Du lịch Việt Nam: Cạnh tranh và Văn hoá
Công
nghiệp không khói Việt Nam
Phần II: Năng lực cạnh tranh
và văn hóa du lịch
Trần Bình
Các công trình nghiên cứu được thực hiện một cách khoa học và qui mô trên thế giới có thể giúp việc thẩm định các vấn đề kinh tế của Việt Nam được khách quan và thấu đáo hơn. Cuộc điều tra “Chỉ số cạnh tranh du lịch năm 2009” (Travel & Tourism Competitiveness Index - TTCI 2009) do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thực hiện hàng năm, đánh giá năng lực cạnh tranh ngành du lịch của 133 quốc gia là tài liệu rất hữu ích cho việc tìm hiểu năng lực và tiềm năng của ngành du lịch Việt Nam (1).
Bên
cạnh phương
diện kinh tế, hoạt động du lịch còn thể hiện nét văn
hóa và văn minh của một xứ
sở, vì thế cũng là khía cạnh không thể
không đề cập đến khi phân tích và đánh
giá ngành du lịch Việt Nam.
II. Năng lực Cạnh tranh và Văn hóa Du lịch:
1.
Năng lực Cạnh tranh:
Kết quả
của cuộc điều
tra TTCI2009 cho thấy vị thứ chỉ số cạnh
tranh ngành du lịch Việt nam trên thế giới thây
đổi không đáng kể trong ba
năm qua (84/124, 96/130, 89/133). Ở phạm vi khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, vị thứ về
chỉ số cạnh tranh của Việt Nam phản ảnh
khá trung thực vị trí kinh tế trong khu vực được
trình bày ở phần I. Vị thế kinh
tế và năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam
(cũng như trên nhiều địa hạt
kinh tế khác) hiện có thể so sánh với các
nước có nền kinh tế chậm phát triển trong
vùng như Philippines và Indonesia, nhưng vẫn ở vị
trí thấp trong bức tranh bao
quát của nền kinh tế khu vực và toàn
cầu.
Cuộc điều
tra của WEF được thực hiện trên ba lãnh vực chính
của ngành du lịch: Nguồn tài
nguyên thiên nhiên, văn hóa và
nhân lực – cơ sở hạ tầng và môi trường kinh
doanh – Khuôn khổ luật định. Ba
lãnh vực
này bao gồm 14 hạng mục chính, và các hạng
mục chính được xây dựng trên 70 hạng
mục phụ thuộc.
Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi
chú trọng vào các hạng mục quan trọng nhất,
được đề cập nhiều trong các phân tích của
tài liệu TTCI2009. Các quốc gia được chọn
lựa, so sánh và phân tích phản ảnh mối tương
quan cạnh tranh và đại diện cho các
nền kinh tế có trình độ phát triễn khác
nhau trong khu vực.
1.1
Nguồn
Tài nguyên Thiên nhiên, Văn
hóa và Nhân lực (thứ
hạng 76/133):
Nguồn
tài nguyên thiên nhiên
và nét văn hóa đặc sắc, đặc
thù của mỗi dân tộc
là một trong các yếu tố hàng đầu thu hút du
khách quốc tế. Nguồn nhân lực xác
định chất lượng dịch vụ
cung ứng. Và Sự yêu thích và
thái độ cởi mở
của xã hội đối với hoạt động du lịch và khách
quốc tế ảnh hưởng không nhỏ đến
lượng du khách viếng thăm.
Nguồn tài nguyên và nhân lực là địa
hạt ít chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triễn
của mỗi quốc gia, do đó, có thể là lợi thế của
các quốc gia đang phát triển như
biểu đồ cho thấy. Trung Quốc
và Malaysia chẳng hạn là quốc gia đang phát triển,
còn thu kém xa các nước phát triển
trên nhiều phương diện, song đã đạt được vị thứ
khá cao: 12 và 14 trên 133 quốc gia.
