Du lịch Việt Nam : bối cảnh và vị thế
Công
nghiệp không khói Việt Nam
Phần I: Bối cảnh phát triển
và Vị thế Kinh tế.
Trần Bình
Công
nghiệp
không khói, tên gọi không chính thức
của ngành du lịch, giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế toàn cầu.
Theo tài liệu Chỉ số Cạnh tranh Du
lịch
2009 (Travel & Tourism Competitiveness Index – TTCI 2009), do
Diễn đàn Kinh
tế Thế giới (WEF) ấn hành, ngành “du
lịch và
lữ hành hiện chiếm khoảng
9.9 GDP,
10.9 % xuất khẩu, và 9.4 đầu tư của thế giới "
(1). Tầm
quan trọng của ngành du
lịch cũng được nhấn mạnh qua báo cáo tóm lược hoạt
động du lịch của Liên Hiệp
Quốc (World Tourisrm Organization -Tourism Highlights 2008:
WTO-HL2008): “Ngày
nay, nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu (export income) từ dịch vụ du lịch
trên thế
giới chỉ đứng thứ tư sau nhiên liệu, hóa chất và
ngành ô tô”. Năm 2008, doanh
thu du lịch trên thế giới đạt 1100 tỷ USD, hay khoảng 3 tỷ
USD mỗi
ngày (2).
Ngành du lịch còn có vai
trò
đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của các nước đang
phát triển. Tổ chức Du lịch
Thế giới Liên Hiệp Quốc nhận định rằng: “tại nhiều quốc gia
đang phát triển, du
lịch là nguồn thu nhập chính, ngành xuất khẩu
hàng đầu, tạo ra nhiều công ăn việc
làm và cơ hội cho sự phát triển”
(WTO-HL2008). Trên Diễn đàn
Du lịch Thế giới vì Hòa bình và Phát
triển Bền vững họp tại Brazil năm
2006, ông Lelei Lelaulu, Chủ tịch Đối tác quốc tế, một tổ
chức hoạt động vì mục
đích phát triển nhân đạo đã phát
biểu: “du lịch là phương
tiện chuyển giao của cải tự nguyện lớn nhất từ các nước
giàu sang các
nước nghèo… Khoản tiền do du khách mang lại cho
các khu vực nghèo khổ trên thế
giới còn lớn hơn viện trợ chính
thức của các chính phủ”
(3).
Đối với nền kinh tế Việt Nam, nguồn ngoại tệ du lịch trong những năm gần đây lớn dần và trở nên đáng kể. Trong các tài liệu nghiên cứu kinh tế Việt Nam ấn hành đầu năm nay, Thay đổi cơ cấu: giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất của nhóm Harvard, hay Một năm của những tin đồn của Ayumi Konishi - Ngân hàng Phát triển Châu Á, nguồn ngoại tệ du lịch đã bắt đầu được đề cập đến như là một trong những thành phần quan trọng của cán cân thanh toán khi các tác giả phân tích về cuộc khủng hoảng tài chính Việt Nam và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Là điểm đến mới, với nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa khá phong phú, và giá cả thấp, ngành du lịch Việt Nam phát triển khá nhanh trong thập niên qua, và có tiềm năng, triển vọng tiến xa hơn. Song tương lai của ngành du lịch Việt Nam sẽ còn tùy thuộc vào hiệu quả của chính sách phát triển du lịch, việc bảo tồn, phát huy nguồn tài nguyên, nhân lực, và sự đánh giá đúng mức hiện trạng và tiềm năng. Các đánh giá dựa theo cảm quan, thiếu cơ sở nghiên cứu, dễ dẫn tới sự lạc quan thái quá. Chẳng hạn, lòng hiếu khách của dân chúng, an ninh an toàn, và chính sách du lịch thông thoáng thường được giới truyền thông trong nước mô tả như những lợi thế thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Thế nhưng theo kết quả cuộc điều tra các chỉ số cạnh tranh du lịch năm 2009 của WEF thì đây chính là những mặt yếu của các ngành du lịch Việt Nam cần phải được chấn chỉnh.
Từ
góc độ khác,
hoạt động du lịch còn thể hiện
nét văn hóa và nếp sống văn minh
của một xứ sở. Do đó, ngành du lịch còn là
phương cách quảng bá hữu hiệu hình
ảnh của một xứ sở. Song, nó cũng có thể phản tác
dụng, gây phương hại đến uy tín
đất nước nếu như tình trạng kinh doanh theo lối ăn sổi ở
thì, nạn chèo kéo du
khách, và việc quốc doanh hóa, thương mại
hoá các cơ sơ tôn giáo tôn
nghiêm xảy
ra một cách phổ biến.
