Bashô, nó nằm ở đâu thì không ai nắm rõ vì sông núi với thời gian đã thay hình đổi hướng. Lối diễn tả “hosomichi” còn được thấy trong một tác phẩm liên quan đến thi hào Fujiwara no Teika. Đó là Tsuta no hosomichi (con đường nhỏ phủ đầy hoa trường xuân) nhưng lại nằm ở miền Tây.

Dĩ nhiên tuyến đường dài mà Bashô đã đi năm ông 46 tuổi không phải là hai con đường một dài, một ngắn này. Ông chỉ mượn hình ảnh “con đường nhỏ” để nói lên quyết tâm cầu đạo mãnh liệt nơi mình. Nếu không nói là Bashô đã thực hiện chuyến đi với tinh thần quyết tử của một samurai. Ông không ngại chết giữa cuộc hành trình vì theo ông, cổ nhân bao người đều đã thế.

Chuyến đi 500 “ri” (2.400km) kéo dài 5 tháng trường kết thúc vào tháng 9 năm Genroku 2 (1689) nhưng phải đợi 3 năm sau, bản thảo ngắn khoảng 35 trang giấy (Nhật) mới hoàn tất vì đây là một tác phẩm văn chương chứ không phải loại bút ký kể lại việc xảy ra hằng ngày. Viết lại cho gọn ghẽ phải mất thêm 2 năm nữa nghĩa là mãi đến đầu mùa hạ năm 1694. Bashô qua đời vào tháng 10 cùng năm, nghĩa là sau khi ông kết thúc chuyến đi dài được 5 năm. Trong các văn bản truyền lại cho đời sau, có bản của Soryuu (Tố Long), người bạn tin cậy và là nhà thư pháp lỗi lạc, cũng như các bản của đám học trò ông như Jôsô (Trượng Thảo), Sora (Tăng Lương, nhưng thực ra do tay Rigyuu tức Lợi Ngưu) chép lại .... Có khi nó mang tên sở hữu chủ của chúng như bản Nishimoto, bản Kakimori vv... Gần đây, năm Heisei thứ 8 (1996) có một tin chấn động học giới: trong một tiệm bán sách cũ đổ nát sau trận động đất Hanshin Awaji, đã phát hiện một bản được xem như là thủ bút của Bashô do Yaba (Dã Pha, một trong thập triết) giữ nhưng đã sang tay và thất lạc từ năm 1743. Nếu thế thì còn gì quí hơn nhưng đến nay, những nhà nghiên cứu và giám định chưa thực sự hoàn toàn đồng ý về tính đích thực của nó nên người ta đành tạm gọi nó là bản Yaba.

Vào thời Edo, việc ấn loát còn rất hạn chế, tác giả phải cho chép ra nhiều bản để sách đến được tay độc giả. Bashô có nhờ Soryuu, chép hộ một bản cho sạch sẽ gọn ghẽ và trên đó, có đính một mảnh giấy chính tay ông đề tựa và niêm lên. Bashô đã viết お く の ほ そ 道 chứ không phải 奥 の 細 道. Việc viết tựa đề bằng hiragana mà không bằng chữ Hán giúp cho nhan đề hàm chứa được nhiều ẩn ý (vì tác giả không muốn hạn chế điều ông viết trong một cách hiểu). Bản này sau khi Bashô mất đã được chuyển về quê hương Iga Ueno vào dịp lễ Vu Lan và tặng cho người anh là Hanzaemon. Nó sang tay Kyorai, học trò giỏi của Bashô rồi được tàng trữ ở nhà người tên Nishimoto ở Tsuruga. Vì vậy bản Nishimoto còn có tên là “Bản Soryuu chép và Bashô giữ”.

Tóm lại, tuy nội dung mỗi bản một khác nhưng hiện nay, bản Nishimoto và bản Sora / Rigyuu được người đời xem như hai bản có thể tin tưởng hơn hết.


