Kỷ niệm 60 năm Giai phẩm, Nhân văn
1956-
2016: kỷ niệm 60 năm
Giai phẩm, Nhân
văn
Đặng Tiến
LTS. Rất nhiều sách báo đã viết về vụ đàn áp những văn nghệ sĩ chủ trương tạp chí "Nhân văn" và các "Giai phẩm" văn thơ ở Miền Bắc Việt Nam năm 1956, tới nay là đúng 60 năm. Góc cạnh chủ yếu trong phần lớn các bài viết là sự đàn áp trí thức trong một chế độ toàn trị. Điều này không sai, và bài viết mà chúng tôi đăng lại mới đây của nhà văn Lê Hoài Nguyên, tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa), nhấn mạnh tới khía cạnh "NVGP trước hết là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học đòi hỏi dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954-1960" góp thêm những chứng từ trong chiều hướng đó của một người trong bộ máy. Tuy nhiên, có phải đó là khía cạnh duy nhất (hay duy nhất đáng lưu ý) về vụ án văn học - chính trị này? Kinh nghiệm cho thấy ta luôn luôn cần cảnh giác với những thông điệp mà Đảng Công sản muốn đưa ra, nói một chuyện nhưng đằng sau lại ẩn giấu nhiều chuyện khác, thường là quan trọng hơn. Bài viết dưới đây của Đặng Tiến phân tích vụ án dưới một "góc nhìn khác" (mượn chữ của nhà báo Trương Duy Nhất), gợi cho người đọc những câu hỏi lý thú liên quan tới cuộc tranh giành quyền lực ở chóp bu ĐCSVN, những câu hỏi không phải không liên quan tới tình hình đất nước hiện nay. Bài viết đã được đăng trên mạng Talawas năm 2007, tác giả hiệu đính lại và gửi Diễn Đàn nhân kỉ niệm 60 năm vụ án. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Giai phẩm và Nhân văn là tên hai ấn phẩm khác nhau. Giai phẩm là một tuyển tập thơ văn, phát hành đầu năm 1956 tại Hà Nội, ra được năm kỳ; Nhân văn là một tờ báo không định kỳ, xuất bản cuối 1956, ra được 5 số. Nhiều người có tên trong tuyển tập trước hợp tác với tờ báo sau. Nhưng cụm từ "Nhân văn Giai phẩm" ta thường nghe, tự thân nó là một thành ngữ vô nghĩa.
Báo Nhân Văn và Giai phẩm 1956
Đảng quyền Hà Nội, cuối năm 1956 đã gôm hai tên lại với nhau thành một bản án văn học và chính trị. Thời đó "bọn", "phần tử " Nhân văn-Giai phẩm là một lời buộc tội nặng nề. Nhưng đồng thời ở miền Nam - khoảng 1960 - và ở toàn quốc cùng với hải ngoại sau này, Nhân văn-Giai phẩm, ngược lại, là một danh xưng cao đẹp, tượng trưng cho tầng lớp trí thức tài năng, sáng suốt, dũng cảm và bất khuất trước cường quyền và bạo lực.
Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần
Câu
chuyện nay đã đúng 60 năm, cái
gút văn học đã từ từ được
tháo gỡ: các tác giả được
khôi phục, được xuất bản tác
phẩm, được giải thưởng. Trần
Đức Thảo được giải thưởng
Hồ Chí Minh từ 2000; Trần Dần, Phùng
Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm được
Giải thưởng Nhà nước. Phải
chăng là "vụ án" văn học
đã được xếp lại? Thế
sao trong tang lễ Nguyễn Hữu Đang , 10/2/2007,
đại diện chính quyền, trong điếu
văn còn nhắc lại "sai
lầm Nhân văn Giai phẩm"?
Phải chăng là thành ngữ Nhân văn
Giai phẩm có nhiều nội hàm khác
nhau?
*
Tôi
khởi thảo bài này, đúng lúc
báo mạng talawas ngày 20-3- 2007, đăng bài
của nhà văn Nhật Tiến cùng
một đề tài. Anh cũng mờ mờ
nhân ảnh như tôi, nhưng dũng cảm
hơn, và kết luận về việc Hoàng
Cầm và Lê Đạt nhận giải
thưởng: "Phải
chi các ông tuyên bố được
rằng: sẵn sàng nhận giải với
điều kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam minh bạch công nhận đã sai lầm
trong công cuộc đàn áp phong trào
Nhân văn Giai phẩm".
Tôi
cùng một suy nghĩ với anh, nhưng không
dám ngay thẳng đòi hỏi như thế.
Vì giá dụ lỡ như hai ông ấy,
trong thâm tâm, không cho rằng Đảng
sai lầm, thì sao?
