Kinh tế và xã hội người Hoa... đầu thế kỷ 20
Kinh tế và xã
hội người Hoa ở Chợ Lớn
vào
cuối thế kỷ 19 đến đầu thế
kỷ 20
Nguyễn Đức Hiệp
Chợ Lớn, cách Sài Gòn khoảng 6km, trước đây từng được coi là thủ đô lúa gạo của toàn Đông Dương. Chợ Lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Nam Kỳ xưa kia và cho đến gần đây. Lịch sử Sài Gòn gắn liền với lịch sử Chợ Lớn.
Chợ Lớn được thành lập trước Sài Gòn. Sài Gòn thật ra là tên trước đây đặt cho khu Chợ Lớn và chính tên Sài Gòn có thể có nguồn gốc từ “Tai Ngon” hoặc ‘Tin-Gan” (Hán Việt là Đề Ngạn, chỉ thành phố gần đê dọc kênh tàu Hủ) mà người Quảng Đông đọc là “Thầy Ngòn” hay “Thì Ngòn” (22).
Sự thăng trầm của Chợ Lớn trực tiếp gắn liền với lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ đã qua. Chủ yếu là trung tâm thương mại, không có quyền lực và ảnh hưởng chính trị, nên Chợ Lớn không được đánh giá đúng mức về tiềm lực văn hóa, kinh tế trong các nỗ lực ưu tiên đầu tư để phát triển kinh tế, hạ tầng cơ sở xứng đáng với tầm vóc của thành phố này, cũng như phát triển văn hóa và bảo tồn các đặc trưng mà con người, trong đó người Hoa và Minh hương là chủ đạo, đã góp phần tạo thành đặc tính con người văn hóa Nam bộ.
Người Hoa, đa số từ các tỉnh phía nam Trung Quốc (Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam) đến miền nam Việt Nam từ thế kỷ 17. Ban đầu người Hoa đến định cư đông đảo ở Hà Tiên, Mỹ Tho và Cù Lao phố, Biên Hòa. Sau đó người Hoa từ Cù Lao phố, Biên Hòa, đã kéo về vùng Chợ Lớn thành lập khu định cư mới vào năm 1778 khi Cù Lao phố bị Tây Sơn đánh phá. Họ là hậu duệ của những người theo nhà Minh chạy khỏi Trung Hoa thời nhà Thanh đến miền Nam lập nghiệp ở Cù Lao Phố và Mỹ Tho vào năm 1680 sau khi được chúa Nguyễn cho phép qua chính sách khai khẩn miền đất mới.
Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (21) nói về vùng Chợ Lớn là nơi phố thị buôn bán sầm uất, sinh hoạt văn hóa, kinh tế nhộn nhịp cuối thế kỷ 18 như sau:
“Phố chợ Sài Gòn:
Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có.
Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu ; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán”.
Các “sông nhỏ” (rạch) ngày nay hầu hết đã được lấp thành đường phố nhưng các hội quán như hội quán Quảng Đông, Triều Châu, Ôn Lăng và các miếu Thiên hậu, Quan Đế vẫn còn.
Khi người Hoa từ Cù Lao Phố đến vùng gọi là Chợ Lớn cũ, đã có làng Minh Hương của người Việt gốc Hoa thành lập trước từ năm 1698 cũng do người Hoa gốc nhà Minh đến định cư. Nhưng chỉ 4 năm sau, vào năm 1782, Tây Sơn do Nguyễn Nhạc chỉ huy vào trở lại đánh thành Phan Yên (Phiên An, thành Sài Gòn sau này) ở Gia Định và sau đó đánh luôn Chợ Lớn khu người Hoa ở, tàn sát họ rất nhiều. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, họ lại hồi phục và Chợ Lớn tiếp tục phát triển.
Ngoài Chợ Lớn và Mỹ Tho, vùng đồng bằng sông Cửu Long từ khu vực sông Tiền và sông Hậu cho đến Rạch Giá, Hà Tiên là nơi vẫn còn hoang vu thưa dân nên họ cũng đến lập nghiệp rất nhiều. Trong số những lưu dân đến sau này, một số hoạt động trong hội kín Thiên địa hội. Đa số người Hoa đến lập nghiệp, ban đầu khai khẩn đất đai, sau đó phát triển làm ăn buôn bán giao thương với các thành phố ở miền Nam Trung quốc (Quảng Đông, Phúc Kiến) và các thành phố ven biển ở các nước Đông Nam Á.
Vào thời vua Minh Mạng ở các năm giữa thế kỷ 19, chính sách hạn chế giao thương và kiểm soát ngặt nghèo trong sự giao tiếp với các nước bên ngoài đã làm khó khăn cho sự phát triển kinh tế và thương mại, lãnh vực mà người Hoa rất giỏi và thích ứng.
Biết được điều đó, ngay sau khi Pháp đánh chiếm Saigon, cảng Saigon được Pháp tuyên bố là một cảng mở cho tất cả thương thuyền của mọi quốc gia và khuyến khích ngoại thương, người Hoa ở Chợ Lớn đã hưởng ứng nhanh chóng trong tình hình mới này và đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế thời mở cửa. Chỉ một vài tháng sau khi cảng Saigon mở tự do, người Pháp đã thâu được lợi nhuận khổng lồ qua mua bán xuất khẩu gạo qua Singapore từ Chợ Lớn.
Bài này có mục đích mô tả những nét chính về đời sống kinh tế, xã hội của người Hoa ở Chợ Lớn vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc khi Chợ Lớn bắt đầu lớn mạnh, thật sự trở thành trung tâm thương mại và nền kinh tế của Nam Kỳ.
(1) Chính sách và thái độ của Pháp đối với người Hoa ở Nam Kỳ
Từ lúc người Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa, do chính sách khuyến khích phát triển kinh tế của Pháp, người Hoa tiếp tục truyền thống di dân nhiều vào Nam Kỳ. Sau khi nhập cư ở cảng Saigon và Chợ Lớn, đa số họ đều định cư ở vùng Chợ Lớn. Sự tập trung ở Chợ Lớn, cộng với sự cần cù, tiết kiệm không hoang phí, giỏi làm ăn trong kỹ nghệ và trên thương trường chẳng bao lâu đã làm một số người Pháp than phiền và lo ngại.
Thương mại như lúa gạo ở Nam Kỳ đa số nằm trong tay người Hoa. Chính quyền đã khoán một số độc quyền như thuốc phiện cho người Hoa lúc đầu để gia tăng ngân sách. Sau này khi chính quyền đã thiết lập hệ thống hành chính và ổn định ở nhiều nơi từ Saigon - Chợ Lớn đến lục tỉnh, người Pháp lấy lại thế thượng phong về kinh tế và họ quyết định thành lập các độc quyền kinh tế (Régies) như sản xuất, buôn bán muối, rượu và thuốc phiện.
Để kiểm soát và quản lý số lượng người Hoa nhập cư, người Pháp đã ban hành các sắc luật về giấy tờ, thuế trên các người Hoa di dân vào Nam Kỳ. Khi người Hoa gốc tỉnh nào ở Trung Quốc di dân đến cảng Saigon, họ được dẫn đến văn phòng hải quan để đăng ký, trước sự giám định của bang trưởng hay đại diện bang trưởng của bang (Quảng Đông, Triều Châu, Hẹ, hay Phúc Kiến) người Hoa đó. Họ được phát một phiếu (ticket) ghi tên họ, tuổi, thuộc bang nào, nghề nghiệp, ngày đến và đóng 3 đồng cho năm đầu và 5 đồng mỗi năm sau. Phiếu này phải mang theo và trình khi có cảnh sát hỏi giấy tờ (15). Hai bang chính thời đó mà người Hoa nhập cư dựa vào là bang Quảng Đông và bang Triều Châu. Hội quán của hai bang này ở địa chỉ mà chính quyền và người Hoa coi như là đầu mối liên lạc chính cho mọi vấn đề liên quan đến Hoa kiều.
Hội quán Quảng
Đông
(Congregation de Canton)
30 rue de Cay-Mai, Telephone no.
34
(ngày
nay là số 710 Đường Nguyễn
Trãi, Q5)
Hội quán Triều
Châu
(Congregation de Trieu-Chau)
36 rue de Cay-Mai, Telephone no.
60
(ngày
nay là số 676 Đường Nguyễn Trãi,
Q5)
Hội quán cũng là nơi cạnh hay ở ngay trong đình chùa, nơi thờ cúng theo tín ngưỡng của người Hoa. Các chùa đình của người Hoa ở Chợ Lớn là những công trình văn hóa tín ngưỡng đặc sắc có giá trị cao và ngày nay hầu hết đã được nhà nước công nhận là các di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật quốc gia.