HanhTrinh

Hành trình 5 tháng trường từ Edo đến Ôgaki trên 2.400 cây số


Kết từ:


Trong haiku của Bashô có hai yếu tố quan trọng là thuyết “bất dịch lưu hành” (不 易 流 行 nghĩa là ở đời, có cái chuyển đổi và có cái bất biến) và thuyết “phong nhã chi thành” 風 雅 の 誠 (sự thành thực trong thơ).

Hai khái niệm “bất biến” và “lưu hành” mới nhìn bề ngoài thì như đối lập nhưng trên thực tế không hề như vậy. Nếu thực sự có chuyện đó thì đã không có thơ haiku. Bởi vì hình tướng của thời đại mà người làm thơ bắt gặp là cái “lưu hành” trong khi còn có những yêu tố siêu thời đại, vĩnh viễn bền chặt với thời gian.

Sự tao nhã (phong nhã = fuuga) cũng vậy. Thơ hay không phải vì diêm dúa hoa hoè hoa sói. Nó phải được sinh ra từ những tình cảm mộc mạc chân thực. Tao nhã dĩ nhiên là lý tưởng của thơ haikai nhưng “lòng thành” (makoto) lại được xem như cốt lõi của nó.

Bashô như đã bắt đầu lập thuyết “bất dịch lưu hành luận” vào năm mùa đông năm Genroku thứ 2 (1689) sau khi chấm dứt chuyến đi về miền Bắc. Như vậy đoạn đường dài Oku no hosomichi đã hoài thai lý thuyết của ông vậy.

*

Blyth

Reginald Horace Blyth (1898-1964)

R.H.Blyth có lần viết: “Văn học Nhật Bản chỉ bắt đầu từ năm 1644”. Như một sự ngẫu nhiên, đó là năm Bashô ra đời! Câu nói nghịch lý trên nhằm đánh giá cao vai trò của Bashô đối với văn học Nhật Bản. Dù kính trọng và yêu mến giáo sư Blyth về sự hiểu biết trác tuyệt và nhiệt tình vô bờ bến của ông đối với Haiku cũng như đất nước Nhật Bản, nơi ông chọn gửi nắm xương tàn, chúng ta cũng không thể chấp nhận một quan điểm cực đoan như thế trừ phi đó là lời phát biểu nhằm mục đích đánh mạnh vào tâm thức người đọc. Cùng lắm chỉ có thế xem Bashô như kẻ đã có công khai thông kinh mạch, điểm nhãn cho con rồng văn học Nhật Bản vốn tù túng bay được ra ngoài phạm vi đảo quốc. Thực vậy, trong haibun của Bashô, ngoài bóng dáng thi ca cổ điển Đường Tống, ta còn thấy triết lý Nho Thích Lão, nhất là Thiền Tông, đứng bên cạnh tư tưởng Thần Đạo, dân ca miền Đông tự thời Vạn Diệp xen lẫn truyện thơ thời vương triều, Waka cung đình trong 18 tuyển tập soạn theo sắc chiếu, bút ký lữ hành, thơ renga, dao khúc tuồng Nô cũng như sân khấu Jôruri ... vốn là những yếu tố bản địa. Bashô còn biết sử dụng khéo léo các nghệ thuật tu từ truyền thống như kakekotoba (chữ đồng âm dị nghĩa), engo (chữ gợi ý) mitate (hình ảnh ví von) .... Do đó, Oku no hosomichi là nơi tụ họp biết bao tinh hoa của văn chương Nhật Bản. Nó không chỉ là một du ký đường trường trong đó những yếu tố hiện thực và hư cấu hòa quyện vào nhau, nơi con người hiện tại bắt gặp người ngàn xưa, mà còn là một bản trường ca đậm chất trữ tình, một tuyên ngôn về nhân sinh quan có tính triết học.