Vì không
hiểu rõ nội vụ, tôi thử đưa
ra một "giả thuyết thao tác", bắt
đầu bằng một hình ảnh: các
nhà văn trong hai đợt Giai
phẩm và Nhân
văn là
nạn nhân của một hiện tượng
đông đá (glaciation), từ nước
, hay tuyết, đông đặc thành băng
giá. Nôm na là: Giai
phẩm và Nhân
văn là
một phong trào văn học tự phát
năm 1956 nhưng gặp phải lúc Đảng
Lao động đang chuyển từ chính sách
mềm dẻo sang một chế độ chuyên
chế cứng rắn, từ 1957, để chuẩn
bị thống nhất đất nước bằng
vũ lực. Nghĩa là, vừa phải trực
diện với Mỹ và khối tư bản,
vừa phải đối phó với đàn
anh Liên Xô sau diễn văn Khrushchev, chủ
trương Sửa sai, Xét lại và Chung
sống hoà bình; và đàn anh
Trung Quốc chống hữu khuynh, chống xét
lại và phát động chính sách
Đại Nhảy vọt.
1956,
năm bản lề cho Liên bang Xô Viết
và các Đảng Cộng sản toàn
thế giới [1],
sử gia Pierre Brocheux đã viết như thế
để mở đầu cho chương, rất
uyên bác, ông dành cho Nhân
văn-Giai phẩm (trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, xem chú
thích [1] - DĐ). Toàn thế giới căng thẳng như vậy,
Việt Nam còn có nghịch cảnh riêng,
nhức nhối hơn: dự án thống nhất
đất nước trù tính vào
tháng 7-1956 theo Hiệp định Genève đã
không thành. Chính quyền Hà Nội
quản lý miền Bắc cầm chừng trong
hai năm 1955-1956 về mặt chính trị, xã
hội, văn hoá lẫn kinh tế, đến
thời điểm nào đó, phải dứt
khoát. Thậm chí Lưu Thiếu Kỳ,
trước Đại hội Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc, ngày 25-3-1963, còn
cho rằng "Hồ
Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh
(…) Sau chiến cuộc (1954) hắn vẫn còn
chần chờ, không chọn chế độ
tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Chính chúng ta (Trung
Quốc) phải
quyết định cho hắn" [2] .
Ngày 12-11-1954, Phạm Văn Đồng hỏi
Jean Sainteny: "Ai
bảo các anh chúng tôi là chế
độ cộng sản?" [3]
Brocheux
còn viết: "Cùng
một giai đoạn này, Trung Quốc và
Bắc Việt Nam thiết lập chế độ
Sta-li-niêng, độc tài đảng trị,
tập thể hoá nông thôn, áp dụng
phương pháp toàn trị để tiêu
diệt đối kháng, đàn áp mọi
lệch lạc trí thức và văn nghệ,
phát triển kinh tế theo kế hoạch nhà
nước. Sự
trùng hợp về niên biểu giữa các
biến cố xảy ra cùng năm 1956 hiển
nhiên đến độ chúng ta khó
bề phủ nhận quan hệ nhân quả,
hiệu ứng ảnh hưởng, dây chuyền
và phản động lực, dù
Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp có
giảm bớt hay phủ nhận. Trả lời ký
giả Tibor Mende hỏi tự nhiên: khi sửa
sai việc cải cách ruộng đất,
‘Việt Nam có tham dự vào cuộc
xáo trộn trong thế giới cộng sản
không?’ Hồ và Giáp trả lời
lấp lửng: chỉ có những yếu tố
địa phương quyết định đường
lối". [4] Như
vậy, trong "các yếu tố địa
phương", đặc biệt của Việt
Nam, phải nói quyết tâm thống nhất
đất nước là quan trọng hàng
đầu.
Brocheux là sử gia ngoại
quốc, lại không phải là dân văn
nghệ, có thể khách quan hơn chúng
ta, người chìm trong cuộc, dễ chủ
quan.
Thời gian này có giáo
sư Pháp Gérard Tongas, sống tại Hà
Nội (1953-1959) và viết sách dày cộm
tựa đề dài dòng Tôi
đã sống trong Địa ngục Cộng
sản Bắc Việt Nam và đã chọn
Tự do.
Ông nhận định: "Chế
độ cộng sản chỉ mới được
thiết lập tại miền Bắc Việt Nam
từ tháng chạp 1956" [5] .
Ông nói thì chúng ta phải tin, vì
một người ngoại quốc, trong một
tác phẩm chống cộng thẳng thừng
như vậy không có lý do gì biện
hộ cho Việt Minh và cộng sản. Ông
dành khoảng 15 trang cho phong tràoNhân
văn-Giai phẩm (tr.
