Thích Trí Quang và chiến tranh Việt Nam
“
Chỉ
có tôn giáo là đáng kể ở
Việt Nam ” :
Thích Trí Quang và Chiến
tranh Việt Nam
JAMES McALLISTER
Trần Ngọc Cư dịch
Tóm tắt
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc. Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.
Khó
có thể xem nhẹ vai trò quan trọng của
Thích Trí Quang trong việc tìm hiểu
quá trình diễn biến của Chiến
tranh Việt Nam. Sau khi Tổng thống Ngô Đình
Diệm dùng bạo lực đàn áp
các cuộc biểu tình phản kháng
của Phật giáo tháng Năm 1963, Trí
Quang đã đóng một vai chủ yếu
trong việc sách động và duy trì
cuộc khủng hoảng chính trị lâu
dài, một cuộc khủng hoảng cuối
cùng đã dẫn đến sự sụp
đổ của Diệm vào tháng Mười
Một 1963. Không chịu trở về với
vị trí bên lề của trường
chính trị sau khi Diệm và người
em là Ngô Đình Nhu bị giết, Trí
Quang tiếp tục vận dụng ảnh hưởng
to lớn của mình lên sinh mệnh chính
trị của Miền Nam bằng cách ban bố
hay từ chối hậu thuẫn của mình
cho nhiều chế độ quân nhân khác
nhau, những chế độ đã điều
hành quốc gia từ 1964 đến 1966.
Với
khả năng hiển nhiên, bằng cách
huy động cả Phật tử lẫn sinh viên
tranh đấu, Trí Quang có thể đưa
Miền Nam vào tình trạng vô chính
phủ, chính quyền Johnson và chính
phủ Miền Nam không còn lựa chọn
nào khác hơn là nhìn nhận
quyền lực và ảnh hưởng đáng
sợ của ông. Được công nhận
rộng rãi là lực tác động
tinh thần và trí thức chủ yếu
đằng sau phong trào tranh đấu Phật
giáo, Trí Quang đã châm ngòi
một loạt phản kháng mãnh liệt,
một cao trào đã thực sự giành
quyền kiểm soát vài thành thị
miền Nam vào mùa xuân 1966. Mặc dù
cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo
rộng lớn không trụ được như
một thế lực chính trị hùng hậu
sau cuộc khủng hoảng 1966, nhưng ít,
nếu có, cá nhân nào ở Miền
Nam có được ảnh hưởng to lớn
hơn ông trên diễn biến của cuộc
chiến Việt Nam trong thời kì từ 1963
đến 1966. Đáng tiếc là, các
sử gia đương thời vẫn chỉ biết
được rất ít ỏi về những
mục tiêu và động lực chính
trị của Trí Quang trong giai đoạn
nghiêm trọng này của Chiến tranh Việt
Nam. Cũng như nhiều yếu nhân khác
ở Miền Nam, những nhân vật chính
trị và tôn giáo như Trí Quang
rõ ràng là ít được giới
sử gia về quan hệ đối ngoại của
Mĩ quan tâm; những sử gia này vẫn
tiếp tục dành sự chú ý ưu
tiên cho tiến trình hoạch định
chính sách tại Washington, chiến lược
quân sự hay những nỗ lực ngoại
giao nhằm chấm dứt chiến tranh qua các
cuộc đàm phán. Như George Herring đã
nhận xét từ lâu : “Sự
tương
tác giữa người Mĩ và người
Miền Nam Việt Nam là một trong những
lãnh vực ít triển khai nhất trong kho
tư liệu ngày một nở rộ về
Chiến tranh Việt Nam. Người ta càng
viết nhiều về cuộc chiến bao nhiêu,
thì người Miền Nam càng nổi cộm
vì sự vắng mặt của họ trong các
sử sách bấy nhiêu, và cho đến
nay hầu như vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào về những quan hệ
của họ với Hoa Kì ” (1).