Vị thứ của hạng mục nguồn tài nguyên nhiên của Việt Nam (52/133) tổng hợp kết quả bảng xếp hạng của ba hạng mục phụ thuộc: số lượng các di sản thiên nhiên - thứ hạng 23, số lượng các loài động vật tìm thấy - 21, tỷ lệ diện tích các khu vực được bảo tồn về sinh thái, thiên nhiên và văn hóa trên tổng diện tích quốc gia - 101, và chất lượng môi trường thiên nhiên - 122.
Sự đánh giá hạng mục nguồn tài nguyên văn hóa (68/133) dựa vào số lượng địa điểm di sản văn hóa và các công trình văn hóa phi vật thể - thứ hạng 45, tỷ lệ chỗ ngồi của các sân vận động trên dân số - 119, số hội chợ và triển lãm quốc tế tổ chức hàng năm - 47, và tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm mang tính sáng tạo như hàng thủ công nghệ và điêu khắc, phim ảnh, ấn bản (không có thứ hạng, có lẽ vì không đủ dữ kiện).
Nguồn nhân lực của Việt Nam
có vị thứ thấp hơn (82/133). Một
trong hai hạng mục phụ là nguồn lao động
phục vụ cho ngành du lịch, qua việc xem xét các
thủ tục thu dụng và sức khoẻ của
lực lượng lao động, được đánh giá tương đối khả quan với
thứ hạng 45. Song, vị thứ 93 của hạng mục
phụ thứ hai thẩm định chất lượng ngành giáo
dục và đào tạo thể
hiện mặt yếu kém của nền giáo dục Việt Nam
trong cộng đồng thế giới.
Hạng mục thứ tư không kém phần quan trọng là Sự yêu thích ngành du lịch đo lường độ mở của xã hội đối du lịch và du khách quốc tế (81/133). Sự đánh giá của hạng mục này dựa vào tỷ lệ chi tiêu của dân chúng đối với dịch vụ du lịch và thu nhập từ khách quốc tế trên GDP – thứ hạng 66, thái độ của dân chúng đối với khách quốc tế - 92, và việc các doanh nhân trong nước có sẵn sàng giới thiệu các đối tác nước ngoài đi du lịch sau chuyến công tác - 93.
Tóm lại, Kết quả cuộc điều tra trên các hạng mục chi tiết của lãnh vực tài nguyên và nhân lực của ngành du lịch Việt nam cho thấy nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hoá, và nhân lực tương đối phong phú qua số lượng của các di sản thiên nhiên, di sản văn hoá, các loài động vật, và nguồn nhân lực. Song, thế mạnh này đã chưa được phát huy do những hạn chế trong việc bảo tồn và phát triễn nguồn tài nguyên, môi trường, sự yếu kém về mặc đào tạo nhân lực, và độ mở của xã hội đối với hoạt động du lịch và khách quốc tế. Tuy là lãnh vực đạt vị thứ khả quan nhất trong ba địa hạt nghiên cứu, Việt Nam đang đứng sau khá xa các đối thủ cạnh tranh trong vùng: sau Philippines sáu bậc, Indonesia 36 bậc, Singapore 53, Thailand 57, Malaysia 62, China 64, và Australia 73.
1.2
Cơ sở
Hạ tầng và Môi trường Kinh
doanh (Thứ
hạng 85/133):
Khác với lãnh vực tài nguyên và
nhân lực, cơ sở hạ tầng và môi trường kinh
doanh của ngành du lịch tùy thuộc khá nhiều
vào trình độ phát triển của mỗi nước.
Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam,
nó vừa là lợi thế, vì giá
cả là một trong những yếu tố quan trọng, song cũng vừa là
yếu điểm do tình trạng
yếu kém của cơ sở vật chất, phương tiện di chuyển và
thông tin của ngành du lịch.