329-343). Theo ông, thì từ tháng 2-1957,
báo cáo của Đại hội Văn
nghệ Toàn quốc lần thứ 2 tại Hà
Nội đã vạch đường lối
để cộng
sản hoá miền Bắc và chuẩn bị
thống nhất với miền Nam, rồi xích
hoá luôn phía bên kia vĩ tuyến (tr.
334).
Ông còn mách, trong năm
1956, khoảng tháng 10-11 (thời điểm
báo Nhân
văn)
có một luồng gió thông thoáng
thổi qua Hà Nội: Đức cha Trịnh
Như Khuê, Tổng Giám mục, được
tự do đi lại và đã thừa cơ
hội thăm các họ đạo. Đến
cuối năm 1958, các tu sĩ người nước
ngoài mới dần dần bị trục xuất
vì "hoạt động chính trị
phản động chống chế độ". [6]
Về
1956, "năm
bản lề",
sử gia Brocheux tường trình rất căn
cơ, lý luận khúc chiết. Ông nhắc
lại báo cáo mật ngày 24-2-1956 của
Khrushchev, cuộc nổi dậy tại Poznan, Ba Lan
tháng 6-1956, phát biểu của Chu Ân
Lai bênh vực Ba Lan – xâm phạm độc
quyền quốc tế của Liên Xô –
cuộc nổi dậy của Budapest ngày
23-10-1956 bị Hồng quân đàn áp,
và Mao Trạch Đông, có lẽ e sợ
truyền nhiễm, đã ủng hộ Liên
Xô. Sau đó là chính sách Trăm
hoa đua nở,
1956 ở Trung Quốc, có lẽ để giải
quyết những khó khăn nội bộ. Và
ông dè dặt: "Tiếc
rằng chúng ta không biết rõ rệt
ảnh hưởng tại Việt Nam của báo
cáo Khrushchev mà phái đoàn đại
biểu đã mang về". [7]
Tố Hữu
Thì
nay ta có lời giải đáp của Tố
Hữu, do Đặng Phong trích dẫn [8] :
"Bản
báo cáo của Khrushchev ở Đại hội
XX đã gây thêm khó khăn cho Đảng
ta và giúp cho bọn phản động ở
miền Bắc thừa cơ gây rối loạn
trong xã hội. Chúng đả kích chế
độ xã hội chủ nghĩa, đòi
xét lại vai trò lãnh đạo của
Đảng, thậm chí đòi lật đổ
chính quyền cách mạng!
Lợi
dụng sự bất lực của cơ quan quản
lý, chúng xuất bản báo Nhân
văn,
các tập Giai
phẩm,
tập hợp một số bất mãn và
bọn thù địch giấu mặt. Nguy hiểm
nhất là bọn gián điệp đội
lốt ‘học giả’ nước ngoài
đứng đằng sau bày mưu kế…
Một số ít anh em văn nghệ trí
thức vốn có những quan điểm lệch
lạc, dao động trước tình hình
khó khăn trong nước và trên thế
giới, cũng ngây thơ chạy theo chúng…
Báo Nhân
văn và
các tập Giai
phẩm được
lưu hành nhiều nơi, kể cả đưa
vào Nam và ra nước ngoài."[9]
Lời
lẽ Tố Hữu cần được giải
thích:
Báo cáo Khrushchev lúc đó
không nhiều người biết. Trong nhóm Giai
phẩm và Nhân
văn,
Lê Đạt không biết, Nguyễn Hữu
Đang có biết [10] .
Nhưng đối với đảng quyền, rõ
ràng là trầm trọng.
Những
rối loạn trong xã hội nói trên
đã xảy ra tại các vùng Công
giáo Nghệ An, Nam Định, vài nơi
đồng bào miền núi, tại nông
thôn có nơi phản ứng lại việc
Cải cách rộng đất. Trường
Chinh thừa nhận những điều này
trong báo cáo 13-3-1958, và cho rằng do cơ
hội diễn văn Khrushchev [11] .
Còn
"gián
điệp đội lốt học giả",
ám chỉ Maurice Durand, giám đốc trường
Viễn đông Bác cổ, bị trục
xuất thời đó. Phải chăng vì
ông đã "cho mượn" báo France
Observateur và Les
Temps Modernes trình
bày tình hình thế giới. Trong những
người được đọc các báo
này, có Trần Đức Thảo. Nhưng
rõ ràng là đảng quyền đã
dao động trước các cuộc nổi
dậy ở Ba Lan, Hungary và nhất là
trước chính sách Xét lại, Chung
sống hoà bình mà Khrushchev mới đưa
ra.