Tiềm hiểu bối cảnh phát triển và vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế việt Nam và trong khu vực (Phần I), năng lực cạnh tranh và văn hoá du lịch (Phần II) là những chuyên đề sẽ được thảo luận trong bài viết.
I. Bối cảnh Phát triển và Vị thế Kinh tế
1. Bối cảnh - Thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Các
dữ kiện và phân
tích từ bối cảnh phát triển cho ta góc nhìn
tổng
quan và xu hướng phát triển của
ngành
du lịch trên thế giới và khu vực. Các quốc gia
phát triển trên thế giới và các
nước trong khu vực vừa là nguồn tiêu thụ chính yếu,
vừa là đối thủ cạnh tranh và
mô hình phát triển có thể đối chiếu, tham
khảo.
Mục
đích viếng thăm và phương tiện di chuyển (WTO-HL
2008). Quảng cáo tiếp
thị là một trong những khâu quan trọng của hoạt động du
lịch. Hiểu rõ được động lực viếng thăm của du
khách, các nhà
quản lý có thể hoạch định chiến lược quảng bá
và kinh doanh hữu hiệu hơn. Ví dụ,
dự báo của UNWTO qua ấn bản cập nhật 1/2009 (UNWTO World Tourism
Barometer: WTB-01/2009)
phân tích rằng du lịch vì công việc, hội nghị
sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng trước
tình hình kinh tế suy thoái, trong khi đó
các cuộc thăm viếng nhân nhân, khách
trở lại, sẽ không suy giảm đáng kể (4). Số liệu về
các phương tiện di chuyển do khách du
lịch sử dụng cũng không kém phần
quan trọng vì chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông, sự tiện
lợi và an toàn, là mối
quan tâm của du khách, và đồng thời cũng là
một trong những tiêu chuẩn đánh giá
năng lực cạnh tranh ngành du lịch của mỗi quốc
gia.
Ngành du lịch không ngừng tăng trưởng. “Kể từ sáu thập niên qua, ngành du lịch đã không ngừng phát triển, trở thành một trong những khu vực kinh tế tăng trưởng lớn nhất và nhanh nhất trên thế giới”. Từ năm 1950 đến 2007, lượng du khách tăng từ 25 lên đến 903 triệu, và doanh thu (receipts) năm 2007 đã vượt quá 1000 tỷ USD. Trong thập niên qua, mặc dù bị ảnh hưởng từ các vụ khủng bố và dịch SARS, song mức tăng triển của ngành du lịch vẫn khả quan, tăng 4% giai đoạn 1995-2007 và 6.6% năm 2007 (WTO-HL2008). Tuy nhiên, theo ấn bản cập nhật của UNWTO tháng 6/2009 (UNWTO World Tourism Barometer: WTB-06/2009), đà phát triển bắt đầu chậm từ năm 2008 lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảnh kinh tế. Mức tăng trưởng năm 2008 chỉ đạt 1.9%, tăng 16 triệu du khách, nâng tổng số du khách hàng năm lên 922 triệu (5).
Phạm vi hoạt động du
lịch ngày càng mở rộng. “Theo
thời gian, các điểm đến của hoạt động du lịch
ngày càng
mở rộng, đã chuyển ngành du lịch đương đại trở
thành động lực then chốt cho
sự phát triển kinh tế xã hội”. Năm 1950, 15 điểm
đến lớn nhất chiếm 98% lượng
du khách. Tỷ lệ này giảm xuống còn 57% vào
năm 2007 do sự gia nhập của nhiều điểm
đến mới (WTO-HL2008). Châu Á - Thái Bình
Dương
nằm trong số các điểm đến mới này,
đã trở thành khu vực đón nhận khách quốc tế
quan trọng thứ hai, chiếm tỷ phần 20%,
sau khu vực Châu Âu 53% (WTB-6/2009).
Nguồn
khách du
lịch. Hai
đặc điểm đáng lưu ý về nguồn
khách du lịch. Thứ nhất, có đến 80%
du khách đến từ các nước trong vùng; tuy
nhiên, tỷ lệ gia tăng hoạt động du
lịch giữa các vùng có xu hướng tăng mạnh hơn (8% -
2007) so với mức tăng trưởng
du lịch trong khu vực (6% - 2007). Thứ
hai, mặc dù các quốc gia phát triển vẫn chiếm
phần lớn nguồn lượng du khách,
trong những năm gần đây, lượng du khách đến từ các
nước đang phát triển tăng mạnh
hơn, đặc biệt các vùng Đông Bắc và
Đông Nam Á, Đông và Trung Âu, Trung
Đông,
Nam Phi và Nam Mỹ. Theo bảng thống kê dưới đây, ngành
du lịch
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang
trên đà phát
triển
nhanh, tăng 319% trong giai đoạn 1990-2007, vượt xa mức tăng
trưởng
của hai
khu vực lớn khác: Châu Âu 193%, và Châu
Mỹ
148% (WTO-HL2008).
