Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / Hương Đạo ở Nhật Bản

Hương Đạo ở Nhật Bản

- Vĩnh Sính — published 14/04/2010 00:38, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:18
Điều ít người chú ý là vai trò quan trọng của trầm hương trong lịch sử giao lưu giữa Việt Nam và Nhật Bản. Kỳ nam được xem là đi từ vùng đất nay là Việt Nam...


TỪ THÚ THƯỞNG THỨC
TRẦM HƯƠNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
KÔDÔ (HƯƠNG ĐẠO) Ở NHẬT BẢN



Vĩnh Sính


tramhuong

Thưởng thức trầm hương

Mai sau dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Kiều

Dó lâu năm dó cũng thành kỳ,
Đá kia lăn lóc có khi thành vàng.

Ca dao


Các chất liệu có hương thơm (香料 hương liệu) nói chung thường lấy từ thực vật (hoa, trái cây, rễ cây, lá cây, hay nhựa cây), động vật hay khoáng vật. Từ trước tới nay, loại hương liệu được yêu chuộng nhất vẫn là các thứ gỗ thơm (香木 hương mộc). Quế (cinnamon) và trầm (aloeswood hay agalloch) là hai loại gỗ thơm tiêu biểu của Việt Nam.

Theo cố học giả Phạm Hoàng Hộ, loại trầm thường thấy ở Việt Nam là do cây dó bầu (aquilaria crassna) bị sâu ăn, tiết ra nhựa, đông cứng lại rồi lâu năm mà biến thành. Gỗ mang bộng nhựa của cây dó có tỷ trọng lớn, thả vào nước sẽ “chìm”. “Trầm” 沈 chữ Hán có nghĩa là chìm, và tên “trầm” bắt nguồn từ đó.

“Trầm hương” (沈香 jinkô, sinking fragrance”), theo định nghĩa của từ điển Kôjien, là “hương liệu thiên nhiên lấy từ loại cây cao ‘thường lục’. Cây thuộc vùng nhiệt đới Á châu, cao độ chừng 10 mét, thân cứng và chìm dưới nước. Hoa màu trắng. Chôn cây dưới đất, hoặc làm thối ra, cây sẽ thành ‘già la’ 伽羅 có màu đen mướt, mùi thơm ưu việt và giá rất đắt”.1

Cây cao ở đây đúng là cây dó bầu mọc trong những cánh rừng già. “Trầm hương” chính là phần thân cây chứa nhiều nhựa thơm. Dó bầu sống lâu trở nên to lớn và thành đại thụ.2 Ca dao có nói: “Dó lâu năm dó cũng thành kỳ”, nhưng ta cần nói thêm là không phải cây dó nào cũng thành trầm, may lắm mới có được. 3

“Kỳ nam” được coi là loại trầm tốt nhất. Trầm không có ở Nhật Bản và Trung Quốc mà chỉ có ở Đông Nam Á. “Kỳ nam” đặc biệt chỉ có ở miền Trung Việt Nam từ Thanh Hóa vào đến Khánh Hòa – mảnh đất có cái tên hấp dẫn, nhưng đúng với sự thật, là “Xứ trầm hương”!

*

Trầm ở các tỉnh ở miền Trung nổi tiếng khắp thế giới với hương thơm tao nhã, thoát tục. Tài liệu xưa nhất về trầm hương của Nhật Bản là Nihon Shoki (日本書 紀 Nhật Bản thư kỷ; soạn xong năm 720 sau CN).

Theo sách này, vào năm 595 sau CN có “khúc trầm trôi dạt vào đảo Awaji-shima [Đạm-lộ đảo]”, gần thành phố Kobe hiện nay. “Khúc trầm này có chu vi là 1 mét 80. Cư dân trên đảo không biết đó là trầm, đem ra đốt để nấu ăn. Hơi khói xông lên thơm ngào ngạt và mùi hương tỏa ra xa. Dân lấy làm lạ [nhưng đoán biết là quý], đem dâng lên Thiên hoàng [lúc này là Thiên hoàng Suiko]”.4 Khi đó, có Thái tử Shôtoku5 biết ngay là đó trầm hương (jinkô).