Trong báo cáo 13-3-1958 nói
trên, Trường Chinh đã lên án
báo Nhân
văn "đề
xướng những tư tưởng của chủ
nghĩa xét lại"
là phá hoại chế độ trên
bốn diện: chính trị, kinh tế, văn
hoá và ngoại giao: "Về
chính sách ngoại giao và quốc
tế (nhóm Nhân
văn) đề
nghị đứng trung lập và nhận viện
trợ của hai phe; đòi xét lại vai
trò lãnh đạo của Liên Xô
trong phe ta và cho rằng giai cấp công nhân
không lãnh đạo thì cách mạng
thuộc địa vẫn có thể thắng
lợi được" [12] .
Lời
buộc tội nghiêm trọng như vậy,
nhắm vào ai? Không lẽ chỉ quy chụp
một nhóm lèo tèo dăm ba nhà
văn nhà thơ lớ ngớ quy tụ chung
quanh báo Nhân
văn?
Muốn "đề xướng" một chính
sách nội trị và ngoại giao lớn
lao như vậy, phải là một chính
đảng lớn, hoặc có thẩm quyền
phát ngôn, hoặc đang cầm quyền,
muốn đề xuất chính sách
mới.
Ngày nay, chúng ta tiếp
xúc dễ dàng với Hoàng Cầm, Lê
Đạt, và biết rằng các ông
ấy, thời điểm 1956, có hiểu biết
"chính sách ngoại giao và quốc
tế" là cái mô tê ất giáp
gì đâu!
Lê Đạt tâm
sự: "Lúc
đó phải nói thật là chúng
tôi chưa suy nghĩ gì sâu xa lắm
đâu. Lúc đó tôi còn quá
trẻ, mới 26, 27 tuổi, tôi chỉ nghĩ
rằng anh em bây giờ trong điều kiện
hoà bình thì phải chống lại
vấn đề kiểm duyệt, nó khắt
khe quá, và hai là chống thứ văn
nghệ độc tôn, thực hiện tự
do sáng tác… Nếu nói đến
một cái ảnh hưởng gì đó
của Nga, thì không phải là ảnh
hưởng của phong trào nào của
Nga, mà là ảnh hưởng một nhà
thơ Nga mà tôi rất yêu mến, đó
là Mayakovski. Như thế không thể gọi
là ảnh hưởng phong trào này kia
được. Hoàng Cầm, nhất là
Văn Cao cũng chả ảnh hưởng gì
của Maya cả, lại có cả anh Nguyễn
Sáng và Sỹ Ngọc là những người
của hội hoạ. Cho nên anh em là vui với
nhau để chứng tỏ rằng những người
nghệ sĩ, những người sáng tác
có quyền sáng tác một cách tự
do". [13] Không
có bằng cớ gì chứng tỏ các
ông ấy muốn thành lập những câu
lạc bộ Pê-tô-phi như ở Hungary
1956.
Khi xảy ra vụ án Nhân
văn-Giai phẩm,
nghe đâu Hồ Chí Minh có nói:
không nên dùng dao mổ trâu để
mổ gà. Sử gia Georges Boudarel, một chuyên
gia đáng tin cậy về Nhân
văn-Giai phẩm,
đã sống tại Hà Nội thời
gian này, mách Brocheux: trên báo Nhân
dân ngày
16-9-1958, dưới bút danh Trần Lực, Hồ
Chí Minh có lên án nhà văn nữ
Trung Quốc Đinh Linh theo đà vụ án Trăm
hoa đua nở chống
hữu khuynh của Bắc Kinh giữa năm
1957.
Sử gia Brocheux đâm ra băn
khoăn: "Hồ
Chí Minh trích dẫn một tiểu thuyết
gia nữ Trung Quốc mà không nhắc tên
một tác giả Việt Nam nào, thậm
chí cả tên Nhân
văn,
đưa chúng tôi đến thắc mắc:
liệu ông có thật sự tán thành
đợt đàn áp trí thức phản
kháng?" [14] .
Quan
điểm chúng tôi: hai tờ báo Giai
phẩm và Nhân
văn,
những truyện, thơ, chính luận, chính
kiến xuất hiện trên đó, trong năm
1956 chỉ là cái cớ, cơ hội cho
những phe phái cầm quyền tranh chấp và
răn đe nhau. Báo cáo của Trường
Chinh, 13-3-1958, đưa ra những lời lên án
nặng nề và trầm trọng không thể
chỉ nhắm vào đám nhà thơ
cỡ Trần Dần, Phùng Quán. Còn
Thuỵ An thì nghĩa lý gì? Trường
Chinh và phe cánh ông, mà Tố Hữu
là cái loa ồn ào nhất, nhắm
vào cái gì khác, và ai đó
khác. Cái gì khác thì ta có
thể suy đoán ra. Còn ai khác là
ai với ai? Quyền lực cao cấp nhất là
cấp bực nào trong guồng máy?