Sự thiếu quan tâm của giới học
giả dành cho Trí Quang và cho mối
quan hệ của ông với các giới
chức Mĩ là điều đặc biệt
đáng tiếc bởi vì chắc chắn
không thiếu gì các nguồn tư liệu
trực tiếp (primary sources) để các sử
gia nghiên cứu. Các giới chức Mĩ
thường xuyên gặp gỡ Trí Quang
suốt những năm 1964 – 1966 ; những cuộc
đàm thoại này đủ cung ứng
một cái nhìn toàn diện về
những tín lí của ông đối
với hàng loạt vấn đề. Mặc
dù Trí Quang trên một số mặt
nào đó vẫn còn là một
nhân vật mà giới sử gia khó nắm
bắt, nhưng những tương tác giữa
ông và giới chức Mĩ có thể
cung ứng một nguồn tư liệu không
thể thiếu và chưa được sử
dụng đúng mức cho việc tìm hiểu
cả phong trào Phật giáo lẫn sự
thất bại chính trị to lớn của Mĩ
tại Miền Nam (2).
Trí
Quang là một nhân vật gây nhiều
tranh cãi vào thời cao điểm của
Chiến tranh Việt Nam, và hơn 40 năm sau
ông vẫn còn như thế. Gần đây,
một số sử gia đã duyệt xét
lại nhân vật Trí Quang và phong trào
Phật giáo và đã đi đến
những kết luận rất khác nhau về
mục tiêu và động lực của
nhà sư này. Trong một bài viết
khá sôi nổi công bố năm 2004,
Mark Moyar cho rằng Trí Quang “ hoặc
đã
liên minh với Cộng sản, hoặc nếu
không thì cũng nuôi hoang tưởng
ông có thể chặn đứng Cộng
sản mà không cần đến một
chính quyền mạnh, thân Mĩ ” (3).
Luận điểm đầu [tức Trí Quang
liên minh với Cộng sản] rõ ràng
là điều mà Moyar tin là gần với
sự thật hơn. Trong cáo buộc cho rằng
Trí Quang là tay sai Cộng sản, Moyar viết
: “ Nhìn chung, chứng
liệu (evidence) đã
yểm trợ cho quan điểm này, mặc dù
không có bằng chứng tuyệt đối
(absolute proof) ” (4).
Khi đưa ra luận điểm này, mặc
dù với một hồ sơ tài liệu
có thực chất hơn, Moyar cũng chưa
hẳn đã khai mở được điều
gì mới lạ cho sử học bởi vì
các kí giả trong trong thời Chiến
tranh Việt Nam như Marguerite Higgins, Richard Critchfield
và Robert Shaplen cũng từng đưa ra luận
điểm này khi họ viết về cuộc
chiến (5).
Tuy nhiên, như chính Moyar cũng nhìn
nhận, các quan chức của chính phủ
Mĩ, những người có đủ mọi
lí do tự lợi (self-interested) để kết
luận Trí Quang là Cộng sản, lại
trước sau như một đã bác bỏ
cách đánh giá này. Như các
nhà phân tích của CIA đã kết
luận tháng Chín 1964 : “ Không
một
ai trong số nhiều người Việt thù
ghét Trí Quang, những kẻ chỉ chờ
cơ hội để bôi nhọ ông, hay
thậm chí những kẻ hoài nghi về
động lực chính trị của ông,
có thể đưa ra bằng chứng vững
chắc về bất cứ liên kết nào
hiện có giữa ông và Cộng sản
(6)
”. Giới tình báo Mĩ và Sứ
quán Mĩ ở Sài gòn không bao giờ
do dự trong cách đánh giá của
họ về những động lực chính
trị của Trí Quang, ngay cả vào thời
cao điểm của cuộc khủng hoảng Phật
giáo năm 1966, mặc dù các viên
chức quan trọng như Henry Cabot Lodge và
Maxwell Taylor về sau này lại chấp nhận
luận điểm của Moyar một cách trễ
tràng và thiếu bằng chứng. Vào
thời đó và cả ngay bây giờ,
người ta vẫn có nhiều lí lẽ
rất thuyết phục để phản bác
luận cứ cho rằng Trí Quang cố tình
làm tay sai cho Cộng sản hay thậm chí
trên bình diện trí thức đã
có thiện cảm với chương trình
chính trị của MTDTGPMN. Sự thể về
sau này Trí Quang bị chế độ Cộng
sản hành hạ và phải sống trong
tình trạng quản thúc ở Việt Nam
thời hậu chiến chỉ là một trong
nhiều lí do để hoài nghi luận
điểm của Higgins/Moyar (7).