Chúng ta có thể phỏng đoán khúc trầm này đi từ miền Trung (vào thế kỷ VI thuộc Chămpa) và theo dòng nước ấm Kuroshio trôi dạt lên phía Bắc để rồi tạt vào Nhật Bản. Cần nói thêm là dòng hải lưu Kuroshio này cũng bắt nguồn từ miền Trung Việt Nam.

dot-tram

Đốt trầm ở chùa Tôdaiji,
Nara, Nhật Bản

Khi mới du nhập vào ở Nhật Bản, trầm được dùng trong các tế lễ Thần đạo (Shinto/Shintoism) và Phật giáo. Sau đó, trầm hương ngày càng đóng vai trò trọng yếu trong các buổi lễ Phật giáo. Bước sang thời Nara (710-794 sau CN), nghi thức này được trở thành buổi lễ có tính cách quốc gia và còn tiếp tục mãi cho đến Minh Trị Duy Tân (1868).

Điều ít người chú ý là vai trò quan trọng của trầm hương trong lịch sử giao lưu giữa Việt Nam và Nhật Bản. Kỳ nam được xem là đi từ vùng đất nay là Việt Nam, thường được người Nhật gọi là kyara 伽羅.

Theo Nakata Kyôzaburô thuộc công ty Baieidô (Mai-Vinh Đường), sáng lập từ năm 1657, tên “kỳ nam” nguyên là tiếng Chămpa bởi Chămpa là những người đi buôn “kỳ nam” từ lúc ban đầu. Tên “kỳ nam” là tổng hợp của tiếng Phạn (Sanskrit) “kara” nghĩa là màu “đen”, và chữ “bak” tiếng Tàu nghĩa là “cây, gỗ” (木 mộc).6 Với sự tổng hợp của hai ngôn ngữ, chúng ta có từ “kalambak”, rồi dần dà từ này được rút ngắn lại để trở thành “kỳ nam”, tức là “gỗ đen”,7 như chúng ta có ngày nay.

Cũng cần nói thêm là không phải ngẫu nhiên mà loại trầm đặc biệt này có gốc từ tiếng Phạn, bởi lẽ con đường tơ lụa trên biển (Sea Silk Road) cũng chính là con đường truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ, và trầm kỳ nam đã đi theo con đường đó cùng với Phật giáo. Chămpa thuở ấy cũng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, thay vì văn minh Trung Hoa như Việt Nam.

Có khá nhiều giai thoại về sự đam mê trầm kỳ nam của các nhân vật lịch sử ở Nhật Bản. Ở Shôsôin (正倉院 – Chính Thương Viện) – nhà lưu trữ các bảo vật và kinh điển Phật giáo toạ lạc trong khuôn viên chùa Tôdaiji (東大寺 Đông Đại Tự) ở Nara – có một khúc trầm kỳ nam gọi là Ranjatai (蘭奢待 Lan xa đãi) dài chừng 1 mét rưỡi. Cả ba nhân vật góp phần vào công cuộc nhất thống Nhật Bản vào cuối thế kỷ XVI là Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu đã từng lăm le dòm ngó khúc trầm được xếp vào hàng “linh bảo” này. Chắc hẳn bảo vật này được xem là một biểu tượng của uy quyền. Tương truyền Nobunaga cho người đẽo hai miếng, mỗi miếng dài chừng 40 phân; một miếng dâng thiên hoàng, một miếng dùng để xông lên trong những buổi uống trà đạo. Hideyoshi hình như cũng bắt chước Nobunaga cho người đến đẽo vì nhà thiên tài quân sự này cũng thích giao du với các trà nhân. Người ta tin rằng khúc Ranjatai này đã do Thiên hoàng cúng cho chùa Tôdaiji vào năm 756. Hiện nay, Ranjatai có thể xem cứ mỗi 10 hay 15 năm qua triển lãm của Shôsôin ở Viện Bảo tàng Quốc gia tại thành phố Nara. Khúc Ranjatai này theo Yoneda Kaisuke, một chuyên gia về trầm hương thuộc Viện Bảo tàng Osaka, đoán định là đã đi từ Lào hoặc Việt Nam.8

Riêng về Tokugawa Ieyasu – vị shôgun (tướng quân) đầu tiên của chính quyền Tokugawa – tuy người ta biết chắc là Ieyasu có sai người vào xem khúc trầm Ranjatai, nhưng không ai biết rõ là ông ta có cho đẽo đem về hay không. Tuy nhiên, qua những văn thư mà hiện nay còn lưu lại, chúng ta biết rõ là Ieyasu rất mê thích trầm và đã từng gửi thư cho quốc vương Chămpa và chúa Nguyễn xin gửi trầm kỳ nam.