*

Đi xa hơn một chút ra ngoài phạm vi nội dung tác phẩm đang đọc, chúng tôi muốn nhắc đến công lao của những nhà dịch thuật đã phổ cập Oku no hosomichi nói riêng và thể thơ haiku nói chung đến độc giả nước ngoài. Áng văn này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có Anh, Pháp, Việt ...với các dịch giả như Donald Keene, Alain Walter, Vĩnh Sính ... và không chỉ với các vị đó mà thôi. Tính sơ qua cũng đã có trên 10 bản dịch ra Anh ngữ1. Mỗi người một vẻ, dịch bao nhiêu lần cũng chưa đủ.


walter

vinhsinh

keene

Alain Walter, Vĩnh Sính, Donald Keene đã dịch Oku no hosomichi qua tiếng mẹ đẻ

Nhờ sự đóng góp của những dịch giả giới thiệu haibun và haiku như thế mà ngày nay, cả bên Trung Quốc, đã có Hán thi làm theo thể haiku ( 5 /7 / 5) và có khi nó cô đọng lại thành những bài thơ cực ngắn với 10 chữ mà thôi. Ví dụ bài haiku danh tiếng “Con ếch nhảy xuống ao” của Bashô đã biến dạng như sau:

古 池 塘
青 蛙 跳 入
発 清 響

Cổ trì đường,
Thanh oa khiêu nhập
Phát thanh hưởng.

Nguyên tác, Vĩnh Sính dịch nghĩa và dịch sang lục bát:

Furu-ike ya
kawazu tobikomu
mizu no oto

Trong ao xưa
con nhái nhảy vào
tiếng nước khua

Ao xưa bóng rũ trưa hè,
Nhái khua nước động, bốn bề tịch liêu!

Nguyễn Nam Trân dịch:

Từ bờ vũng ao xưa,
Một chú
ếch nhảy bõm,
Còn chăng, tiếng nước xao!

Bài thơ nói về “Giải Ngân Hà bắc qua đảo Sado” và bài “Cỏ mùa hạ trên cổ chiến trường” đều do Bashô viết lại được học giả trứ danh người Mỹ Donald Keene chuyển qua tiếng Anh, hầu như đúng theo thể 5 / 7/ 5 của nguyên tác:

Turbulent the sea
Across to Sado stretches
The Milky Way

The summer grasses
Of brave soldiers’ dreams
The aftermath.

Năm 1999, một Hiệp hội quốc tế về Haiku đã được thành lập. Điều đó cho ta thấy thế giới nay đã công nhận haiku như một hình thức văn học chung cho nhân loại. Thế nhưng, điều quan trọng hơn cả là trên thực tế, các nhà thơ haiku từ đây sẽ làm thơ với tất cả dam mê và với tinh thần haiku bằng tiếng nước mình.

Nguyễn Nam Trân

Viết xong ở Inoue Memorial Hospital,
Chiba (Nhật Bản), 8/11/2014

Cập nhật 6/12/2014


Tư Liệu Tham Khảo


  • Akatsuka Tadashi và 49 biên tập viên, Nihon koten bungaku meichô no sôkaisetsu (Bình giảng chung về những trứ tác văn học cổ điển nổi tiếng) Nhà xuất bản Jiyuu kokuminsha, Tokyo.

  • Ebara Taizô (1894-1948), 1952, Ogata Tsutomu, 2003 Oku no hosomichi – Sora Zuikô Nikki, Kagokawa Bunko, ấn bản lần thứ 15 (2013).

  • Hisatomi Tetsuo (1926-2007), 1980, Oku no hosomichi, Kôdansha, Tokyô, ấn bản lần thứ 46 ( 2012).

  • Hori, Nobuo, Zuchinban Bashô Zenku, 2004, Shôgakukukan, Tokyo.

  • Takeda Tomohiro (1943), 2001, Oku no hosomichi, Kadogawa Classic Beginners, Kadogawa, Tôkyô, ấn bản lần thư 30 năm 2013.



1 Yuasa Nobuyuki (1966), Earl Miner (1969), Helen Craig Mc Cullough (1990), Sam Hamill (1991), Kameike Susumu (1968), Satô Hiroaki (1996), Donald Keene (1996), Dorothy Britton (1974), Tim Chilcott (2004) vv...



Attachments

Các thao tác trên Tài liệu

được sắp xếp dưới: Xuân Ất Mùi
Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us