Các đình chùa được xây dựng từ các thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Trong các đình chùa có những di sản văn hóa quí giá như chuông đồng, lư hương, tượng đá, gươm giáo, bàn ghế gỗ quí, hoành phi, trang phục,.. từ những thế kỷ 18, 19 và rất nhiều các di vật này là được mang từ Trung quốc sang. Ngay cả vật liệu xây cất, trang trí trên nóc như gạch, gốm men được mang sang Chợ Lớn từ Trung Quốc để xây chùa bà Thiên hậu của bang Quảng Đông.
Các chùa của các hội quán xây kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa là hình ấn, với 4 ngôi nhà liên kết nhau hình chữ nhật tạo thành mặt bằng giống chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ở giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), làm chùa thoáng đãng, có đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương. Bước vào cổng là tiền điện hai bên, rồi trung điện và chánh điện và dãy nhà sau cùng là hậu điện. Dọc hai bên các điện thờ sau cửa vào là văn phòng hội quán. Các hội quán đều có ban quản trị do bang lập nên để quản trị chùa và trường học hay bệnh viện cho bang.
Các chùa của người Hoa ở Chợ Lớn chủ yếu là do các cộng đồng người Hoa ở các bang (tỉnh) vùng Hoa Nam như Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam… thành lập qua các hội quán của mỗi bang. Các hội quán được lập ra để tương trợ những người cùng bang, ngoài ra còn lập ra các trường học kế bên hội quán hay chùa để giáo dục con cái cộng đồng của họ theo chương trình giáo dục của họ. Do đó trong số những hoạt động chính của Hội quán, ngoài liên hệ với chính quyền, là tín ngưỡng và giáo dục.
Người Hoa cần cù làm ăn và giỏi buôn bán, có lợi và làm phát triển nền kinh tế nên người Pháp cần họ ; và qua thuế thân, họ đã đóng góp rất nhiều cho ngân sách hàng năm của chính quyền. Mặc dầu thuế thân trên mỗi người Hoa cao, nhưng điều này cũng không cản trở họ đến Nam Kỳ càng nhiều, nhất là trong các năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 (1).
Sự nhập cư nhiều đến độ một số người Pháp bi quan cho rằng với số lượng nhập cư như vậy thì thuộc địa Nam Kỳ sẽ bị người Hoa tràn ngập. Thành phố Chợ Lớn hầu như là một nơi xa lạ đối với người Âu ở Saigon, họ rất ít khi viếng thăm và nếu có viếng chỉ coi đó là một nơi hiếu kỳ du lịch trong ngày. Tờ báo “L’Opinion” khuyên người Pháp nên đến nơi này tiếp xúc thường hơn.
Dân số Chợ Lớn tăng từ 45,000 năm 1880 lên đến 138,052 năm 1908 (5) trong đó có 155 Pháp, 39 lai, 37 người Âu khác, 72,847 Việt, 507 Minh Hương và số còn lại 64,467 là người Hoa. Thống kê này cho thấy chỉ trong vòng chưa đầy 30 năm, dân số Chợ Lớn đã gia tăng gấp 3 lần.
Hình 1: Saïgon,
Cochinchine 1866 - Vue de la Ville Chinoise (Cholon) –
Thành
phố Chợ Lớn dọc theo kênh Tàu Hủ
- Ảnh Emile Gsell
Thuế
thân cao trên cộng đồng người
Hoa cũng là nguồn gốc của nhiều
sự bất bình của họ
với chính sách kinh tế của người
Pháp. Ngày 9 tháng 2 năm 1897, hơn 300
cu li khuân vác người Hoa đã
tụ tập trước văn
phòng Hội quán Quảng
Đông ở đường
Chaigneau (nay là đường Tôn Thất
Đạm), Saigon gần bót cảnh sát
(4). Họ tụ tập phản đối sự
gia tăng thuế thân. Theo lệnh của Hội
đồng Quản hạt, thuế thân hàng
năm được tăng từ $9.10 lên
$12.50 trên mỗi đầu người(1).
Ông bang trưởng Quảng Đông là
chủ nhà in Namtai(2)
đã cố gắng giải thích làm
nguôi sự giận dữ của các đồng
hương nhưng không thành công. Họ
không nghe ông và cho rằng chính ông,
với tư cách là bang trưởng Quảng
Đông chịu trách nhiệm về sự
tăng giá này vì
ông đã không đứng ra để
bảo vệ quyền lợi của họ.
Mặc cho ông Namtai nói thật ra chính nhà cầm quyền Pháp phải chịu trách nhiệm chứ không phải ông vì ngay chính ông cũng không biết và không được tham vấn về sự tăng giá này, một người trong đám đông đã ném một cái ghế về phía ông và từ đó tất cả mọi người đã nổi loạn. Ông Namtai phải rút lui, ông được một vài người bạn và ba hay bốn cảnh binh bản xứ bảo vệ; các cu li nổi loạn chiếm đóng trụ sở bang; phá bàn ghế, phá tường gỗ ngăn chia phòng. May thay là ông trưởng phòng cảnh binh, lúc đầu còn dè dặt, nhưng đã đến đúng lúc cùng các cảnh binh để tái lập lại trật tự. Nếu không thì nếu ông Namtai rơi vào tay các người nổi loạn, ông ta có thể đã mất mạng.
Báo Courrier de Saigon, một tờ báo bảo thủ, mặc dầu không đồng ý với sự nổi loạn, đã chia sẻ quan điểm của những người nổi loạn. Báo cho là tình trạng thuế thân của những cu li đáng được xem xét lại, vì họ hoàn toàn thuộc giai cấp lao động – một giai cấp làm việc và tạo ra của cải, khác với những quan chức sống bám vào thuộc địa mà không cống hiến một chút gì cho sự tiến bộ và giàu mạnh của Nam Kỳ. Đối với những người cu li, một vài đồng tăng thuế là rất lớn với họ trong cuộc sống mà họ phải tằn tiện từng xu để đủ sống.
Báo Courrier de Saigon cho là nên tăng tiền thuế ngay cả lên đến 200 đồng mỗi năm trên những người Hoa giàu ở Chợ Lớn và miễn thuế cho những giai cấp nghèo người Hoa. Người giàu có thể trả thuế không khó khăn lắm. Như ở Java (thuộc địa Hòa Lan), thuế thân trên người Hoa được chia làm hai loại khác nhau, một cho người giàu và một cho người nghèo.
Khác với đa số người Pháp ở Saigon trước đây có chính sách muốn giới hạn nhập cư và sự làm ăn của người Hoa, ông Paul Beau, toàn quyền Đông Dương thì ngược lại. Ông khuyến khích người Hoa nhập cư và làm ăn thương mại ở Nam Kỳ. Chính sách giới hạn coi người Hoa là người ngoại kiều cần phải kiểm soát gắt gao đã làm người Hoa chỉ nghĩ đến một ngày nào họ sẽ trở về Trung Quốc mang theo của cải mà họ đã gây dựng sau khi đã thành công ở nơi mà họ coi là chỉ sống tạm bợ (2). Chính vì thế mà toàn quyền Paul Beau đã tiếp xúc làm thân với người Hoa, nới lỏng sự quản lý họ và mong muốn có sự hợp tác với người Hoa để làm thuộc địa Nam Kỳ được phát đạt hơn.
Chính sách này đã làm người Hoa lên tinh thần và gia tăng sự mong muốn lấy quốc tịch Pháp của họ. Nhiều người sau khi thành công ở Nam Kỳ đã gắn bó với vùng đất họ ở hơn và làm họ định cư lâu dài, bỏ tiền đầu tư làm lợi cho xứ Nam Kỳ. Với sự khuyến khích của toàn quyền Beau, nhiều thương gia và các người Hoa giàu có đã chung sức bỏ tiền xây dựng ở Chợ Lớn một trường trung học để con cháu họ có cơ hội học chương trình giáo dục của Pháp thay vì gởi con cháu họ đi về Trung Quốc hay sang Nhật để học.
Các đại diện người Hoa và người Pháp của các nhà băng, các công ty Pháp và cơ sở thương mại người Hoa, các phòng thương mại đã nhóm họp và đồng ý trợ giúp tài chánh xây dựng và lập ra một trường cho người Hoa. Toàn quyền Pháp Jean Paul Beau đã đồng ý thành lập trường, vì theo ông Beau nó còn tạo thêm ảnh hưởng văn hóa Pháp vào cộng đồng người Hoa, để cho họ khỏi phải gởi con cái họ đi học ở những nơi khác như Hồng Kông, Thiên Tân hay Nhật Bản (lúc bấy giờ phong trào Đông Du trong cộng đồng người Việt và Hoa rất mạnh).