Thư của Tokugawa Ieyasu gửi quốc vương Chămpa năm 1606 có ghi rõ : “Chúng tôi muốn có trầm loại thượng hảo hạng. Những loại có phẩm chất vừa vừa hay dưới trung bình thì xin đừng gửi vì chúng tôi đã có nhiều lắm rồi”.9 Qua văn thư, chúng ta cũng biết rằng ít nhất trong hai năm 1605 và 1606, chúa Nguyễn Hoàng đã gửi một số tặng vật đáp lễ cho Tokugawa Ieyasu, mỗi lần gồm 1 miếng trầm kỳ nam, cả hai lần mỗi lần một cân. Trước đó, vào đời Genroku (Nguyên Lục), tức là từ 1592 đến 1595, chúa Nguyễn đã gửi tặng Nagasaki Bugyô (một chức giống như Trấn thủ) nửa cân kỳ lam và những tặng phẩm khác. Một chi tiết thú vị và có ý nghĩa là trong danh sách các tặng phẩm giữa các nước Đông Á, trầm luôn luôn được liệt kê đầu tiên và trầm thường được xem là một vật tặng quý giá trong quan hệ ngoại giao với Nhật Bản và Trung Hoa.10 Sau khi Ieyasu mất, nghe nói trong các di vật của ông có đến hơn 100 kilô trầm kỳ nam và hơn 180 kilô các loại trầm khác. Điều này cho ta thấy Ieyasu đã thích thú thưởng thức trầm hương đến mức độ nào.

Theo nghiên cứu của Ogura Sadao, trầm là mặt hàng Nhật Bản nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á (Việt Nam, Cămpuchia, Siam [nay là Thái Lan], Borneo, v.v.) trong thời kỳ giao thương bằng “thuyền buôn có giấy phép châu ấn” (Shuinsen 朱印船) vào cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII mà hiện nay Nhật Bản vẫn còn tiếp tục nhập khẩu. Theo Ogura, lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 70% tổng số lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu vào thời châu ấn, và cho đến năm 1987, lượng trầm Nhật Bản từ Việt Nam là 16 tấn, vẫn chiếm khoảng 50% tổng số lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu (khoảng 32 tấn).

Tuy trong quá khứ, Việt Nam và In-đô-nê-xi-a đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu trầm sang Nhật, hiện nay vai trò đó được thay thế bởi Hong Kong, Singapore, và Thái Lan.

*

So với các nghệ thuật nổi tiếng của người Nhật như trà đạo (sadô), thư đạo (shodô; tức nghệ thuật viết chữ Hán), kiếm đạo (kendô), võ sĩ đạo (bushidô) hoặc nhu đạo (judô), kôdô (香道 hương đạo) ít được người nước ta biết đến. Một điều thú vị là ngay ở Nhật Bản cũng không mấy ai biết là lịch sử Kôdô còn ghi dấu mối giao lưu giữa mảnh đất miền Trung với Nhật Bản từ thuở xa xưa.

Kôdô (Way of incense / Voie de l’encens) là nghệ thuật thưởng thức trầm hương, nói nôm na là nghệ thuật “ngửi” mùi trầm hương – một nghệ thuật độc đáo chỉ thấy ở Nhật Bản chứ không có ở các nước khác. Mặc dầu đến thế kỷ XV Kôdô mới được định hình, nhưng trên thực tế thú thưởng thức tao nhã này đã bắt nguồn từ khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ khoảng thế kỷ VI.

Trong những buổi lễ Phật giáo, lễ quan trọng nhất thường được dâng bằng trầm hương. Từ 1500 năm trước, dâng trầm hương là lễ cúng dường để lau sạch các tượng Phật, hoặc khi các sư tăng tụng kinh.

Dần dà, mùi hương trầm thanh nhã ngày càng được người Nhật yêu chuộng, giới quý tộc ở Kyoto thời Heian (794-1185) thích đốt trầm trong nhà cho “thơm nhà thơm cửa” và thơm y trang. Theo đà phát triển của thú chơi đốt trầm này (người Nhật gọi là sora-dakimono 空 炊 きもの), các cuộc thi đấu trầm – giống như thi làm thơ hay thi cắm hoa – được tổ chức để định loại trầm nào có mùi hương tao nhã nhất.