Cơ sở hạ tầng ngành du lịch cung cấp các tiện nghi thiết yếu cho du khách, nên là một trong những yếu tố quan trọng cho sự thành công của hoạt động du lịch. Song, đây lại là một trong những hạng mục chính Việt Nam có vị thứ thấp nhất (109/133). Hạng mục này đo lường số lượng khách sạn theo dân số - thứ hạng 82, sự hiện diện của các công ty lớn cho thuê xe - hạng 95, và số lượng mấy ATM theo dân số - hạng thứ 103.
Giá cả dịch vụ du lịch là chỉ số Việt Nam đạt được thứ hạng cao nhất (11/133) trong số 14 hạng mục chính. Chỉ số này bao gồm các hạng mục phụ: mãi lực đồng tiền - thứ hạng 5, giá khách sạn - 31, nhiên liệu - 23, thuế trên vé và phi trường - 20, và mức thuế nói chung - 53.
Hai hạng mục không
kém quan trọng khác đánh giá cơ sở
hạ tầng hàng không
(84/133)
và
vận chuyển đường bộ (80/133) nhằm thẩm định mức độ
dễ
dàng và tiện lợi trong
việc sử dụng các dịch vụ giao thông, đưa khách đến,
đi, và di chuyển nội địa. Nhóm
nghiên cứu phân tích 12 hạng mục phụ như chất lượng
và số lượng các phi trường,
đường bộ, đường hoả xa, và khả năng phục vụ khách
hàng của các ngành này.
Tầm quan trọng của hạng mục Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngày càng gia tăng do việc sử dụng internet, điện thoại di động trong việc liên lạc, tìm kiếm thông tin du lịch, mua vé trên mạng ngày càng phổ biến và tiện lợi. Địa hạt này đã được cải thiện đáng kể trong thập niên qua, song vị thứ của Việt Nam trong cộng đồng thế giới vẫn còn khiêm tốn với hạng thứ 79/133, so với Singapore 17, Australia 20, Malaysia 46, China 68, Thailand 72, Philippines 92, và Indonesia 102.
Là một nước nghèo, Việt Nam có lợi thế về giá cả, song do sự yếu kém về cơ sở hạ tầng của môi trường kinh doanh du lịch, vị thứ của lãnh vực cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh du lịch hạ thấp 9 bậc (85/133) so với lãnh vực các nguồn tài nguyên. Trong mối tương quan cạnh trạnh với các nước trong khu vực, vị thứ Việt Nam đứng trên Philippine 4 bậc, dưới Indonesia 6 bậc, China 27, Thailand 45, Malaysia 47, Australia 74, và Singapore 84. Hai hạng mục Việt Nam bị tụt hậu sâu, cần cải thiện hơn cả là cơ sở hạ tầng du lịch với vị thứ 109 và hàng không 84 cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho các hoạt động du lịch: khách sạn, thuê xe, ATM và di chuyển.
1.3 Khuôn khổ Luật định (thứ hạng 92/133):
Chính sách phát triển ngành du lịch là một trong những mắc xích quan yếu quyết định thành công của ngành du lịch Việt Nam. Nó ảnh hưởng đến việc khai phá, bảo tồn các nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên nâng cao khả năng thu hút du khách; thúc đẩy sự phát triển dịch vụ du lịch thông qua chính sách đầu tư cải thiện chất lượng cơ sở vật chất mang lại tiện nghi, tiện ích cho các hoạt động du lịch; tạo điều kiện dễ dàng về thủ tục và bảo đảm an ninh an toàn cho du khách viếng thăm. Song, hiệu năng của chính sách và trình độ phát triển có mối quan hệ tương tác, và do đó, các quốc gia có năng lực cạnh tranh thấp trên các lãnh vực tài nguyên, cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh du lịch thường cũng có vị thế yếu kém về khuôn khổ luật định liên quan đến ngành du lịch.