Quan điểm
phê phán Trí Quang của Moyar bị chi
phối bởi sự hậu thuẫn mạnh mẽ
mà ông ta dành cho những người
Miền Nam quyết tâm chống Cộng và
chống MTDTGPMN. Một hình ảnh anh hùng
và khả ái hơn nhiều của Trí
Quang có thể được tìm thấy
trong cuốn sách của Robert Topmiller, The Lotus
Unleashed : The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966
(Hoa sen tự do : Phong
trào Hoà bình Phật
giáo ở Miền Nam Việt Nam, 1964-1966). Vốn
có nhiều thiện cảm với Trí
Quang và thường chỉ trích gay gắt
việc Mĩ can thiệp vào nội bộ Việt
Nam, Topmiller tin rằng mục tiêu chính của
cánh Trí Quang trong phong trào Phật giáo
là “ thành lập một
chính phủ
dân sự bằng các cuộc tuyển cử
tự do với ý định mời MTDTGPMN
tham gia một chính phủ trung lập ”
(8).
Theo cách mô tả của Topmiller, sự va
chạm giữa chính quyền Johnson và Trí
Quang phần lớn có gốc rễ trong những
viễn kiến và thế giới quan xung khắc
nhau. Phía Phật giáo và Trí Quang
quyết theo đuổi hoà bình, dân
chủ và muốn thương thuyết để
tức thời chấm dứt cuộc chiến. Vì
chính quyền Johnson chống lại quan điểm
của phe Phật giáo về cuộc chiến,
theo Topmiller, chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi Trí Quang và người Mĩ
rốt cuộc đã không đội trời
chung. Mặc dù chắc chắn có nhiều
điều đáng tiếp thu từ cách
tường thuật của Topmiller về phong trào
Phật giáo, nhưng tiểu sử Thích
Trí Quang và mối quan hệ giữa ông
và Hoa Kì còn nhiều chỗ phức
tạp hơn những điều sử gia này
muốn nói. Đặc biệt ở phần
bàn về Thích Trí Quang trong thời
gian trước khủng hoảng 1966, Topmiller hoàn
toàn không đếm xỉa đến những
chứng liệu (documentary evidence) đi ngược
luận điểm của ông (9).
Từ tường thuật của Topmiller, người
ta không thể ngờ được rằng
Trí Quang thường rất thân Mỹ và
chống Cộng gay gắt, hoàn toàn không
quan tâm đến những nguyên tắc phổ
quát về dân chủ và tự do ngôn
luận, và cực kì hiếu chiến
trong quan điểm về phương sách điều
hành cuộc chiến. Mặc dù hẳn
nhiên là có một phong trào Phật
giáo đối kháng quan trọng ở Miền
Nam, nhưng người ta lại hoàn toàn
sai lạc khi cho rằng “hoà bình”
là một trong những mục tiêu hàng
đầu của Trí Quang. Trí Quang hiếm
khi có luận điệu bênh vực cho một
Miền Nam trung lập hay cổ vũ cho việc
theo đuổi bất cứ một cuộc đàm
phán nào với MTDTGPMN trước khi Hoa Kì
và VNCH nắm được thế thắng
trên chiến trường. Chắc chắn là,
cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo
nói chung đôi khi có bày tỏ
thái độ chống Mĩ và/hoặc
hậu thuẫn một giải pháp trung lập
rất mơ hồ cho cuộc chiến ở Việt
Nam. Tuy nhiên, cái hình ảnh quá
giản lược về Trí Quang như một
nhà dân chủ, dấn thân cho hoà
bình với quyết tâm chấm dứt cuộc
chiến càng sớm càng hay, là luận
cứ không thể đứng vững cũng
như cái hình ảnh một Trí Quang
tay sai của Cộng sản vậy. Trí Quang
chẳng phải là một người Cộng
sản, mà cũng chẳng phải là một
người tranh đấu vì dân chủ
và hoà bình. Ông là một nhân
vật bị chính trị hoá cao độ,
một người nhìn hầu hết mọi
vụ việc ở Miền Nam Việt Nam qua lăng
kính của một cuộc xung đột cơ
bản tôn giáo giữa Phật giáo và
Công giáo. Trí Quang cho rằng: “Ngay
cả người Công giáo tốt cũng
khó được lòng dân” (10).