Trường này được đặt tên là Lycée Franco-Chinois(3), và đã được toàn quyền Beau đặt viên đá khánh thành xây dựng vào năm 1908. Trường trung học Pháp-Hoa Lycée Franco-Chinois đào tạo các kế toán, thư ký, thông dịch, hành chánh… phục vụ trong các cơ sở thương mại, ngân hàng, chuyên chở đường sông biển liên hệ đến chính quyền hay với các công ty Pháp.
Thời đó những người tốt nghiệp trường Lycée Franco-Chinois, vì biết hai hay ba thứ tiếng (Việt-Pháp-Hoa) là trung gian lý tưởng nên rất có giá và thế trong xã hội trong lãnh vực thương mại khắp Nam kỳ lục tỉnh. Họ được người Saigon - Chợ Lớn và Lục tỉnh gọi là “Mái Chín”. Một số truyện của Hồ Biểu Chánh và Bình Nguyên Lộc có nói về các ông Mái Chín. Lycée Franco-Chinois sau này là trường Bác Ái và sau năm 1975 trở thành Trường cao đẳng sư phạm.
(2) Kinh tế, thương mại người Hoa ở Chợ Lớn
Trong số các thương gia tiêu biểu giàu có và nổi tiếng đầu thế kỷ 20 ở Saigon và Chợ Lớn là các ông Tạ Mã Điền, Quách Đàm. Tạ Mã Điền gốc người Phúc Kiến từ Java, thuộc địa Hòa Lan) trong khi Quách Đàm là người gốc Triều Châu từ Trung Quốc, cả hai đến Chợ Lớn lập nghiệp, buôn bán và thành công vượt bực làm chủ các nhà máy xay lúa, địa ốc, các cơ sở làm ăn trong Chợ Lớn trong thập niên 1920. Họ định cư và coi Việt Nam là quê hương thứ hai của họ.
Như nhiều thương gia ở Chợ Lớn, Quách Đàm có liên hệ với các thương gia ở Singapore trong đó có ông Tan Eng Kok (Trần An Quốc). Trong một thông báo đăng trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” ngày 24 April 1923, trang 5 (8), luật sư. A. De Melo, của công ty “Société Thong Hup Nguyen Seng”, và các ông Trần Chiêu Vinh và Quách Đàm (Kwek Tam hay Kwek Siew Tee) đã tuyên bố rút lại các giấy tờ ủy nhiệm quyền đại diện của công ty ở số 80 Boat Quay, Singapore cho ông Trần An Quốc (Tan Eng Kwok) cư ngụ tại số 80 Boat Quay và ở 192 New Bridge Road, Singapore từ các năm 1920, 1921. Công ty Thong Hup (Thông Hiệp) chính là công ty của ông Quách Đàm.
Ngoài tên Kwek Tam hay Kwek Siew Tee, Quách Đàm có thể còn có các tên khác phiên âm qua tiếng Anh. Điều này thường thấy ở người Hoa giàu có, mang các quốc tịch khác nhau như một bài viết trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” (4/8/1899) (9) cho biết là tờ báo “Le Mekong” ở Saigon đã có bài than phiền là nhà chức trách Pháp đã quá dễ dàng cho những thương gia giàu ở Chợ Lớn, Nam Kỳ được có quốc tịch Pháp. Và chính những người này cũng đã có quốc tịch khác như Anh, Hòa Lan với các tên khác. Khi ở Nam Kỳ thì họ dùng quốc tịch và tên Anh để dễ làm ăn và có đặc quyền mà lãnh sự Anh có qui chế cho các kiều dân của họ, và ngược lại khi ở các thuộc địa Anh thì họ dùng tên trên giấy tờ quốc tịch Pháp.
Kinh tế Nam Kỳ chủ yếu dựa vào sản xuất lúa gạo. Người Hoa ở Chợ Lớn hầu như nắm hết các đầu mối thâu mua lúa từ lục tỉnh, chủ các nhà máy xay xát lúa và buôn bán gạo trong nước cũng như xuất khẩu đi các nước. Từ cuối thế kỷ 19 cho đến thập niên 1930s, trong lãnh vực lúa gạo người Hoa ở Chợ Lớn và từ các nước Đông Nam Á không có ai cạnh tranh lại được với họ. Ngay cả người Pháp và chính quyền thuộc địa cũng phải chấp nhận thực tế này.
Hình 2: Một nhà
máy xay lúa ở Chợ Lớn đầu
thế kỷ 20
– Carte Postal do nhà nhiếp
ảnh Planté sản xuất
Năm 1923, Martial Merlin được chính phủ Pháp, qua bộ trưởng thuộc địa Albert Sarraut, cử làm toàn quyền Đông Dương đi trên tàu hơi nước André Lebon của hãng Messagerie Maritime đến Đông Dương nhậm chức. Một trong những chính sách mà ông Merlin dự định thực hiện là làm dễ dàng, tạo cơ hội kinh doanh và khuyến khích người Pháp cạnh tranh với người Hoa để lấy lại thế thượng phong trong nền kinh tế ở Nam Kỳ.
Ngày 10/8/1923 tàu đến Saigon. Sau khi được ông Badouin, ủy nhiệm toàn quyền, thống đốc Nam Kỳ Cognacq và thị trưởng Saigon, ông Thorance đọc diễn văn đón tiếp ở bến Bạch Đằng, Merlin bắt đầu ngay chương trình làm việc. Ông tham quan các cơ sở kinh tế, kỹ nghệ ở Nam Kỳ, đặc biệt là cao su, dầu dừa, dầu cọ mà ông có kinh nghiệm ở Tây Phi và lúa gạo.
Ngày 16/8/1923, Merlin viếng đồn điền cao su Suzannah và Auloc (gần ngã ba dầu Giây, Đồng Nai ngày nay) và xưởng làm cao su trong đồn điền. Sau đó ông viếng đồn điền trồng dừa và cây cọ để làm dầu.
Qua sự quan trọng của sự sản xuất xay xát lúa gạo của người Hoa ở Chợ Lớn, ngay ngày hôm sau, Merlin đến thăm các nhà máy xay lúa của hai người Pháp, ông Ranzay và Ville. Nhưng ông cũng dư hiểu là hầu như toàn bộ cơ sở sản xuất xay lúa gạo và nguồn thu lúa từ Lục Tỉnh là nằm trong tay người Hoa ở Chợ Lớn. Ở Chợ Lớn, Merlin cũng viếng một cơ sở kinh tế duy nhất mà công ty quốc doanh người Pháp chiếm lĩnh, đó là hãng rượu trên đường Gò Công.
Sở dĩ được như vậy là vì chính quyền Pháp độc quyền sản xuất rượu (rượu đế làm từ gạo), cấm tư nhân sản xuất và là nguồn lợi tức rất lớn cho ngân sách ở thuộc địa Đông Dương, nhưng chính những độc quyền như rượu, thuốc phiện, muối cũng là nguyên nhân gây bất mãn của người dân. Merlin sau đó đến viếng cơ sở sản xuất bia la ve (la bière) của một người Pháp, ông Larue. Bia thì chính quyền không có độc quyền. Ông Larue sản xuất các loại bia nổi tiếng như bia con cọp, sau này xuất cảng đến nhiều nơi ngoài Đông Dương. Thương hiệu bia Larue con cọp hiện nay được sản xuất lại ở Việt Nam.
Dù có nhiều cố gắng người Pháp cũng đã không cạnh tranh và phá nổi hệ thống kinh doanh buôn bán, phân phối lúa gạo của người Hoa ở Chợ Lớn và lục tỉnh. Ta có thể thấy một trong những thất bại này là hiệu quả kinh tế của đường xe lửa Saigon - Mỹ Tho với chuyên chở đường thủy ở Nam Kỳ.
Đường xe lửa Saigon - Mỹ Tho được xây dựng trong chương trình dự định xây dựng đường xe lửa nối Saigon và các tỉnh thành miền Tây đến Phnom Penh. Tuy vậy ý định xây đường xe lửa đến Phnom Penh bị bỏ đi, mà chỉ xây đoạn đường từ Saigon đến Mỹ Tho, hoàn thành vào năm 1885. Một trong những mục đích xây dựng đường xe lửa này là giảm đi sự quan trọng của giao thông chuyên chở lúa gạo, sản phẩm kinh tế quan trọng nhất ở miền Tây qua đường sông rạch mà người Tàu nắm phần lớn trong tay.