Hạng mục điều lệ và qui định đo lường hiệu quả chính sách phát triển các doanh nghiệp và dịch vụ du lịch (96/133). Điểm số và thứ hạng của hạng mục này được xây dựng trên các hạng mục phụ liên hệ đến hoạt động du lịch: thủ tục visa - thứ hạng 116, sự phổ biến và chính sách khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài - 104, quyền tư hữu - 75, ảnh hưởng của luật đầu tư nước ngoài - 38, thời gian thành lập doanh nghiệp - 112, chi phí thành lập doanh nghiệp - 77, độ mở của các hiệp định hàng không quốc tế - 89, và tính minh bạch trong việc hoạch định chính sách - 58.
Chính sách bảo vệ môi trường hữu hiệu có thể bảo tồn và phát huy nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên, là một trong những yếu tố chính hấp dẫn du khách (100/133). Các hạng mục phụ thuộc bao gồm: sự chặt chẽ của các qui định môi trường - thứ hạng 106, hiệu lực thi hành - 93, lượng khí cacbonic - 40, độ ô nhiễm - 92, sự đe dọa các loại động vật quí hiếm - 110, và số lượng các hiệp ước bảo vệ môi trường tham gia - 94.
Chính sách ưu tiên cho ngành du lịch thường là thế mạnh của các nước đang phát triển trong nỗ lực đẩy mạnh ngành du lịch hầu có thể bắt kịp với đà tiến chung. Đây cũng là một trong ba hạng mục chính (trên tổng số 14) Việt Nam đạt được vị thứ ở nửa phần đầu của bảng xếp hạng (61/133). Hai hạng mục khác là giá cả - hạng thứ 11 và nguồn tài nguyên thiên nhiên - 52. Các hạng mục phụ của lãnh vực chính sách ưu tiên bao gồm: tỷ phần ngân sách phát triển ngành du lịch - thứ hạng 109, số lần tham dự các hội chợ du lịch quốc tế - 25, vị trí ưu tiên của ngành du lịch trong chính sách phát triển quốc gia - 41, và hiệu quả của hoạt động tiếp thị quảng bá - 63.
Hạng mục an ninh an toàn (100/133) và y tế vệ sinh (95/133 ) liên hệ đến sự an toàn cá nhân, là mối quan tâm của khách quốc tế nên không kém phần quan trọng. Trên địa hạt này, nhóm nghiên cứu đánh giá về mức độ đe dọa của khủng bố - thứ hạng 99, tội phạm - 58, hiệu quả lực lượng an ninh - 49, tai nạn giao thông - 116, số lượng bác sĩ - 97, giường bệnh tính theo đầu người - 70, điều kiện vệ sinh - 91, và nguồn nước sạch - 74.
Trong lãnh vực khuôn khổ luật định, chính sách ưu tiên cho ngành du lịch là hạng mục Việt Nam đạt vị thứ cao nhất 61/133, song vẫn ở cuối bảng so với các quốc gia cạnh tranh trong khu vực. Để cải thiện năng lực cạnh tranh, Việt Nan cần đặt trọng tâm cải thiện các địa hạt yếu kém nhất về chính sách bảo vệ môi trường và đầu tư nước ngoài ở ngành du lịch; thủ tục visa, an toàn giao thông, dịch vụ y tế và vệ sinh. Trong tương quan cạnh tranh khu vực, vị thứ Việt Nam cao hơn Indonesia 9 bậc, và thấp hơn China 4 bậc, Philippines 7, Thailand 22, Malaysia 50, Australia 65, và Singapore 86 bậc.
2. Văn hóa Du lịch:
Bài
viết “Reasons
to hate VietNam” trên Travelvice.com
gây
xôn xao trên các diễn đàn và blog.
Tác giả quả là “một kẻ du lịch gà mờ
và đầu óc thiển cận” như Phan Hạo Nhiên nhận
xét trên Talawas.