Mười
năm sau, sự kiện tiếp theo là vụ
án “Xét lại chống Đảng”
1967, sẽ hé thêm một ít tia sáng,
nhưng cũng không nhiều. Nói như vậy
là phần nào đó giải mã
cho vụ án Nhân
văn-Giai phẩm,
giải oan cho những anh em làm văn nghệ
có bài đăng trên hai tờ báo
đó: họ là những con dê tế
thần trên bàn thờ quyền lực. Bi
thảm hơn, có khi, có người chỉ
là con giun, cái kiến dưới gót
sắt của một vài quan chức cơ hội
– những thợ câu luôn luôn có
mặt ở những khúc quành nước
đục.
*
Vụ
án Nhân
văn-Giai phẩm là
phông cảnh cho một cuộc tranh chấp
quyền lực trong nội bộ Đảng Lao
động Việt Nam vào khoảng 1957, giai
đoạn quá độ từ nền hành
chánh tạm thời hoà hoãn, đến
một chế độ chuyên chính toàn
trị: đây là một tiền đề
có cơ sở lịch sử và duy
lý.
Nhưng hệ luận của nó,
mà chúng tôi muốn đề xuất,
là quá trình chuyên chế hoá
này gắn liền với quyết định
võ trang thống nhất đất nước,
đánh vào miền Nam, thì khó
chứng minh hơn.
Trên giấy trắng
mực đen, chế độ chuyên chính
miền Bắc được xác định
trên cơ sở Đại hội Đảng
lần thứ 3, tháng 9-1960. Đại hội
được dự trù vào năm 1958, so
với dự kiến cuối năm 1956. Vụ
việc Nhân
văn-Giai phẩm rơi
đúng boong vào thời điểm này:
đối với Lê Đạt, Hoàng Cầm,
và các bạn, là một tình cờ
(contingence) nhưng với người cầm quyền
là một quy luật (nécessité). Người
biết và sử dụng được quy
luật – tạm gọi là biện chứng
– thì thăng quyền tiến chức, như
Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; người
biết, nhưng chỉ né tránh thì
tồn tại như Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
Nguyễn Huy Tưởng; hay xa lánh như Nguyên
Hồng. Người không biết, đành
phải sa hầm sẩy hố, như Phùng
Cung, Nguyễn Hữu Đang.
Bài này
chỉ khoanh vùng nghị luận: đảng
quyền, hay một bộ phận quyền lực
Hà Nội đã quyết định đánh
vào văn nghệ, cùng một lúc, hay
trước khi đánh xuống miền Nam. Một
mặt trận nhỏ để chuẩn bị tư
tưởng cho trận tuyến lớn, dài
hơi, phát xuất từ một chế độ
thuần nhất, toàn trị và đảng
trị.
Những chuyến xe tăng sẵn sàng
chuyển bánh vào Nam, bắt đầu
trên những trang giấy Giai
phẩm và Nhân
văn.
Bên
trong thời điểm trùng hợp, thì
hai mặt trận, một nhỏ một lớn, có
quan hệ hữu cơ: không thể đánh
vào miền Nam mà vẫn tôn trọng
những báo Giai
phẩm và Nhân
văn phía
sau lưng – với những đòi hỏi
tự do, dân chủ, và… quyền biểu
tình! Đây không những là việc
thực tế hiển nhiên, mà còn là
việc chọn lựa cơ chế chính tri,
hệ luận của Hiệp định Genève.
Có Tổng tuyển cử 1956, thì dù
ít dù nhiều, phải thực thi dân
chủ, và cũng là cơ hội để
uyển chuyển cơ chế chính trị.
Không có Tổng tuyển cử thì đành
chọn con đường khác.
Theo
văn kiện chính thức của Đảng,
lệnh võ trang giải phóng miền Nam
được ban hành từ Hội nghị
Trung ương lần thứ 15, vào tháng
1-1959. Nhưng ý định và quyết tâm
phải có trước đó.
Có
thể là có từ lâu, nhưng thành
hình cụ thể có lẽ vào 1957,
khi Lê Duẩn từ Nam Bộ ra Hà Nội,
dần dà nắm quyền lãnh đạo.
Có lẽ vì dự án Tổng tuyển
cử không thành, nên bang giao Việt-Pháp
trở nên gay gắt: trường Viễn đông
Bác cổ, tên tiếng Pháp là
trường Pháp quốc Viễn đông
(Ecole Française d’Extrême Orient) bị đóng
cửa; giám đốc, chuyên gia về văn
hoá, văn học Việt Nam là Maurice
Durand bị trục xuất vì cái tội
mà Tố Hữu gọi là "gián
điệp đội lốt học giả nước
ngoài".