Dù đúng dù sai, Trí Quang đã
chống lại nhiều chính phủ liên
tiếp ở Miền Nam vì những lí do
ít liên quan hoặc chẳng liên quan gì
đến việc cố tình phá hoại
nỗ lực chiến tranh, như giả thuyết
của Moyar, hay liên quan đến việc chấm
dứt chiến tranh và thiết lập một
chế độ dân chủ dân sự, như
luận cứ của Topmiller. Trong khi các quan
chức Mĩ muốn có một chính phủ
ổn định ở Miền Nam trên hết
và trước hết, thì Trí Quang lại
muốn thấy một chế độ “cách
mạng”, một chế độ mà ông
định nghĩa là thực sự không
còn ảnh hưởng của người Công
giáo, tàn dư của Diệm hay Cần
Lao. Tất nhiên, vấn đề chính ở
đây là, Trí Quang thường hàm
ý chỉ có một mình ông mới
có thẩm quyền quyết định tính
chính đáng (legitimacy) của các chế
độ ở Miền Nam, cũng như quyền
giải nhiệm những chế độ này
nếu chúng không thoả mãn những
đòi hỏi cuả ông. Xung đột
giữa Trí Quang và chính quyền
Johnson một phần lớn là vì Trí
Quang muốn trở thành một nhân vật
duy nhất có quyền lựa chọn lãnh
đạo cho chính trường Miền Nam, chứ
không phải vì quan hệ với Cộng
sản, hay vì có khuynh hướng trung lập
hay vì thiếu nhiệt tình chống cộng,
như một số người đã gán
ghép cho ông.
Thích Trí Quang và hậu quả cuả việc lật đổ Diệm
Những
người hoạch định chính sách
Mĩ ít khi bận tâm về vai trò
chính trị của Phật giáo ở Miền
Nam trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng
tháng Năm 1963, cuộc khủng hoảng rốt
cuộc đã đưa đến việc lật
đổ Ngô Đình Diệm vào cuối
năm đó. Mặc dù các quan chức
Mĩ không nghĩ rằng Phật giáo sẽ
lặng lẽ trở về với vai trò phi
chính trị mà Phật giáo đã
giữ dưới chế độ Diệm, nhưng
ít có dấu hiệu gì chứng tỏ
người Mĩ quan ngại về khả năng
xung đột với phong trào Phật giáo
trong tương lai. Việc chính bản thân
Trí Quang lãnh đạo một phong trào
hầu như là nổi dậy chống chính
quyền Miền Nam chưa đầy ba năm sau
khi ông ta được phép tị nạn
trong Toà Đại sứ Hoa Kì ở Sài
gòn là điều người Mĩ không
thể tưởng tượng nỗi. Dù sao
đi nữa, bất chấp những lí do tự
lợi khi cho Trí Quang tị nạn, chính
quyền Kennedy và Đại sứ Henry Cabot
Lodge Jr. cũng đã tự mình đứng
hẳn về phiá Phật giáo trong cuộc
tranh đấu của họ chống lại chế
độ Diệm. Chính bản thân Trí
Quang đã rõ ràng bày tỏ sự
biết ơn của ông đối với hậu
thuẫn của Mĩ. Trong thư riêng gửi
cho Lodge để xin tị nạn trong sứ quán
Mĩ, Trí Quang viết ông hi vọng “
đất nước của tự do
” sẽ
không giao nộp ông cho chính phủ Diệm,
“ nhất là khi Hoa Kỳ
đang giúp
nhân dân chúng tôi gìn giữ tự
do ” (11).