Thế nhưng các phản hồi từ du
khách nước ngoài với bài viết nêu
lên
mới là điều đáng quan ngại, phản ảnh một
số mặt thực, tiêu cực của dịch vụ du lịch tại Việt Nam
hiện nay. Thứ
nữa, cuộc điều tra của do WEF thực hiện đánh giá thấp về
thái độ của dân chúng đối
với du khách quốc tế (92/133) là nguồn thẩm định
đáng tin cậy khác.
Trong khuôn khổ của bài viết, hai vấn đề liên quan
đến văn hóa và văn minh du lịch
nổi cộm nhất sẽ được bàn đến.
Đối với du khách quốc tế, đặc biệt khách phương Tây, khoảng cách không gian giữa hai người và không gian riêng tư không những quan trọng mà còn là tối hệ trọng. Do đó, nạn chèo kéo, chụp giựt gây không ít phiền nhiểu du khách nước ngoài hiện là một trong những vấn nạn của văn hoá du lịch, được báo chí trong nước tường thuật một cách phổ biến, thể hiện rõ nét qua hai trường hợp điển hình sau đây với các hình ảnh cụ thể. Trên VietNamNet, phóng sự Du khách “xông đất” Đà Nẵng bị quấy nhiễu tơi bời tường thuật: "Sáng 3/1, tàu Costa Allegra đưa 950 khách quốc tế “xông đất” Đà Nẵng trong năm mới 2008. Và một lần nữa, du khách lại bị quấy nhiễu đến tơi bời!”. Trang Phụnữ online ngày 3/7/2009 có bài viết Chèo kéo du khách: “TP.HCM có nhiều điểm du lịch thu hút du khách nước ngoài như Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, chợ Bến Thành, Bưu điện Trung tâm TP, nhà thờ Đức Bà... Thế nhưng, tại những nơi này, mỗi khi có khách đến, là hàng chục người đủ mọi lứa tuổi thi nhau đeo bám khách để rao bán các loại quà lưu niệm”.
Quốc doanh hóa và thương mại hóa các cơ sở tôn giáo là vấn nạn thứ hai, phản ảnh sắc thái văn hóa rất đặc thù về ngành du lịch Việt Nam.
Chính sách quốc doanh hóa các cơ sở tôn giáo được xác minh qua bản tin Nhà chùa “chia” tiền công đức cho chính quyền? trên VNEconomy ngày 21/3/2009, tường trình buổi chất vấn của Quốc hội với Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể dục và Du lịch Hoàng Tuấn Anh: Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba nói, bà đến chùa thấy các mâm lễ đầy tiền, hỏi thì biết là nhà chùa có người hướng dẫn làm như thế… Đại biểu Nguyễn Ngọc Đào ( Hà Nội): “trong chùa dưới chân 1 tượng mà 4 thùng công đức, tôi còn nghe nói nhiều chùa mở hòm công đức chia tiền cho chính quyền, chính quyền sống bằng tiền công đức ấy?”.
Chính sách
thương mại hóa các cơ sở tôn giáo
dẫn
đến tình trạng các dịch vụ du lịch lễ hội tổ chức tại
các cơ sở tôn giáo tôn
nghiêm diễn ra một cách xô bồ và hỗn tạp.
Hiện tượng này được đại biểu Nguyễn
Ngọc Đào (Hà Nội) chất vấn: “hiện
trên
toàn quốc có 15.244 đền chùa, song có
hiện tượng quán xá xâm lấn đến tận cửa chùa,
cản cả chân du khách, vậy Bộ có
suy nghĩ về việc "vô văn hóa" này
không?”