Tô Hoài được
học tập và được "phổ
biến": "vấn
đề phức tạp cả trong nhiều tầng
lớp xã hội, không phải mấy
truyện ngắn, mấy bài thơ là tất
cả. Trong những anh em ấy không phải ai
cũng biết tác động nhuốm màu
chính trị lan truyền trong hoạt động
Đảng Xã hội Pháp cũ. SFIO…
Lại ông Đuy-răng ‘con’, tay chơi
đồ cổ có hạng, nói tiếng
Việt như ta… Những người nước
ngoài vi phạm an ninh đất nước đã
bị trục xuất" [15] .
(Sao
lại xen chuyện SFIO [16] ,
Đảng Xã hội Pháp, vào đây?
Có quan hệ gì đến hai chính
đảng Dân chủ và Xã hội lúc
đó?)
Gọi là "Đuy-răng
con" để phân biệt với Gustave
Durand "bố", giáo sư Hán học
tại Hà Nội [17] .
Cũng trong giữa năm 1957 này, Jean Sainteny,
Tổng Đại diện Cộng hoà Pháp,
thân thiết với Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, được "mời khéo"
không trở lại Hà Nội, theo một
nguồn tin riêng của Gerard Tongas;[18] sau
đó là các nam nữ tu sĩ nước
ngoài phải ra đi.
Trong nhật ký
ngày 3-14 tháng 3-1958, nhật ký riêng,
không phải bản kiểm thảo, Trần
Dần viết: "bọn
gián điệp vẫn liên lạc với
Sainteny, là Thuỵ An" [19] .
Cũng như Tô Hoài, Trần Dần chỉ
"nghe
phổ biến"
và nói lại vậy thôi. Cho đến
nay chưa ai đưa ra tư liệu gì chứng
tỏ Durand và Thuỵ An là gián điệp
– mà chuyện ấy cũng khó tin.
*
Phong
trào Giai
phẩm và Nhân
văn khởi
thuỷ từ tháng 3-1955, khi hai nhà thơ
Trần Dần, Lê Đạt đầu têu phê
phán tập thơ Việt
Bắc của
Tố Hữu, và được nhiều người
tán thành. Tập thơ ê a hoài
cựu, dòng thơ lục bát không có
gì mới, nội dung vân vê kỷ niệm
không lấy gì làm sâu sắc. Nhưng
rồi tập thơ lại được giải
nhất đầu năm 1956.
Khi đánh
vào Tố Hữu - Việt
Bắc ,
nhóm phản kháng không dè là
đụng phải một đối tượng
khác, đụng phải Tố Hữu –
"Ta đi tới". Ông Tố Hữu trước
hồi cố: mười
lăm năm ấy thiết tha mặn nồng;
ông Tố Hữu sau nhìn về tương
lai, phía Nam – ta
đi tới, trên đường ta bước
tiếp,
trong một bài thơ có lẽ là tác
phẩm được học tập, truyền
tụng sâu rộng nhất thời đó.
Đường
ta rộng thênh thang tám thước
Đường
Bắc Sơn, Đình Cả, Thái
Nguyên
Đường
qua Tây Bắc, đường lên Điện
Biên
Đường
Cách mạng dài theo kháng chiến
(…)
Ai
đi Nam Bộ
Tiền
Giang, Hậu Giang
Ai
vô thành phố
Hồ
Chí Minh
Rực
rỡ tên vàng
(…)
Ta
đi tới, trên đường ta bước
tiếp
Rắn
như thép, vững như đồng
Đội
ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao
như núi, dài như sông
Chí
ta lớn như biển Đông trước
mặt
Ta
đi tới không thể gì chia cắt
Mục
Nam Quan đến bãi Cà Mau...
Có
cái gì báo hiệu chiến dịch mùa
xuân 1975, đã bắt đầu ào ạt
từ mùa xuân 1972?
Ta
đi tới ,
láy đi lặp lại, là nhịp bước,
điệp khúc quân hành, một
leitmotiv?
Phê phán Tố Hữu, chủ
yếu về nghệ thuật, Trần Dần cao
hứng đã có những lời rất
nặng “cái
nhìn Tố Hữu thật nhỏ bé quá.
Nhìn vấn đề gì, vấn đề
ấy thu hẹp lại. Yêu ai, người ấy
nhỏ đi” [20] .
Bài viết tháng 5-1955, vô hình trung
đã đụng chạm đến một
chính sách còn đang ở thế tiềm
năng, qua cá nhân Tố Hữu?