Hình 3: Ga xe lửa Chợ Lớn, trước Chợ cũ (nay là vị trí bưu điện Chợ Lớn)
Theo báo The Straits Times ngày 18/06/1902 thì để khuyến khích tư nhân đầu tư vào công trình xây dựng đường xe lửa này chánh quyền Pháp đã hứa cổ phần đầu tư sẽ được lãi 5% một năm, tuy nhiên sau một thời gian hoạt động sự chuyên chở lúa gạo qua đường hỏa xa đã không thành công (chỉ chuyên chở chưa đến 20 tấn từ khi hoạt động) mà chỉ phổ thông được đến giới hành khách đi lại giữa Saigon và các tỉnh miền Tây. Lý do vì giới thu mua lúa, chủ nhà máy xay lúa và điền chủ đã không thấy sự thuận lợi hơn với thuyền bè cặp thẳng ở nơi thâu mua và chuyển đến ngay nhà máy cạnh sông rạch ở Chợ Lớn và dĩ nhiên người Hoa đã không bỏ đi cái lợi thế của họ. Vì vậy, không có khách hàng lớn, đường xe lửa không còn kinh tế lắm so với dự kiến ban đầu và chính phủ đã phải chi ra thêm để trả cho sự thiếu hụt tiền lợi nhuận cho các cổ phần như đã hứa lúc đầu và chi phí này sẽ còn liên tục vô thời hạn trong nhiều năm.
Đó là một lý do toàn quyền Paul Doumer đã cố gắng cắt giảm chi phí ngân sách Đông Dương trong nhiệm kỳ của ông. Ông đã sa thải nhiều quan chức, nhân viên không đủ năng lực và dĩ nhiên điều này đã gây cho ông một số kẻ thù trong bộ máy chính quyền thực dân. Khi ông hết nhiệm kỳ, lúc tiễn đưa ông lên tàu hơi nước trở về Pháp, với sự hộ tống quân sự trong ánh đèn vào lúc 3 giờ sáng, đường đi đến cầu tàu để lên tàu hơi nước có rất nhiều kẻ thù của ông đã đợi ở đó để dàn chào và ông đã được "tiếp đón nồng nhiệt” với nhiều tiếng huýt gió, kèn, etc. át đi tiếng nhạc của dàn nhạc quân sự đang hiện diện ở đó. Cũng có một tin đồn là sẽ có người ám sát ông khi ông rời Đông Dương và vì thế chủ bút của một trong những tờ báo hàng đầu đã bị an ninh theo dõi trong nguyên ngày, ngày mà ông Doumer rời Đông Dương trở về Pháp (18).
(a) Cạnh tranh kinh tế giữa Pháp và người Hoa
Lúc người Pháp chiếm Saigon và Nam Kỳ trong các thập niên 1860s và 1880s, vì không đủ lực lượng để trồng, sản xuất và phân phối thuốc phiện, một nguồn lợi lớn cho chính quyền, họ đã khoán cho người Hoa đặc quyền lập các trại trồng và sản xuất thuốc phiện. Như công ty Vạn Hòa (Ban-Hap) của ông Nhan Vĩ Thiên, một người Hoa Singapore ở vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlement) đã đã được cho khoán độc quyền sản xuất và phân phối thuốc phiện ở Nam Kỳ và ở vương Quốc Cam Bốt. Sau này vào đầu thập niên 1890s, chính quyền thuộc địa Pháp lấy lại độc quyền và lập công ty chính phủ sản xuất và buôn bán thuốc phiện (gọi là régie d'opium. R.O). Cũng vậy chính quyền độc quyền sản xuất rượu qua công ty (régie d'alcohol, R.A), cả hai công ty này đều thuộc quản lý của cơ quan "Administration des douanes & régies".
Qua sự độc quyền sản xuất thuốc phiện, cấm tư nhân sản xuất hay nhập trái phép thuốc phiện, và để bảo vệ độc quyền sản xuất thuốc phiện, chính quyền Pháp có giải thưởng cho những ai báo tổ chức hay cá nhân nào buôn bán thuốc phiện lậu bị bắt. Một số người Hoa đã dùng một phương pháp chơi khăm lại người Pháp. Báo "The Straits Times" ngày 19/5/1899 đã đăng như sau (17):
"Người ta cho rằng các cuộc buôn lậu thuốc phiện trên các tàu chạy hơi nước từ Trung Quốc đến Saigon là do người Hoa cố tình dấu thuốc phiện ở trong một vài bộ phận trên tàu để rồi sau đó nhận lấy phần thưởng ở cảng Saigon. Một nhóm của họ ở Saigon báo cho cảnh binh, làm hàng thuốc phiện bị lộ, bị tịch thu và thuyền trưởng của tàu chuyên chở bị phạt tiền. Nhóm người Hoa âm mưu này sau đó chia nhau số tiền thưởng, người chỉ điểm nhận được từ 1500 đồng đến 2000 đồng cho mỗi lần như vậy. Số lượng thuốc phiện lúc nào cũng nhỏ, nhưng cũng vừa đủ để hệ thống xử phạt được thi hành."
Thật là một phương pháp tinh vi và khôn ngoan, đã qua mặt được người Pháp nhiều lần trước khi bị nghi ngờ và cũng không làm gì được vì không có bằng cớ. Nên nhớ thời đó số tiền 1500 đồng là rất lớn (giá một trăm kilo gạo là 3 đồng và giá vàng khoảng 40 đồng một lượng).
Sự hà khắc trong chính sách độc quyền rượu, muối, thuốc phiện cộng với sự tăng thuế như thuế thân sau khủng hoảng kinh tế 1929 đã đưa đến sự bùng nổ nổi dậy ở khắp Việt Nam. Khởi đầu là sự nổi dậy, biểu tình của các nông dân, công nhân ở nghệ An và Hà Tĩnh vào tháng 3 năm 1930 và sau đó rải rác lan qua nhiều nơi khác ở Nam kỳ. Ở Chợ Lớn, đầu tháng 6.1930 khoảng 2000 người biểu tình chống chính sách của chính quyền Pháp. Ở Đức Hòa (thuộc tỉnh Chợ Lớn, nay thì thuộc tỉnh Long An), nhân dân biểu tình và tấn công vào trụ sở huyện, cảnh binh đã nổ súng làm 2 người chết và 6 bị thương. Ở Bà Hom (tỉnh Chợ Lớn, nay thuộc tỉnh Long An), hàng trăm người biểu tình đã chạm trán với cảnh binh, gây ra hệ quả 1 người bị chết và 5 bị thương (16).
Mặc dầu đã đàn áp dã man các cuộc nổi dậy năm 1930, nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh (còn được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh), để làm dịu đi tình hình căng thẳng khắp nơi chính quyền Pháp qua viên toàn quyền Đông Dương, Pasquier, cũng bị bắt buộc phải nhận ra một trong những nguyên nhân của phong trào nổi dậy là do thuế bóc lột hà khắc. Pasquier tuyên bố là thuế ở các tỉnh và làng xã vào năm 1930 thật ra ít hơn năm trước và thuế thân cũng đã giảm đi hơn phân nửa. Nhưng điều này đã không làm ai tin. Cũng như cách mạng độc lập ở Mỹ khởi đầu qua sự chống thuế do người Anh áp đặt thì chế độ thực dân Pháp cũng bắt đầu cáo chung qua sưu thuế khắc nghiệt vào tầng lớp nhân dân ở Việt Nam.
(b) Chợ Lớn trở thành một thành phố người Hoa có thế lực trong thế giới Hoa kiều
So sánh các cơ sở hoạt động văn hóa người Hoa ở các thành phố người Hoa hay khu phố Tàu (Chinatown) trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Bankgkok, Kuala Lumpur, Hong Kong thì ta có thể nói thành phố Chợ Lớn hơn hẳn về số lượng, bề thế, giá trị mỹ thuật và lịch sử của sự hoạt động liên tục lâu đời khi người Hoa đến định cư.
Chợ Lớn nổi tiếng là một thành phố của người Hoa ở Nam Kỳ và trong vùng Đông Nam Á nên đã có nhiều kiều dân của nhiều nước đến thăm. Tờ Straits Times Overland Journal (13) trích lại từ báo "Independant de Saigon" cho biết cựu tổng thống Mỹ (và tướng thắng trận trong nội chiến Bắc-Nam) Ulysses Grant, đã đến viếng Saigon - Chợ Lớn ngày 25 tháng 4 1879 trên đường đi viếng thăm Trung Quốc.
Cựu tổng thống Grant đến cảng Saigon trên chiếc tàu có tên là Iraonaddy và được toàn quyền Nam Kỳ đón tiếp trọng thể. Ngày hôm sau, 26 tháng 4, Grant và đoàn tùy tùng cùng với Đề đốc Lafont đến viếng Chợ Lớn và ngay đêm đó dự yến tiệc ở Dinh toàn quyền. Ngày 27/4/1879, Grant lên đường sang Hong Kong. Chính phủ Trung quốc dưới triều Thanh mong đợi tiếp đón cựu tổng thống Mỹ nhất là đại thần và tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Hồng Chương, nhà cải cách hiện đại hóa hải quân Trung Quốc đọc và hâm mộ tài của tướng và cựu tổng thống Mỹ, Ulysses Grant.