Trên Kinh tế Sài gòn
Online, qua bài Nhắm
mắt vào
chùa đăng ngày 18/4/2009, Dạ Ngân viết: “Ở miền Bắc, hầu như
khu
dân cư cổ
nào cũng có một ngôi chùa. Nghe đâu
thời cách mạng ngút trời, người ta đã phá
phách đền miếu để dân chúng cùng
“được” vô thần, người ta trưng dụng mái
đình
để làm chỗ cho hợp tác xã. Nhưng may sao người ta
vẫn để lại những ngôi chùa,
chắc vì cũng thấy chùn tay… Mười năm trước,
chùa thật sự cổ kính nhờ khuôn viên
nhiều cây cau, phía sau có mùi hoa mộc
vào mùa xuân và mùi sen tươi
vào những
tháng hè. Tất cả thoáng đãng, tĩnh mịch,
phù hợp với cư dân ngoại thành. Không
biết từ lúc nào sân chùa đã
thành bãi
giữ xe có phiếu thu tiền trong ngày rằm, ngày Tết,
có nhiều lớp cửa hơn để đóng
chặt trong ngày thường. Nhớ mấy năm trước, khi đáo qua
chùa Mía, chúng tôi đã
bắt gặp những thùng công đức nền vàng chữ đỏ xếp
thành hàng ở gian chính như
một đội quân đeo biển tận thu”.
Trên trang điện tử VietnamPlus của TTXVN,
ngày 3/3/2009, Kỳ Dương tường thuật Lễ
hội chùa Đậu:
Lộn xộn chốn linh thiêng:
“Càng
đến gần chùa, nhiều
khách thập phương đã thực sự tỏ
ra khó chịu. Bao quanh ngôi chùa cổ
kính là cơ man những quán ăn như bún chả,
miến ngan, hoa quả dầm... Đặc biệt,
nhiều người đã mang cả cá mực, cá chỉ vàng
đến nướng ngay sát chùa,
thậm chí cả bên trong sân chùa. Có một
cơn
gió, bụi từ các bếp than
củi di động” bay tứ tung… Mùi cá chỉ
vàng, mực nướng quyện vào mùi nhang khói.
Đó là chưa kể những gian hàng trò chơi theo
kiểu vui chơi có thưởng như ném phi
tiêu, ném bóng… Tiếng loa đài
hát nhạc Tây, Tàu của một gian hàng
trò chơi đập
vỡ niêu, tiếng của những chiếc cân điện tử…
làm khách không thể nghe thấy tiếng
tụng kinh của nhà chùa,
cho dù nó đã
được phát lên loa.”
Cũng trên trên Vietnamplus, phóng sự Thương mại lấn át sự linh thiêng của chùa Hương, ngày 05-02-2009 tường trình: “Từ suối Yến lên Chùa Thiên Trù, đập vào mắt du khách hàng dãy hàng quán từ các cửa hàng ăn uống, quà lưu niệm đến tắm nóng lạnh nhưng thiếu sọt rác và nhà vệ sinh. Những chiếc loa thùng của các hàng quán bên đường đua nhau quảng cáo, mời chào khách, tạo nên âm thanh hỗn tạp. Hàng hóa đủ màu xanh đỏ loè loẹt, các quán ăn thực phẩm để sát đường, những con mèo, lợn, bê treo cả ngày dưới nắng nóng…”
III. Phần Kết:
Việt Nam là một trong số các quốc gia có ngành du lịch phát triển nhanh trong thập niên qua. Sự góp phần của nguồn thu nhập du lịch vào GDP và cán cân thanh toán trở nên đáng kể và ngày càng gia tăng. Với các lợi thế về giá cả, nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa khá phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, và là điểm đến mới, Việt Nam hiện là quốc gia đang thu hút du khách quốc tế.
Mặt khác, Việt Nam cần hiểu rõ vị thế của mình trong bức tranh tổng thể của ngành du lịch khu vực và thế giới, với tỷ phần khiêm tốn 2.3% và 1.8% trên lượng khách đến và thu nhập của khu vực, và vị thứ chỉ số cạnh tranh du lịch 17/25 và 89/133 trong khu vực và trên thế giới. So sánh với tỷ phần và vị thứ tương ứng của nước láng giềng Malaysia - 11.4%, 8.2%, 3/25, và 32/133 - Việt Nam sẽ phải cần rất nhiều nỗ lực và thời gian để có thể thu ngắn khoảng cách phát triển ngành du lịch với các quốc gia có lợi tức trung bình như Malaysia và Thái Lan.