Bài
“Ta đi tới” được sáng
tác ngay sau Hiệp định Genève, vào
tháng 8-1954. Ngay lúc đó, hội nghị
Xứ uỷ Nam Bộ do Lê Duẩn, bí thư
Xứ uỷ, triệu tập tháng 10-1954, đã
kết luận: “Có
hai khả năng phát triển: có thể
Mỹ Diệm buộc phải thi hành Hiệp
định Genève và cũng có thể
Mỹ Diệm không thi hành. Cách mạng
miền Nam cần phải có kế hoạch
đối phó với cả hai tình huống
trên”. [21]
Sau
1956, bước sang 1957, chính quyền miền
Bắc đã cạn kiệt mọi kế
hoạch thương thảo, chỉ còn một
chọn lựa là vũ lực. Nhưng chần
chờ và chuẩn bị, phải đợi
đến giữa 1959 mới mở đường
Trường Sơn 559. Hạ hồi, thì lịch
sử sẽ hùng hồn phân giải - bằng
xe tăng và đại pháo.
Cần
nói: Tố Hữu không thể là nhân
vật chủ chốt trong kế hoạch võ
trang giải phóng miền Nam. Bài “Ta đi
tới” không phải là cương
lĩnh; nó có thể biểu hiện một
ý nguyện bị chèn ép, một ẩn
ức theo nghĩa Freud; hoặc là một khát
vọng dự phóng; hay một thị lực
tiên tri. Trong việc đàn áp Nhân
văn-Giai phẩm ông
đã đọc ba tham luận dữ dội,
đại cà sa. Dĩ nhiên đây là
việc làm của Tuyên huấn. Nhưng
lời lẽ hằn học, nhỏ nhen, chì
chiết và chi tiết làm ta băn khoăn:
phải chăng bản thân ông bị xúc
phạm? Vì những phê phán tập
thơ Việt
Bắc?
Vì báo cáo Khrushchev, việc hạ bệ
Stalin? Cơn hoảng hốt sợ mất quyền
chức? Ân oán giang hồ?
Hay là
bên ngoài nhiệm vụ tuyên huấn,
bên ngoài những lý do nói trên,
ông phát ngôn thay cho những “phần
tử” cứng rắn trong guồng máy? Và
những “phần tử” này sẽ dần
dần nắm trọn quyền bính khi quyết
định tiến chiếm miền Nam? Vụ
án Nhân
văn–Giai phẩm thì
ta đã biết, nhưng đằng sau, hay bên
cạnh câu chuyện văn chương, còn
có gì khác? Có cuộc tranh giành
ảnh hưởng, tranh chấp quyền hành
trong nội bộ Đảng Lao động hay
không, và vụ án chỉ là một
triệu chứng biểu hiện?
Trả
lời kiểu nào đi nữa, thì cũng
cần ghi nhận: sự kiện Nhân
văn–Giai phẩm đã
xảy ra ỏ giai đoạn cực kỳ tế
nhị trong nội bộ Đảng Lao động
Việt Nam, trước nhiệm vụ bức bách
là thống nhất đất nước, gặp
phải cơn dao động và hoang mang, mà
báo cáo Khrushchev 1956 đã bất ngờ
gây ra cho toàn thế giới cộng
sản.
Phong trào Giai
phẩm–Nhân văn,
nếu chỉ xem như là câu chuyện văn
học, thì có nhiều tình tiết ta
không hiểu rõ, về mặt nội dung
lẫn nội vụ, và diễn biến trồi
sụt trong ba năm 1956-1957-1958, án lệnh đầu
năm 1960. Rồi hậu trình kéo dài
hơn nửa thế kỷ, nay vẫn chưa chấm
dứt, thăng trầm theo thái độ hư
hư thực thực của chính quyền, ở
nhiều giai đoạn và cấp bực khác
nhau. Vậy Nhân
văn– Giai phẩm là
cái gì? Nếu là “vụ án”
thì nó không phải là văn học,
nểu là văn học thì không có
gì đáng trở thành “vụ
án”.
Giả thuyết chúng
tôi đề xuất: Nhân
văn–Giai phẩm là
mặt nổi của một tảng băng mà
phần chìm khuất quan trọng hơn nhiều:
là sự tranh chấp quyền lực nội
bộ của Đảng Lao động với
những răn đe, chuẩn bị, che chắn,
áp đặt chiến thuật và chiến
lược, trong một thời điểm cực
kỳ khó khăn và tế nhị.