Những chất liệu dùng làm sora-dakimono là các vật liệu còn tươi tắn của y học truyền thống. Thú đốt trầm dần dà không những phổ biến trong giới quý tộc mà người thường cũng đua nhau phỏng đoán loại nào thơm nhất và những điểm đặc biệt giữa các loại trầm hương.

Với sự ra đời của chính quyền của giai cấp võ sĩ (samurai) vào cuối thế kỷ XII, ảnh hưởng của Thiền đối với văn hóa người Nhật ngày càng đậm nét. Do ảnh hưởng của thú trầm hương đời Tống (Trung Quốc), người Nhật Bản chuyển sang nerikô (煉り香) với cách thức trộn lẫn trầm hương với nhau giống như jinkô lúc ban đầu. Với cách thức này, nghệ thuật thưởng thức bằng cách “ngửi mùi” trầm hương (聞香 bunkô hay monkô, tức văn hương”) tiến thêm một bước nữa để rồi được định hình dưới dạng Kôdô (hương đạo) vào đời Muromachi (1336-1573).

Từ lúc này, thú chơi đốt trầm sora-dakimono ít nhiều mang vẻ hào nhoáng, được thay thế bằng cách thưởng thức hương trầm trong không khí u huyền tĩnh mịch – phù hợp với đời sống tinh thần hướng nội và ý thức mỹ học thấm đượm Thiền vị của người võ sĩ.

Theo Kôdô, mùi trầm hương từ đó được phân loại thành “ngũ vị lục quốc” (五味六国, tức là “năm mùi vị và sáu nước”) . Năm mùi vị là ngọt, chua, cay, mặn, và đắn. “Sáu nước” nói nôm na là sáu nơi sản xuất trầm hương; đó là Kyara, Rakoku, Manaban, Manaka, Sasora and Sumatora. Theo cách phân chia của những người sành điệu trầm hương do Shôgun Ashikaga Yoshimasa (1436-1490) bổ nhiệm, “sáu nước” đó là :


    • Kyara (伽羅 Già la) Như đã nói ở trên, chữ kara có gốc là tiếng Phạn, nghĩa là “đen”. Loại tốt nhất trong trầm hương, có mùi hương tao nhã. Chỉ có ở Việt Nam.
    • Rakoku (羅国 La Quốc) Mùi hăng vị đắng, mặn và cay. Chỉ có ở Thái.
    • Manaban (真南蛮 Chân Nam Man) Có nhiều hương và nhựa, vị gần như ngọt, nhưng không có vẻ “điểm trang”. Có ở miền Đông của Ấn Độ, hoặc giữa Mã Lai và Ấn Độ.
    • Manaka (真那伽 Chân Na Già) Trong những hương thơm, đây có lẽ mùi hương nhạt nhất. Có ở Malacca (Malaysia).
    • Sasora (佐曾羅 Tá Tăng La) Có mùi hương nhẹ. Với một loại sasora tốt, người ta dễ tưởng lầm là kyara, đặc biệt khi mới đốt. Có ở miền Tây Ấn Độ.
    • Sumatora (寸聞多羅 Thốn Văn Đa La) Rất nhiều nhựa và có vị chua. Có nhiều ở Sumatra (In-đô-nê-xi-a).11

rikkoku

Trầm hương Rikkoku (“Sáu nước”)

Dưới đời Muromachi, nghệ thuật thưởng thức trầm hương bắt đầu phát triển song song với nghệ thuật uống trà.

Nhiều loại thi đấu có nội dung và hình thức khác nhau đua nhau ra đời. Trước hết là các cuộc “đấu trà” (tôcha 闘茶) đòi hỏi người tham dự đoán định phẩm chất các loại trà. Sau đó người ta tổ chức các buổi thi đấu cả trà lẫn trầm nhằm xem ai có thể phân biệt được 10 loại trà và 10 loại trầm khác nhau. Trong các buổi thi phân định hương trầm, người tham dự được chia làm hai nhóm, thi nhau đoán xuất xứ, lai lịch, đặc tính của từng loại trầm nổi tiếng, chẳng hạn như mùi hương, làn khói bốc lên có hình dạng như thế nào, v.v...