Năm 1890, một phái đoàn các tàu quân sự của triều đình nhà Thanh thăm các nước vùng biển Nam hải năm 1890. Đến Saigon - Chợ Lớn ngày 26/3/1890, đoàn thăm vài ngày rồi sau đó đoàn đi qua Singapore và Phi Luật Tân. Theo ký sự của một người Hoa Phúc Kiến tên là Trần Tú Vinh từ Batavia (thuộc địa Hòa Lan) ở Java, "Vãng An Nam Nhật ký" khi ông ghé Saigon - Chợ Lớn thì có một đoàn tàu quân sự Trung Quốc đến thăm cảng Saigon (11). Các tàu này mua từ nước Đức vào năm 1887. Phái đoàn nhà Thanh đã đi thăm thành phố Chợ Lớn nơi có nhiều kiều dân của họ trú ngụ.
Vào đầu thế kỷ 20, có từ hai mươi đến ba mươi gia đình người Hoa ở Malacca và Singapore làm việc và cư trú tại Chợ Lớn, phần lớn trên đường Phúc Kiến, vì thế đường này được họ gọi là “đường Baba” (rue des Baba). Baba là tên những người Hoa ở vùng Strait Settlement (Singapore và Malaysia) tự gọi họ. Qua sự liên hệ thương mại giữa người Hoa ở Chợ Lớn và các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Hong Kong, ta cũng không lạ gì nhiều nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn nhập máy xay bằng hơi nước hiệu “Barley Mill” từ Anh qua Singapore hay Hong Kong mặc dầu có sự phàn nàn từ người Pháp do không mua máy của Pháp. Các thương gia nổi tiếng người Hoa từ Singapore là ba anh em Tan Keng Ho (Trần Khánh Hòa), Tan Keng Hoon (Trần Khánh Vân), Tan Keng Sing (Trần Khánh Tinh) và ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) đều có nhà máy xay lúa hay phần hùn trong đó.
Người Pháp gọi ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) bằng tên Ban-hap (Vạn Hòa). Vạn Hòa là tên công ty mà ông Wee Tin lập ra ở các tỉnh miền Nam trồng và buôn bán thuốc phiện, lúa gạo trong các năm ở thập niên 1850, trước khi người Pháp đến. Công ty Vạn Hòa sau đó làm ăn phát đạt mở rộng đến Cam Bốt với các đặc quyền từ vua nước này cho phép trồng, sản xuất thuốc phiện năm 1869 và ở Nam Kỳ năm 1869 được chính quyền Pháp tiếp tục cho phép độc quyền mặc đầu bị sức ép của các thương gia và công ty Pháp muốn cạnh tranh ở Cam Bốt. Ban-hap còn có độc quyền ở Cam Bốt sản xuất bán vé số, mở các tiệm cầm đồ, sòng cờ bạc, trại nuôi và bán thịt heo.
Ông Trần Khánh Hòa cũng thành công và có thế lực kinh tế không kém ông Vạn Hòa. Ngày 8/7/1869, đề đốc Ohier đổi tên Ủy ban thành phố (Commission municipale) mà trước đó vào năm 1867 thống đốc de la Grandière đã thành lập sau khi Pháp vừa chiếm Sài Gòn, thành tên chính thức Hội đồng thành phố Sài Gòn (Conseil municipal de la ville de Saigon), gồm 1 thị trưởng và 13 hội đồng viên với nhiệm kỳ 2 năm (7 người được bầu và 6 người được thống đốc chọn), trong đó có Trương Vĩnh Ký và Tang keng Ho (Trần Khánh Hòa). Đây là Hội đồng thành phố đầu tiên của Sài Gòn.
Chợ Lớn là nơi tập trung các doanh nhân, kỹ nghệ gia, các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp và trở thành trọng tâm trong quyền lực kinh tế ở Nam Kỳ, trong khi Saigon là thủ phủ của quyền lực chính trị. Năm 1922, thống chế Pháp Joffre thăm Nam Kỳ trên đường viếng thăm nhiều nước, ông đã được chiêu đãi ở Saigon và nhưng ngay ngày hôm sau ông đi thăm quan làm việc ở Chợ Lớn. Ông đã gặp và tiếp các chức sắc ở Chợ Lớn, thể hiện sự quan tâm của người Pháp đối với cộng đồng người Hoa ở nơi này.
Hình 4 – Năm
1922, thống tướng Joffre đặt viên
bù lon đầu tiên xây trạm
điện
tín ở Chợ Lớn nối Đông
Dương với Pháp qua trạm điện
tín ở tháp Eifffel
Sự lớn mạnh của cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn về kinh tế đã làm họ tự tin hơn đối với chính quyền Pháp và cả với bên ngoài. Tháng 11 năm 1932, một phái đoàn của Phòng Thương mại người Hoa ở Chợ Lớn (Chinese Chamber of Commerce, Cholon) đã đi qua Cộng Hòa Trung Quốc gởi kiến nghị đến Bộ trưởng ngoại giao đề nghị sửa đổi bảng liệt kê các hàng hóa Trung Hoa mà Hòa ước Pháp-Thanh cho phép có thuế thấp ở Đông Dương, và đồng thời mở cuộc thương lượng với chính quyền Pháp để bãi bỏ thuế thân và các loại thuế khác ảnh hưởng đến kiều dân Trung Hoa đang sống ở Đông Dương (20).
Nhiều người trong số người Hoa đã định cư từ trước thời Pháp thuộc và một số các người Hoa mới nhập cư, ngoài hoạt động kinh tế họ cũng có hoạt động chính trị trong hội kín Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh hay trong phe cộng hòa dân quốc. Như trong vụ biến khởi nghĩa Phan Xích Long, phong trào khởi nghĩa chống Pháp này được hậu thuẫn của nhiều người Hoa trong Thiên Địa hội ở Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây.
(3) Đời sống chính trị, xã hội ở Chợ Lớn
(a) Hội kín Thiên Địa Hội
Cũng như những kiều dân khác, Người Hoa di cư làm ăn sống ở nước ngoài thì họ cũng có quan hệ với đời sống văn hóa, kinh tế và chính trị ở Trung Quốc. Ở miền nam Trung Quốc từ cuối thế kỷ 18, phong trào Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh đã theo gót các di dân người Hoa đến các nước Đông nam Á nảy nở trong cộng đồng người Hoa. Thiên Địa Hội chống nhà Thanh đã để Trung Quốc lụn bại, một triều đình tham ô thối nát đã để các nước phương Tây hà hiếp lợi dụng sự yếu kém của Trung Quốc. Những người theo Thiên Địa hội vì thế chống lại những người Tây Dương ở Trung Quốc và thực dân ở các xứ họ sinh sống.
Tổ chức Thiên Địa Hội là một hội kín bí mật và ở Chợ Lớn nó phát triển mạnh đa số trong giới những người nghèo khổ. Mặc dầu bí mật nhưng bị theo dõi, nên đôi khi đã có những vụ bắt bớ lớn xảy ra. Như đêm ngày 17/09/2898, ở Bến Bình Đông, Chợ Lớn, một buổi họp diễn thuyêt có tới 300 đến 350 người tham dự, đã bị lộ (14)
“Ông Ancel, trưởng ti cảnh sát Chợ Lớn, đã nhanh chóng đến nơi hội họp, và khám phá có từ 300 đến 350 người Hoa trong một kho chứa hàng, các cánh cửa đã đóng khóa và có một người đang diễn thuyết trong đám đông. Các cửa đã được phá, nhưng ông trưởng ty cảnh sát người Âu chỉ có mười lăm cảnh sát đi theo, ông ta không thể giải tán và bắt được ai. Thực ra thì cảnh sát đã bị dẹp giãn ra và ngay cả chính ông Ancel xuýt bị thảy xuống kênh dọc theo con đường ở bến Bình Đông. Điện thoại được dùng để báo tiếp viện và một chốc sau một trung đội cảnh sát đến, bao vây khu nhà kho, và phải mất hơn hai tiếng trước khi trật tự được lập lại...”
Bảy mươi bốn người theo Thiên Địa Hội bị bắt giam. Sau đó họ bị giải về Saigon và bị Toàn quyền Nam Kỳ tuyên án đày ra Côn Đảo hai năm và sau khi mãn hạn sẽ bị trục xuất về Trung Quốc. Cảnh sát chìm sau đó đã theo dõi nhóm Thiên Địa hội và một số biểu ngữ bằng chữ Hoa đã bị tịch thu trong số đó có biểu ngữ bàn vấn đề thuốc phiện và hô hào người dân chống thuế thân.