Những
khó khăn nội trị do Hiệp định
Genève và dự án Tổng tuyển cử
1956 không thành, chồng chéo lên trên
khó khăn đối ngoại do báo cáo
2-1956 của Khrushchev và mối bất hoà
trầm trọng trong khối Nga-Hoa. Chưa kể
đến các cuộc nổi dậy tại Ba
Lan và Hungary, hậu quả Cải cách
ruộng đất, và nhiều yếu tố
khác mà chúng ta không biết
hết.
Nhưng quan trọng hàng đầu,
theo chúng tôi, là dự án võ
trang giải phóng miền Nam đang thành
hình.
Vì là giả thuyết,
bài này không có kết
luận.
Đặng Tiến
Orléans,
ngày 24-3-2007
Hiệu
đính 07- 3- 2016.
Nguồn:
Bài đã đăng trên Talawas ngày 5.4.2007 với tiêu đề: "1956,
Việt Nam, Giai phẩm, Nhân văn". Tác giả gửi Diễn Đàn đăng lại
nhân kỉ
niệm 60 năm vụ "Nhân văn - Giai phẩm".
© 2007
talawas (Bài
đăng đồng thời trên Thế
kỷ 21,
số đặc biệt về Nguyễn Hữu
Đang, tháng 4.2007).
[1]Brocheux
(Pierre), Hồ
Chí Minh,
tr. 230, nxb Biographie Payot, 2003, Paris
[2]Brocheux,
sđd, tr. 245, trích dẫn Yang Kuisong trong "Mao
Zedong and the War in Indochina", tham luận hội thảo
tại Hồng Kông, 11-12 tháng
1/2000
[3]Devillers
P, Lacouture J: Le
Vietnam de la Guerre française à la Guerre américaine,
tr.377, nxb Le Seuil, 1969, Paris
[4]Devillers
P, Lacouture J , sđd, tr. 231
[5]Gérard
Tongas, J’ai
vécu dans l’Enfer Communiste au Nord Vietnam et j’ai
choisi la Liberté,
tr.193, nxb Les Nouvelles Editions Debresse, 460 trang, 1960,
Paris.
[6]Gérard
Tongas, sđd, tr. 431, 423
[7]Gérard
Tongas, sđd tr. 230
[8]Đặng
Phong, Lịch
sử kinh tế Việt Nam,
tập II, tr. 97, nxb Khoa học Xã hội, 1200
trang, 2005, Hà Nội.
[9]Tố
Hữu, Nhớ
lại một thời,
tr. 321-322 ; nxb Chính trị Quốc gia, 2000, Hà
Nội, trích theo Đặng Phong, tr. 97.
[10]Lê
Đạt, Nguyễn Hữu Đang trả lời
phỏng vấn, Hợp
Lưu,
tạp chí, số 81, tháng 2/3-2005, tr.34 và
77, California.
[11]Trường
Chinh, báo cáo trước Mặt trận Tổ
quốc ngày 13-3-1958
[12]Trường
Chinh, như trên; trích theo Bọn
Nhân văn-Giai phẩm trước toà án
dư luận,
tr.368, nxb Sự thật, Hà Nội, 1959.
[13]Trả
lời Thuỵ Khuê, Hợp
Lưu,
số 81 đã dẫn, tr. 34-35
[14]Brocheux,
sđd, tr. 234
[15]Tô
Hoài, Cát
bụi chân ai,
tr. 117, nxb Hội Nhà văn, 1992, Hà
Nội
[16]SFIO
= Section Française de l’Internationale Ouvrière
(1905-1969), Phân bộ Pháp của Quốc tế
Lao động.
[17]Maurice
Durand (1914-1966), sinh tại Hà Nội, mẹ
Việt, là một học giả uyên thâm,
đã viết: Chùa Một Cột
(1949), Chinh
phụ ngâm (1953), Kiến
thức Việt Nam (Connaissances
du Vietnam, 1954), Lên
đồng (1959), Cảm
từ (Impressifs) trong
tiếng Việt (1961),
Phan Trần (1962), Tranh
tượng dân gian Việt Nam (1969),
v v. Gần đây, Hà Nội có xuất
bản công trình Thế
giới truyện Nôm (L’Univers
des truyện Nôm) của ông, nxb Văn hoá,
1998. Đinh Gia Khánh đã viết tựa
đại cà sa, hết lời ca ngợi. Ông
ấy thôi làm gián điệp?
[18]Gerard
Tongas, sđd, tr. 206
[19]Trần
Dần, Ghi
1954-1960,
tr 240, nxb tdmemoire, 450 trang, 2001, Paris.
[20]Trần
Dần, Ghi,
sđ d, tr.144
[21]Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
tập II, tr.80, nxb Chính trị Quốc gia, 1955,
Hà Nội
Các thao tác trên Tài liệu