Chỉ ba tuần lễ sau cuộc đảo chánh
thành công, ông hoan nghênh việc người
Mĩ tiếp tục can thiệp vào nội
tình Miền Nam với tất cả hăng
say, không một chút e dè. Trong khi phân
ưu về cái chết của Tổng thống
Kennedy, Trí Quang nói với một viên
chức Toà Đại sứ Mĩ rằng Hoa
Kì “phải tiếp tục sử
dụng
và gia tăng ảnh hưởng tốt đẹp
của mình để ngăn ngừa khả
năng có thêm đảo chánh hay chế
độ Diệm hồi sinh và để, nếu
cần, bảo vệ nhân dân Việt Nam
khỏi những lạm quyền của chính
phủ họ”. Khi được giải thích
một phát biểu như thế có thể
dấy lên nỗi sợ hãi chính đáng
về chủ nghĩa thực dân Mĩ, Trí
Quang cho rằng Hoa Kì không nên lo sợ
những luận điệu như thế bởi
vì “ nhân dân sẽ thực
sự
cảm thấy an ninh hơn khi biết Hoa Kì
hành động như một người bảo
hộ ” (12).
Mặc
dù Trí Quang không lo ngại gì về
chủ nghĩa thực dân Mĩ vào tháng
Mười Một 1963, nhưng từ đầu
ông đã bận tâm về bản chất
của chế độ Miền Nam, cái chế
độ vừa thay chế độ Diệm. Thật
ra, tất cả nguyên nhân căng thẳng
trong tương lai giữa Trí Quang và chính
phủ Mĩ đã có sẵn từ ban
đầu. Chính quyền Johnson kì vọng
rằng cuộc đảo chánh lật đổ
Diệm sẽ dẫn đến sự đoàn
kết quốc gia rộng rãi hơn và
mang lại một chính phủ ổn định
có khả năng theo đuổi cuộc chiến
hữu hiệu hơn trước. Chỉ nội
cái việc nghiêm khắc duyệt xét
bản chất của chế độ Diệm,
đừng nói chi đến việc thanh lọc
bộ máy hành chính và quân sự,
trên cơ bản sẽ mâu thuẫn với
mục tiêu ổn định bởi vì hầu
như mọi viên chức trong chính phủ
và quân đội Miền Nam trong một
cách nào đó đều có thể
mang nhãn hiệu là tàn dư của
Diệm (a former Diemist). Hoặc vì xác tín
hoặc vì nhu cầu chiến thuật, chính
quyền Johnson bác bỏ ý kiến cho rằng
chính phủ Miền Nam cần được
cải tổ triệt để hoặc cần
phải thanh lọc nhân viên. Nhưng, Trí
Quang không bao giờ chấp nhận quan niệm
cho rằng cuộc xung đột tôn giáo
và điều ông cho là cuộc đàn
áp Phật giáo bởi bàn tay của
người Công giáo là một vấn
đề được giải quyết dứt
khoát bằng việc lật đổ Diệm-Nhu.
Mặc dù tuyên bố rằng ông sẽ
thẩm định chính phủ mới trên
cơ sở thành thích hoạt động,
nhưng Trí Quang lo ngại rằng bản thân
nhiều thành viên trong nhóm âm mưu
đảo chánh vốn là người của
Diệm. Ông lí giải rằng sở dĩ
họ tham gia đảo chánh “
bởi vì
họ sợ Diệm và Nhu làm mất lòng
Hoa Kì hơn là vì chính bản
thân họ tin rằng chế độ cũ cơ
bản là sai trái ” (13).
Khoảng tháng Mười Hai 1963, Trí Quang
đã bày tỏ với một số viên
chức Hoa Kì rằng ông sẽ hoan nghênh
một cuộc đảo chính nữa nếu
biến cố này có thể lật đổ
Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, một
nhân vật quan trọng trong chế độ
Diệm (14).
Không
có gì chứng tỏ rằng Trí Quang
đã đóng bất cứ một vai trò
nào trong cuộc đảo chánh lật đổ
Tướng Dương Văn Minh vào tháng
Giêng 1964. Một số sử gia, như George
McT. Kahin và Robert Topmiller, lí luận rằng
Minh bị lật đổ bởi vì ông
có những mưu toan chấm dứt chiến
tranh và có ý định sẵn sàng
chấp nhận một Miền Nam trung lập hoá.