Nguồn thu nhập. Nguồn thu của ngành du lịch lệ thuộc vào số lượng khách đến và mức chi tiêu (du lịch) bình quân theo đầu người (expenditure per capita). Nước Đức và Vương quốc Anh giữ vị trí thứ nhất và thứ ba về chi tiêu du lịch ở nước ngoài năm 2007 do mức chi tiêu du lịch bình quân theo đầu người của hai nước này trên 1000 USD, cao hơn khoảng bốn lần mức chi tiêu du lịch bình quân đầu người của Hoa Kỳ. Ngược lại, với sức chi tiêu du lịch đầu người chỉ tương đương với khoảng 2% của Đức Quốc, nhưng do số lượng người đi du lịch lớn, Trung Quốc đã vượt lên chiếm vị trí thứ 5 trong danh sách 10 quốc gia chi tiêu nhiều nhất cho dịch vụ du lịch ở nước ngoài. Vị trí của Trung Quốc và Liên Xô trong bảng của 10 nước dẫn đầu chi tiêu ngành du lịch (WTO-HL2008) biểu hiện cho xu hướng gia tăng nguồn khách du lịch đến từ các quốc gia đang phát triển. Theo tài liệu cập nhật tháng 6/2009 của WTO, các nước dẫn đầu chi tiêu du lịch năm 2008 hầu như không thay đổi (WTB-06/2009).
Xu hướng phát triển.
Trong bức tranh bao
quát, xu hướng phát triển của ngành du
lịch có
thể tóm lược theo biểu đồ dưới đây. Các dữ kiện từ
biểu đồ cho thấy, từ 1995 đến
2020, mức tăng trưởng tại các quốc gia phát triển đạt mức
bão hòa, chậm dần. Tỷ
phần khách quốc tế của khu vực dẫn đầu Châu Âu giảm
từ 59.8% (1995) xuống 45.9%
(2020), Châu Mỹ từ 19.3% xuống 18.1%. Trong khi đó tỷ phần
từ các khu vực các nước
đang phát triển tiếp tục tăng dần, với tỷ phần của Châu
Á - Thái Bình Dương trong cùng giai
đoạn
tăng từ 15.1% lên 26%. (WTO-HL2008).
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và dịch H1N1, mức tăng
trưởng của ngành
du lịch trong đoản kỳ sẽ bị chậm lại so với dự báo trên.
Mức tăng trưởng sáu tháng
cuối năm 2008 mang số âm -1%, và -8% trong bốn
tháng đầu năm 2009 (WTB-06/2009).
2. Vị thế ngành du lịch Việt Nam:
Ngành du lịch non trẻ Việt Nam được ghi nhận tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây. Vậy quá trình và vị thế của ngành trong nền kinh tế Việt Nam và trong khu vực hiện như thế nào?
Quá
trình
phát triển. Hoạt động của
ngành du lịch non trẻ
Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) ghi nhận từ năm
1995, bắt đầu với
con số khiêm tốn 1.35 triệu khách quốc tế, tăng lên
4.2 triệu du khách với doanh thu 3.5 tỷ USD vào năm 2008
(6). Trong tiến trình
phát triển này, số lượng chỉ
bị suy giảm vào năm 1998, thời điểm xảy do cuộc khủng kinh tế
Châu Á.
Theo xu hướng chung trên thế giới, phần lớn nguồn khách quốc tế đến Việt Nam từ các quốc gia trong vùng. Bảng tổng kết dưới đây bao gồm các nước có lượng khách du lịch đến Việt Nam trên 100 ngàn năm 2007. Hoa Kỳ là một ngoại lệ của các quốc gia ngoài khu vực có số lượng khách quốc tế lớn đứng hàng thứ tư, do số lượng Việt kiều chiếm tỷ lệ quan trọng trên tổng số du khách đến từ quốc gia này (7).
Mức tăng trưởng trong thập niên qua của ngành du lịch khá cao. Việt Nam được xếp vào danh sách “Các điểm đến mới hàng đầu thế giới giai đoạn 1995-2004“ (8), và là một trong số các nước có mức tăng trưởng cao của Châu Á - Thái Bình Dương, vốn là khu vực có mức tăng trưởng ngành du lịch cao hơn hầu hết các khu vực khác trên thế giới.
Nguồn: do
tác giả tự lập từ tài liệu UNWTO (9)
Triển vọng phát
triển của ngành du
lịch Việt Nam được đánh giá là khả quan, theo
như dự báo
của WEF cho giai đoạn 2009-2018 (10). Tuy
nhiên, vì dự báo này được soạn thảo
vào đầu năm 2008, khi cuộc khủng hoảng kinh
tế giới chưa thực sự khởi đầu, do đó, mức tăng truởng sẽ thấp
hơn các số liệu
trong bảng dưới đây.
Vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc gia. Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam yếu kém và thiếu ổn định, với mức thâm hụt 12 % GDP năm 2008 (11), do lệ thuộc nặng nề vào nguồn xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, và vì sự thâm hụt của cán cân thương mại. Sự thâm hụt này được bù đắp bằng các nguồn ngoại thu khác, trong đó có du lịch, hiện đang bị đe dọa bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Biểu đồ dưới đây cho thấy được sự đóng góp đáng kể của nguồn thu nhập du lịch vào sự quân bình của cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán quốc tế năm 2008 (tỷ USD)
Nguồn: do tác giả tự lập (12)
Từ góc độ khác, vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam còn biểu hiện qua tỷ phần doanh thu của ngành trên tổng sản lượng quốc gia (GDP) và tỷ lệ số lượng lao động hoạt động trong ngành trên tổng lực lượng lao động của cả nước.
Vị thế ngành du lịch Viêt Nam trong khu vực. Mặc dù đạt được mức tăng trưởng khá cao, số liệu về tỷ lệ lượng du khách đến của mỗi nước trên tổng số khách đến trong khu vực cho thấy thành quả của ngành du lịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt so sánh với hai nước láng giềng Thái Lan và Malaysia - là những quốc gia có lợi tức trung bình, đối thủ cạnh tranh lớn, và cũng là những đối tượng Việt Nam muốn bắt kịp trong trung và dài hạn của những thập niên tới.
Tính theo tỷ phần doanh thu của mỗi quốc gia trên tổng thu của ngành du lịch trong khu vực, vị trí của ngành du lịch Việt Nam còn thấp hơn. Có thể lý giải sự tụt hạng này, một phần nào đó do giá cả của Việt Nam thấp, song quan trọng hơn nữa là những mặt hạn chế của các dịch vụ du lịch về giải trí và mua sắm. Khi so sánh hai biểu đồ về tỷ phần lượng khách quốc tế và doanh thu trong vùng trên đây, có thể lấy Philippines như một trường hợp điển hình đáng lưu ý. Nhờ thu nhập bình quân từ mỗi du khách cao hơn, doanh thu của Phillippines đã vượt Việt Nam đáng kể (2.2% - 1.8%), mặc dù lượng khách quốc tế của nước này thấp hơn Việt Nam khá nhiều (1.7% - 2.3%).
Nguồn: do
tác giả tự lập từ tài liệu WNWTO (15)
(Xem tiếp Phần II: Năng lực cạnh tranh và văn hóa du lịch)
Trần Bình – 08/2009.
(1) The
Travel &
Tourism Competitiveness Report 2009 - Managing
in a Time of Turbulence TTCI
2009 - p. 3
The World Travel & Tourism Council (WTTC) estimates that, from
direct and indirect activities combined, the T&T sector now
accounts for 9.9 percent of global GDP, 10.9 percent of world exports,
and 9.4 percent of world investment.
(2)
UNWTO
Tourism Highlights, Edition 2008
WTO-HL2008
(3)
Global Tourism drives history's greatest
shift of wealth from rich to poor - Counterpart
(4) UN
World Tourism Barometer - January 2009 - Volume 7, Issue 1
WTB-01/2009
(5) UN
World Tourism Barometer - January 2009 - Volume 7, Issue 2 WTB-06/2009
(6) TTCI p. 376
(7) Khách
quốc tế đến Việt Nam tăng "kép" – VnEconomy -
Dương Ngọc
(8) World's Top Emerging Tourism Destinations for
period
1995-2004
- UNWTO
(9) WTO-HL2008
(10) TTCI - Tổng hợp từ trang County/Economy Profiles
(11)
IMF
Statements at
Donor Meetings
(12) FDI thực hiện ròng sau khi trừ phần đầu tư trong nước được
uớc tính dựa
con số chính thức của Việt Nam 11.5 tỷ USD và
tỷ lệ chênh lệch giữa hai con số của UNCTAD & Việt Nam
năm
2007. ODA
giải ngân và kiều hối –
VNEconomy. Du lịch – WEF p.376. Nhập
siêu – VNEconomy. FII (đầu
tư nước ngoài gián tiếp) ước tính dựa vào vốn
gián tiếp tháng 2/2008 –
Kinh tế Sài Gòn và vốn
gián tiếp đầu năm 2009 – Lao
Động
(13)
TCCI - Tổng hợp từ trang County/Economy Profiles
(14)
Tổng hợp từ WTO-HL2008(15)
Tổng hợp từ WTO-HL2008
Các thao tác trên Tài liệu