Dần dà, ngoài khả năng thưởng thức hương trầm, người thi đấu còn phải có kiến thức văn hoá và khả năng cảm thụ mỹ học – nói nôm na là khả năng cảm nhận những cái gì đẹp. Trước mặt người đến xem, trầm sẽ được xông lên từ loại này đến loại khác, giống như những vế khác nhau trong một bài thơ renga (連 歌 liên ca). Mỗi lần trầm được xông lên, người dự thi phải làm một vế thơ tán thưởng mùi hương đồng thời phải nhắc đúng tên loại trầm vừa đốt. Cuối cùng, người ta sẽ có một bài thơ renga nhiều vế về các mùi hương trầm trong cuộc thi.

Sự kết hợp giữa thú thưởng thức trầm hương với khuynh hướng truy cầu những cái gì đẹp, gọi chung là bi (美 mỹ) hay bigaku (美学 mỹ học), trong truyền thống văn học Nhật Bản có thể nói là nhân tố quyết định sự hình thành của Kôdô.

Kôdô vừa phản ánh chiều sâu văn hoá của người thưởng thức, vừa thể hiện vẻ đẹp u nhã của hương trầm, mà cũng vừa có thể diễn tả nhiều chủ đề văn học khác nhau. Chính vì thế, Kôdô được xem là một nghệ thuật độc đáo của Nhật Bản.


Vĩnh Sính

Đầu tháng 4, 2010



1 Shinmura Izuru, Kôjien (Quảng từ uyển) (Tokyo: Iwanami Shoten, 1993), trang 1328.

2 Xem Khanh Hoa Aquilaria Company,
http://www.tramhuongkhanhhoa.com.vn/index.php/tramhuong/tramhuonglagi.

3 Ngoài ra còn có cây “chiên đàn 栴檀, chữ ‘chiên’ cũng có thể viết chữ Hán bằng bộ ‘phương’ 方” thay vì bộ ‘mộc’ 木. Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giải thích “chiên đàn” là “Một loại gỗ thơm”. “Chiên đàn” tiếng Phạn gọi là “Candana”, là “một loại cây có mùi hương ở Ấn Độ” (Daijigen, Tokyo: Kadokawa Shoten, 1992, trang 797). Từ̀ điển này có cho biết thêm xuất xứ là Ấn Độ; bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà trong kinh Phật, chúng ta thấy thường xuất hiện chữ “chiên đàn”.

Hoàng thân Miên Thẩm, tức thi nhân Tùng Thiện Vương cũng có bài thơ chữ Hán về cây chiên đàn (“Chiên đàn thụ”) như sau: Tuyệt hảo chiên đàn thụ / Phồn hương quýnh bất quần / Hận cừ thiên tính biệt / Chỉ tại nghịch phong văn. Nguyễn Sĩ Đại dịch quốc văn ra là: Cây chiên đàn tốt tuyệt / Hương sâu vượt bọn bầy / Tinh đặc thù, đáng tiếc / Ngược gió thì mới hay ! Có lẽ cây mà Hoàng thân Miên Thẩm muốn nói ở đây chính là “cây dó bầu”, nhưng vì chữ Hán không dùng chữ nôm na như vậy, mà “già la” hay “kỳ nam” (là chữ Hán) thì thời đó còn xa lạ quá với người Việt !

4 Xem bản dịch tiếng Anh : Nihongi: Chronicles of Japan from Earliest Times to A.D. 697 (Nhật Bản kỷ [hay Nhật Bản thư kỷ] từ thời nguyên thủy đến năm 697 sau CN), translated from the original Chinese and Japanese by W. G. Aston. Tokyo: Charles E. Tuttle Company, 1980, II, 123.

5 Tương truyền là một chính trị gia lỗi lạc của Nhật Bản. Thái tử Shôtoku đã đóng vai trò trọng yếu trong việc củng cố vị trí của thiên hoàng và tiếp thu Phật giáo.

6 Tiếng Bắc Kinh (pinyin) “mộc” đọc là “mu”, trong trường hợp này người ta phát âm theo giọng miền Nam mới đọc là bak.

7 Xem Baieido Ltd, http://www.japanese-incense.com/aloeswood.htm.

8 Như trên.

9 Trích lại từ Okura Tadao, Shuinsen jidai no Nihonjin (Người Nhật Bản thời thuyền châu ấn). Tokyo: Chûô Kôron Shinsho, 1989, trang 174.

10 Như trên, trang 174-175.

11 Xem Kaori no techô (Sổ tay về hương thơm). Shôeidô Kabushiki Kaisha, 1991.


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us