Một biểu ngữ đã được tìm thấy trên cửa một tòa nhà công cộng ở Saigon có nội dung như sau:
“Anh em ở xứ An Nam
Chúng tôi trước đây đã lâu ước mong gởi đến những lời sau đây đến các anh em, nhưng vì tình hình chưa chin mùi nên chưa có dịp. Ở Trung Quốc người nghèo bị quan đàn áp, chúng cướp của người nghèo dưới vỏ bọc và che chở của hoàng đế ở Bắc Kinh. Từ lâu triều đại Mãn Châu đã đàn áp dân Trung Hoa. Triều đại này phải bị thay thế bởi triều đại của người Hoa.
Chẳng bao lâu tướng lãnh của chúng ta sẽ đi qua các lãnh thổ đứng đầu quân đội của nhân dân để dẹp sạch các tên chính quyền cướp bóc, chúng đã uống máu của chúng ta và đã để bọn quỉ tây dương (người Âu) chiếm đất, phố, nhà, tài sản của chúng ta. Bởi vì chính phủ điên khùng ở Bắc Kinh đã bán đất nước Trung Quốc cho bọn quỉ tây dương để lấy tiền bạc mà ai ai cũng biết.
Chẳng bao lâu bọn quỉ này sẽ đông đảo hàng ngàn đến nô lệ hóa chúng ta như chúng đã làm với bọn heo An Nam. Hảy sẵn sàng khi tiếng trống báo hiệu đầu tiên của chùa Hoàng Sơn (Houn San), để biết lúc đó là tổng khởi nghĩa ở Trung Hoa và các anh em cũng phải tiến lên. Hãy sửa soạn võ khí và các biểu ngữ và tấn công vào các bọn quỉ ghê gớm này nếu không chúng sẽ biến các anh em thành nô lệ.
Tất cả những thương gia buôn lúa gạo người Hoa, và các thương nhân ở Saigon và Chợ Lớn là bọn hèn nhát và ăn cắp. Chính chúng là những tên thông thương với bọn Kouai (quỉ tây dương). Giết chúng như con chó vì chúng bán đứng những người anh em của chúng”
(b) Luật pháp và tội phạm
Chợ Lớn là thành phố của lưu dân từ thuở ban đầu, nơi tụ họp của nhiều sắc tộc khác nhau: người Việt, Minh Hương, Quạn, Tiều, Hẹ, Hải Nam,.. và cho đến đầu thế kỷ 20 người Hoa từ Hoa Nam tiếp tục di cư xuống Nam Kỳ và các nước khác ở Đông Nam Á từ các thành phố cửa khẩu như Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn,..
Qua sự nhập cư của nhiều thành phần xã hội, mà đa số là siêng năng làm ăn thành công trong kinh tế xã hội nhưng cũng có nhiều hội kín băng đảng phạm vào các tội hình sự. Một trong những vụ án gây tăm tiếng là vụ cướp tàu Pelican của chủ một công ty giàu có ở Chợ Lớn vào năm 1876.
Tờ “The Straits Times” ở Singapore (6), cũng như nhiều tờ báo nước ngoài như “Sydney Morning Herald” và “London and China Telegraph” đã đăng tin, viết lại theo tin từ báo "L'Independant de Saigon" (Saigon Độc lập) thì câu chuyện đã xảy ra như sau:
“Tàu hơi nước Pelican (4) là tàu chở khách từ Chợ Lớn đi Phnom Penh. Vào sáng ngày 24 tháng 3 năm 1876, tàu rời Chợ Lớn đi Phnom Penh với 10 nhân viên và 20 hành khách. Tất cả đều là người Tàu. Khi tàu ở vị trí giữa Mỹ Tho và Vĩnh Long vào lúc nửa đêm thì 4 hành khách trang bị dao và rìu đã tấn công người lái tàu và quăng ông xuống sông.
Sau đó họ chạy lên phòng nơi thuyền trưởng và một thương gia giàu ở Sa Đéc đang ngủ. Bọn cướp xông vào và giết cả hai người. Theo tin được biết thì 4 tên cướp có thể được một người thợ máy tay trong giúp đỡ, và người thợ máy này đã giết thợ máy trưởng. Điều này có cơ sở vì nếu không có người thợ máy thì 4 tên cướp không thể điều hành được máy tàu.
Sau đó các hành khách đang ngủ bị tấn công. Mười hành khách, trong số đó có vài người bị thương, đã bị quăng xuống nước, nhưng may mắn đã bơi được vào bờ. Số còn lại nhân viên và hành khách khác thì mất tích, trừ hai xác được tìm thấy trên sông, một xác bị mất đầu và không còn nhận diện được và một là của nhà thương gia giàu ở Sa Đéc.
Những kẻ cướp sau đó cướp phá tàu và đánh chìm tàu ở cửa sông Mỹ Tho. Tàu pelican chở khá nhiều hàng hóa và có nhiều bạc và vàng lá; trị giá khoảng từ 20,000 đến 25,000 đồng. Ngay khi nhận được tin ở Saigon, chính phủ gởi ngay hai tàu trang bị vũ khí đến hiện trường của vụ thảm sát, với một chút hy vọng bắt được bọn cướp tàu và lấy lại được tài sản bị cướp. Những người chủ của tàu hơi nước Pelican đã tuyên bố thưởng 500 đồng cho ai cung cấp bất cứ thông tin nào có thể dẫn đến bắt được các kẻ cướp” .
Hình 5 - Tòa đô chính thành phố Chợ Lớn (Dinh Xã Tây, Chợ Lớn) - cạnh bên Văn phòng Tham biện (Bureau de l'Inspection) và Nhà của Tham biện tỉnh Chợ Lớn (Logement de l'Inspecteur de la Province de Cholon) trong khuôn viên giữa hai đường Nguyễn Trãi và Hồng Bàng. Ngày nay tất cả các tòa nhà này không còn sau khi đường Tản Đà từ kênh Tàu Hủ chạy lên xuyên qua khuôn viên nối hai đường Nguyễn Trãi và Hồng Bàng.
Những kẻ cướp tàu hơi nước Pelican sau đó đã bị bắt, mang ra tòa án ở Chợ Lớn và hình phạt là tử hình. Theo tờ báo “The Straits Times” ở Singapore thì tàu Pelican là của người Anh. Như vậy chủ tàu này ở Chợ Lớn là người có quốc tịch Anh, có thể là một Hoa kiều từ Singapore hay Mã Lai.
Vì Nam kỳ là thuộc địa, nên luật hiện hành ở Pháp được áp dụng. Lúc bấy giờ thì tội phạm nếu bị án tử hình thì phải có chữ ký của tổng thống Pháp chấp ký. Vì thế nhiều khi phải mất vài tháng gởi đi và nhận được thì mới có thể thi hành án.
Tờ “The Straits Times” đã tường thuật lại theo báo “L'Independant de Saigon” về buổi hành hình ở trên cầu bắc ngang con kênh đối diện với chợ Chợ Lớn (bưu điện Chợ Lớn ngày nay) như sau (23)
“Thứ Hai, ngày 2 tháng 6 1876, những kẻ chủ mưu vụ án hình sự kinh sợ trên tàu Pelican đêm ngày 24 tháng 3 vừa qua, đã chịu hình phạt xử chém.. Nhà chức trách không thể được quá khen ngợi về những biện pháp lập trật tự và an ninh vào buổi sáng ngày hành hình. Một giàn đầu đài đã được dựng lên ở giữa cầu đối diện với chợ Chợ Lớn. Từ lâu trước giờ hành hình, các vùng chung quanh cầu có nhiều ngàn người tụ tập, người Hoa, người Ấn, người Việt và nhiều người Âu cũng có mặt để xem hành hình tội phạm. Đúng sáu giờ rưỡi sáng, tiếng trống được nghe nổi lên báo cho biết là tội phạm đang được đưa đến, chung quanh các tội phạm là một đội lính mã tà và mỗi tội phạm đều mang trên cổ một ổ xích khóa. Các tội phạm được đưa lên giàn đầu đài và bị bắt quỳ gối. Người Hoa tên Atai, là kẻ cầm đầu chủ mưu vụ án mạng trên tàu Pelican, được đặt ở giữa, xa một ít với các tội phạm khác; các xích khóa được tháo ra và cổ mỗi tội phạm đã được hớt hết tóc. Một đội lính thủy đóng ngay đầu cầu với lưỡi lê đã được gắn vào súng. Ở chợ là một đội cảnh sát cỡi ngựa; và các lính mã tà đứng xếp hàng hai bên cầu.