Việt Nam hiện vẫn là một nước nghèo, đang cố vươn lên trở thành quốc gia có mức lợi tức trung bình, do đó cơ sở vật chất và hạ tầng du lịch còn thiếu thốn và kém tiện nghi, cần thời gian để dần dà cải thiện. Song những yếu kém thuộc phạm vi chính sách về luật định, đào tạo nhân lực, và đặc biệt trên lĩnh vực bảo tồn và phát huy nguồn tài nguyên văn hóa, thiên nhiên và môi trường nếu không sớm được cải thiện, không những sẽ ảnh hưởng đến mức tăng trưởng và tính bền vững của ngành du lịch Việt Nam trong trung và dài hạn mà còn có thể gây phương hại đến nguồn tài nguyên quí hiếm của quốc gia.
Tính cách văn hoá của hoạt động du lịch Việt Nam là nỗi quan ngại khác. Nếu như sự thành công của cá nhân không thể chỉ được đánh giá bằng sự thành đạt về phương diện tài chánh, mà còn ở nhân cách, thể hiện qua văn hóa ứng xử trong cuộc sống, thì hình ảnh của một xứ sở, một dân tộc dưới con mắt du khách quốc tế cũng không thể chỉ được tạo dựng qua sự hoành tráng của các lễ hội hay công trình du lịch, mà ở sự thể hiện nếp sống văn hóa thường nhật, qua thái độ phục vụ của các nhân viên ngành du lịch, qua lề lối kinh doanh, và lòng hiếu khách của cộng đồng dân cư đối với khách quốc tế.
Với mức phát triển khá ấn tượng trong thập niên qua và tiềm năng về tài nguyên và nhân lực phong phú, ngành du lịch Việt Nam đang mở ra một triển vọng mới.
Với vị thế yếu kém về chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch, đặc biệt trong các lãnh vực bảo tồn tài nguyên, môi trường, đào tạo, và luật định, tương lai của ngành du lịch Việt Nam là một dấu chấm hỏi.
Với kết quả điều tra của WEF về thái đội dân chúng đối với du khách quốc tế, các phản hồi của du khách rằng Việt Nam cần học hỏi Lào và Campuchia về lòng hiếu khách và cách tiếp đón du khách (3)(4), các phóng sự về tình trạng chèo kéo, chụp giật du khách, sự sô bồ và hỗn tạp của các lễ hội nơi chốn tôn nghiêm, hình ảnh của đất nước đang bị tổn thương, như Lê Hà đã nhận định trên KinhtếSàigonOnline: Hạ tầng cơ sở và dịch vụ của ngành du lịch Việt Nam đã yếu kém, lẽ ra chúng ta phải biết lấy văn hóa ứng xử để bù lại. Thế mà không hiểu sao, một số nơi, một số công ty lữ hành vẫn cố chạy theo lợi nhuận làm ăn kiểu vô trách nhiệm như vậy. Chính những cách hành xử như nói ở trên đã phần nào làm mất đi hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế (5).
Trần Bình 8/2009
(1) The
Travel &
Tourism Competitiveness Report 2009 – TTCI 2009
(2) Số liệu về vị thứ chỉ số cạnh tranh trích từ TTTCI 2009,
trang 19,
389-487.
(3) Lòng
hiếu khách ở đâu? , Eileen - BBC
(4) Thăm
đất
Chùa Tháp
chạnh lòng du lịch xứ ta , Khánh Linh –
Vietnamnet
(5) Vì
sao du
khách không quay lại?, Lê Hà - Thời
báo Kinh tế Sàigòn Online
Các thao tác trên Tài liệu