Tất cả các cửa sổ và ban công của các nhà chung quanh đều có người chen chúc xem. Vào lúc 7 giờ kém 15, người đao phủ chính và người trợ giúp đao phủ rút từ bao đựng kiếm đồ nghề mà họ đeo ở lưng. Đôi mắt của hai tội phạm được băng che lại. Người ta thấy một ánh gươm sáng, nghe tiếng chém và hai đầu máu lăn trên đầu đài đã được rải mạt cưa. Một vài giây sau đó, hai đầu nữa rơi kế tiếp. Atai, kẻ đứng đầu các tội phạm giết người, là người cuối cùng, hắn dõng dạc và không chịu bị bịt mắt. Đầu của Atai, giống như bốn tội phạm trước, bị chặt khỏi người bởi một nhát kiếm. Người đao phủ núm tóc của đầu và giơ lên để cho người đến xem thấy. Hai trong các tội phạm, đã theo đạo, mỗi thi thể được đặt trong một quan tài, trong khi ba người kia thì thi thể được khiêng quăng vào xe sau đó chở đi.”
(c) Y tế và
văn hóa: Vai trò của thuốc đông
y ở Nam kỳ
từ thế kỷ 19 đến
giữa thế kỷ 20 - Nhà thuốc Nhị
Thiên Đường
Quảng Đông Nhị Thiên Đường (廣東二天堂) hay Yee Tin Tong. Đây là hiệu thuốc của người Quảng Đông có mặt nhiều nơi ở Đông Nam Á như ở Singapore, Mã Lai, Việt Nam nơi có nhiều người Quảng Đông định cư.
Ở Việt Nam, Nhị Thiên Đường có mặt đầu tiên và phát triển mạnh là ở Chợ Lớn. Sau đó có mặt ở khắp Đông Dương như Phnom Penh, Hà Nội trong phố Hàng Ngang (số 23) vào các thập niên 1930-1940, các chi nhánh ở Saigon, nhiều thành phố khác như Hội An và các tỉnh miền Nam. Một trong những thuốc bán chạy của Nhị Thiên Đường là “ngoại cảm tán” trị các bệnh cảm. Ngoài ra là dầu gió “Nhị Thiên Đường”.
Ngoài Nhị Thiên Đường ở Chợ Lớn còn có các hãng thuốc đông y khác như Đại Quang Dược Phòng cũng có nhiều đại lý ở các nơi khác như Hà Nội, các tỉnh miền Nam. Địa chỉ các cơ sở nhà thuốc, chi nhánh và hội quán người Hoa ở Chợ Lớn theo niên giám Đông Dương 1933-1934 (7)
(1) Nhị Thiên Đường
Pharmacie asiatique
47 rue de Canton, Telephone no 58
Directeur Vi-Khai
Chợ Lớn
Nhị Thiên Đường
Pharmacie asiatique
96 rue de Praire, Telephone no.
142
Phnom Penh
(2) Đại
Quang Dược Phòng
Pharmacie indigene
27 Boulevard Tong Doc Phuong,
Telephone no. 19
Chợ Lớn
Đại Quang Dược
Phòng
Pharmacie chinoise
47 rue du Sucre, Telephone no.
805, Hanoi
Qua sự thành công của dầu Nhị Thiên Đường, sau này người Việt cũng bắt chước sản xuất và buôn bán thuốc và dầu Nhị Thiên Đường.
Trong các sách quảng cáo thuốc của Nhị Thiên Đường ở Chợ Lớn, đôi khi có kèm theo các truyện tiểu thuyết như trong cuốn Vệ sanh chỉ nam xuất bản năm 1919 có truyện “Nghĩa Hiệp kỳ duyên” (Chăng Cà Mun), kim thời tiểu thuyết của tác giả Nguyễn Chánh Sắc. Đây là tiểu thuyết viết theo phong cách tiểu thuyết Tây phương và tình tiết éo le của Tàu (Trung Hoa) rất ăn khách, phổ thông có tiếng khắp miền Nam vì có tính chất xã hội, hấp dẫn ly kỳ và phiêu lưu lấy khung cảnh xảy ra vùng biên giới Việt Miên ở Tân Châu, Châu Đốc. Sự ra đời của “Nghĩa hiệp kỳ duyên” hay người đời gọi là Chăng Cà Mun (tên nhân vật chính) đánh dấu một hướng đi mới trong văn chương quốc ngữ đầu thế kỷ 20 trong văn học miền Nam.
Các sách quảng cáo của các nhà thuốc Như Nhị Thiên Đường thường đăng các truyện để thu hút khách hàng và các tác giả khi đó cũng chưa có nơi in sách. Nhà văn Tô Hoài trong Tập tự truyện, có nói ông có “đọc truyện ‘Gương vỡ lại lành’ và vở cải lương ‘Kiều đi Thanh Minh’ in trong sách quảng cáo của các nhà thuốc Nhị Thiên Đường, Đại Quang dược phòng.”. Các sách này không bán ở các nhà sách mà bán ở nhiều nơi như bến xe, bến phà, các nơi bình dân bán rẻ có vài cắc (1 đồng là 10 cắc). Nhà phê bình Thiếu Sơn trong “Phê bình và cảo luận (1933)” có nói ông lần đầu đọc truyện của Hồ Biểu Chánh là trong sách quảng cáo của Nhị Thiên Đường.
Ngày nay Nhị Thiên Đường chỉ để lại một địa danh ở Chợ Lớn là cầu Nhị Thiên Đường, sở dĩ cầu được gọi vậy là trước đây gần đầu cầu có nhà thuốc sản xuất dầu Nhị Thiên Đường nên người dân gọi như vậy.
(d) Thiên tai và hỏa hoạn ở Chợ Lớn
Vì dân số tập trung nhiều ở Chợ Lớn so với Saigon và nhà cửa xây không qui hoạch như ở Saigon nên Chợ Lớn đã xảy ra nhiều tai nạn hỏa hoạn do sự bất cẩn con người gây ra từ dầu hỏa và kerosene. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, dầu hỏa và dầu kerosene được dùng để thắp sáng ban đêm khi đèn điện chưa có hay chưa được dùng nhiều. Nam Kỳ nhập dầu và lúa mì chủ yếu là từ Hoa Kỳ.
Ngay ở Hội quán Quảng Đông ở chùa Bà cũng đã có một đội cứu hỏa riêng được thành lập để chửa cháy với một số các thiết bị hiện nay vẫn còn giữ và trưng bày ở hội quán.
Ngày 18 Feb 1869, hỏa hoạn ở Chợ Lớn, cảnh sát, binh lính phải ra sức dập tắt được đám cháy trong vòng 20 phút (3). Ngay ở khu thương mại chính của Chợ Lớn trên đường Rue de Canton (đường Triệu Quang Phục ngày nay), hỏa hoạn đã xảy ra do bất cẩn ngày 3 tháng 3.1898, kéo dài 3 tiếng đã đốt cháy 14 căn nhà, thiệt hại tài sản nặng nề, tuy nhiên vì ở trong khu thương mại, một số cơ sở có được bảo hiểm (19).
Ngoài ra còn có các thiên tai như bão. Tờ “Daily Advertiser” ở Singapore cho biết là ngày 10 tháng 7.1892, khoảng 3 giờ chiều bão tàn phá Chợ Lớn. Không nhà nào còn nguyên, ngay cả các nhà gạch chắc chắn cũng không chống lại cơn bão, mặc dầu vậy chỉ có một số ít bị tử vong. Có thể đó là nhờ các vật liệu xây nhà là vật liệu nhẹ. Tổng cộng có khoảng 18 chết và 40 đến 50 bị thương (12).
Một tờ báo khác cho biết chi tiết hơn về một trận bão gió xoáy rất hi hữu hiếm có ở Việt Nam (10)
“Một trận cuồng phong, đã xảy ra ở Chợ Lớn vào ngày Chủ Nhật ngày 10 tháng 7 năm 1892. Vào chiều ngày hôm đó, như những ngày trong mùa mưa, một trận mưa rào lớn đổ xuống vùng Saigon - Chợ Lớn. Vào khoảng giữa 3 và 4 giờ chiều, bên bờ sông thình lình xuất hiện một cơn gió rất mạnh cuốn xoáy vòng quanh như một bông vụ, con gió xoáy mạnh này di chuyển chậm vào thành phố qua các nhà trên đường tiến của nó.
Gió lốc vòng xoáy này băng qua sông, may mắn là nó không đụng trúng cây cầu lớn gần đó (chú thích dịch giả: cầu từ đường Pellerin đi qua Khánh Hội), nó thổi bay xập một số nhà và đánh vào một khu chợ kế đó. Tòa nhà của chợ là một tòa nhà hình tam giác với các cột sắt và mái lợp ngói, chính giữa là một tháp bằng sắt và mái lợp sắt, tòa nhà phủ một diện tích chợ khá lớn. Một bên của khu chợ và tháp bị con gió lốc xoáy đánh trúng, tháp bị phá hủy hoàn toàn và các mái ngói bị thổi cuốn bay lên trời, được cho biết là khoảng hơn 100 mét cao. Gần cơn lốc xoáy, gió mạnh làm người ta không đứng vững được và các mái ngói từ trời rơi xuống làm nhiều người bị thương. Như thường biết về loại gió xoáy lốc này là nó chỉ ảnh hưởng khốc liệt một vùng nhỏ trên con đường nó đi qua, tuy vậy vài trăm căn nhà đã bị nó thổi bay. Ít nhất 11 người đã bị thiệt mạng và khoảng 30 đến 40 người bị thương nặng chở tới nhà thương, chưa kể rất nhiều người bị ngói gạch rớt làm bị thương. Ống khói của một nhà máy xay lúa vừa xây cũng bị sụp đổ.”
Đặc biệt cơn bão lớn nhất lịch sử Saigon - Chợ Lớn là bão năm Giáp Thìn vào năm 1904. Bão này đã tàn phá nhiều nơi ở Gò Công, Long An, Saigon - Chợ Lớn. Đường dây điện tín bị gián đoạn và đường xe lửa Saigon - Mỹ Tho không hoạt động trong nhiều tuần.
Chợ Lớn là nơi đã hồi phục đường điện tín, đường giao thông nhanh chóng và tiếp tục phát triển qua sự năng động của cộng đồng người Hoa.
Kết Luận
Bài này đã trình bày một bức tranh tổng quát về đời sống kinh tế, sinh hoạt xã hội của người Hoa ở Chợ Lớn vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc. Dưới chính sách của chính quyền Pháp, một mặt khuyến khích người Hoa nhập cư và phát triển kinh tế thương mại ở Nam Kỳ, nhưng mặt khác cũng muốn giới hạn thế lực và sức cạnh tranh của người Hoa đối với các công ty người Pháp.
Chính sách của người Pháp một phần đã thành công và người Hoa ở Chợ Lớn đã tự tạo ra cho mình một thế đứng kinh tế và chính trị khá mạnh ở Nam Kỳ trong giai đoạn này. Họ đã để lại một di sản kinh tế, văn hóa quan trọng và có giá trị ở Saigon - Chợ Lớn.
Ngày nay tốc độ phát triển đô thị ở Sài Gòn - Chợ Lớn rất là nhanh chóng, bộ mặt thành phố đổi thay rất nhiều. Điều quan trọng là các di sản, kiến trúc văn hóa lịch sử, nơi sinh hoạt tôn giáo, văn hóa nên được bảo tồn, gìn giữ để chúng trở thành cảnh quan có giá trị tinh thần vô giá cho thành phố và các thế hệ sau nối tiếp..
Dựa vào các di sản văn hóa của người Hoa duy trì cho đến nay và các cơ sở vật chất để lại do lịch sử Chợ Lớn bắt nguồn từ kinh tế qua sông rạch, một trong những dịch vụ có tìm năng cao là du lịch và phục vụ khách thăm viếng. Điều này đòi hỏi cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử phải được bảo tồn và đầu tư phát triển mà chỉ có chính quyền thành phố Hồ Chí Minh mới có thể làm được qua quy hoạch, khuyến khích đầu tư và hợp tác với cộng đồng địa phương. Chợ Lớn với truyền thống tinh thần mở đường, gan dạ và can trường trong thương mại của người Hoa có từ lâu đời sẽ biến Chợ Lớn thành một thành phố xứng đáng với tìm năng của nó như Singapore và Hồng Kông trong lãnh vực kinh tế và du lịch.
Nguyễn Đức Hiệp
Chú thích:
(1) Đây là một số tiền khá lớn, so với giá tiền nằm trị bệnh ở bệnh viện Cholon năm 1906 là $0.30 mỗi ngày và giá đi mỗi cuốc xe kéo là 5 centimes ($0.05) (theo Niên giám hành chánh Đông Dương 1906)
(2) Nhà in Nam-Tai ở số 49 đường Catinat (Đồng Khởi ngày nay) in các sách tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ, Hoa. Trong số các sách in có các quyển “Thạch-Sanh, Lý-Thông. Bổn cũ diễn chánh par Đặng-Lễ-Nghi. Publié par Đinh-Thái-Sơn. In lần thứ nhứt [1er édition] (Tous droits réservés). — Saigon, Imprimerie Nam-Tai, 1907, in-8, pp. 47. », quyển « Lục-Vân-Tiên. Bổn cũ soạn lại và tbêm nam khách par Đặng-Lễ-Nghi publié par Đinh-Thái-Sơn. In lần thứ nhứt [1er édition] (Tous droits réservés). — Saigon, Imp. Nam-Tai, 1907, in-8, pp-72» , quyển “Truyện đời xưa: Fables et légendes annamites encore inédites. publ. par Đinh Thái Sơn.– In lần thứ hai – Saigon: Impr: Nam Tai, 1906 – 100p; 19cm ».
(3) Sau này là trường Bác Ái và sau 1975 thì trở thành trường Cao đẳng Sư phạm
(4) Tàu Pelican có lẽ là tàu chuyên chở người Hoa mua lại từ người Pháp. Trong các chiến dịch của hải quân Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có một tàu chuyên chở tên là Pelican.
Tham khảo:
(1) French Indo-China, The
Straits Times, 2 July 1902, Page 2,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=straitstimes19020702-1.2.5&sessionid=552dba3cf2494f0784995a38aaa56f74&keyword=cholon&token=cholon
(2) The Straits Times, 14 March 1908, Page 6
(3) Items from Saigon, Straits
Times Overland Journal, 16 March 1869, Page 2,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=stoverland18690316-1.2.7.4&sessionid=61be2ecef8d241f59cd80221138219b1&keyword=cholon&token=cholon
(4) The Chinese Poll tax in the
French colonies, Disturbances at Saigon, The Singapore Free
Press
and Mercantile Advertiser (1884-1942), 9 March 1897, Page 2,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=singfreepressb18970309-1.2.15&sessionid=94406b3e8e7b4591b53ac80eb96f28e4&keyword=cholon&token=cholon
(5) Annuaire général de l'Indochine française – Partie commerciale 1906, F. –H. Schneider, Imprimeur-editeur, Hanoi 1906, 1908.
(6) The Straits Times, 15 April
1876, Page 4,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes18760415.2.16.4.aspx
(7) Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933
(8) The Singapore Free Press and
Mercantile Advertiser, 24 April 1923, page 5,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=singfreepressb19230424-1.2.17.4&sessionid=1419f8872bd84570a80da8a2bd96041d&keyword=cholon&token=cholon
(9) A propos of naturalisation, The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser, 4/8/1899, page 2.
(10) The Singapore Free Press and
Mercantile Advertiser, 19 July 1892, Page 3,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=singfreepressb18920719-1.2.12&sessionid=e4dc497cbf3e42f6806fe73cd40ba284&keyword=cholon&token=cholon
(11) Claudine Salmon, Tạ
Trọng Hiệp, Wang Annam riji: A Hokkien literatus visits
Saigon (1890), Chinese
Southern Diaspora Studies,
Vol. 4, 2010,
http://chl.anu.edu.au/publications/csds/csds2010/07-5_salmon_ta_2010.pdf
(12) A terrible cyclone, Daily
Advertiser, 18 August 1892, Page 3,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=dailyadvertiser18920818-1.2.7&sessionid=7e842184d9bc415a8a8a7ec7babd53e5&keyword=cholon&token=cholon
(13) Straits Times Overland
Journal, 13 May 1879, Page 5,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=stoverland18790513-1.2.16&sessionid=0c37c4c304c24e6092a8e91f627bc348&keyword=cholon&token=cholon
(14) Saigon notes – A secret society, The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser (1884-1942), 29 October 1898, Page 3, http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=singfreepressb18981029-1.2.27&sessionid=8dc92def24c547458a3d6421b73cdc2a&keyword=cholon&token=cholon
(15) Chinese Secret Societies,
The Straits Times,
16 December 1876, Page 6,
http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article.aspx?articleid=straitstimes18761216-1.2.16.3&sessionid=c0396ae362cc49929254b13dcff73bda&keyword=cholon&token=cholon
(16) Extensive riots in Indochine, The Straits Times, 2 tháng 7 1930.
(17) The Straits Times 19 May 1899, pp. 3.
(18) La Vie Saigonnaise, The Straits Times, 18 June 1902, pp.2
(19) Fire at Saigon, The Straits Times, 9 March 1898, pp. 2
(20) Indo-China, Trade relations with China, Singapore Daily News, 23 November 1932, Page 5
(21) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai.
(22) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
(23) The Straits Times, 15 July 1876, Page 3
Các thao tác trên Tài liệu