Cả Kahin lẫn Topmiller tin rằng chí ít
Minh cũng nhận được hậu thuẫn
ngấm ngầm của giới lãnh đạo
Phật giáo trong việc tìm một lối
ra khỏi cuộc chiến ngày một lan rộng
tại Việt Nam (15).
Quan điểm này có vài mức độ
khả tín vì người đứng đầu
cuộc đảo chính, Tướng Nguyễn
Khánh, lúc bấy giờ đã tuyên
bố rằng ông thực hiện cuộc đảo
chánh chính vì ông lo ngại Minh và
một số tướng lãnh khác có
thái độ thân Pháp và nghiêng
về chủ trương một Việt Nam trung
lập. Tuy nhiên, lối lí giải này
có vấn đề là, ít ai tưởng
tượng được rằng Minh đã
tích cực theo đuổi một giải pháp
trung lập để chấm dứt cuộc chiến.
Như David Kaiser đã nhận xét đúng
đắn, cho đến nay người ta vẫn
chưa thấy xuất hiện chứng liệu
vững chắc hậu thuẫn cho những lí
lẽ mà Nguyễn Khánh đưa ra, rằng
Minh đang liên minh với Pháp để
tiến tới một giải pháp trung lập
cho Việt Nam (16).
Mặc
dù cái gọi là cuộc xung đột
giữa Tướng Khánh diều hâu và
Tướng Minh Phật tử chủ hòa rất
có thể chỉ là một cuộc xung đột
có tính huyền thoại, nhưng vào
đầu năm 1964, quan điểm của cá
nhân Trí Quang về bản chất cuộc
chiến tại Việt Nam thì gần gũi
với quan điểm được công bố
của Tướng Khánh hơn là gần
gũi với quan điểm trung lập được
rêu rao là của Tướng Minh. Trong các
cuộc đàm luận với một số
viên chức Mĩ vào đầu năm
1964, Trí Quang quan tâm nhiều về việc
điều hành cuộc chiến có hiệu
quả hơn là quan tâm đến việc
chấm dứt chiến tranh. Mặc dù thoạt
đầu ông chống lại quan niệm cho
rằng cần phải có các vị tuyên
úy trong quân đội Miền Nam, nhưng
vào thời điểm này Trí Quang lại
nghĩ rằng quân đội cần đến
các tuyên úy Phật giáo và
Công giáo để nâng cao “tinh
thần
chống Cộng” của binh lính (17).
Cũng như Khánh và những tướng
lãnh chủ chiến thân cận với
Khánh, Trí Quang rất quan ngại về
những nỗ lực được cho là của
nước Pháp muốn tái khẳng định
quyền lực ở trong vùng. Thật vậy,
không một nhà lãnh đạo Việt
Nam nào trước sau như một bày tỏ
sự thù nghịch đối với ảnh
hưởng của Pháp mãnh liệt như
Trí Quang. Ông nói với các viên
chức Mĩ, nếu Pháp trở lại Việt
Nam, điều này sẽ dẫn đến
“cái chết của chính cá
nhân
ông cũng như dẫn đến sự trỗi
dậy của Công giáo, gây phương
hại cho Phật giáo Việt Nam” (18).
Sau cùng, bất chấp ý nghĩa quan trọng
hiển nhiên của tinh thần bất bạo
động trong tín lí Phật giáo,
Trí Quang ủng hộ một đường
lối quân sự mạnh mẽ. Trong một
buổi đàm luận với J.D. Rosenthal của
Toà Đại sứ Mĩ ở Sài gòn
vào tháng Tư 1964, “Trí
Quang chủ
động nói rằng ông sẽ chấp
nhận ý kiến cho quân vượt qua
biên giới, tiến vào lãnh thổ
Lào để cắt đứt đường
tiếp tế của Việt Cộng, và ông
cũng rất hồ hởi về trận dội
bom ban đêm đầu tiên của Không
quân Việt Nam nhắm vào các căn
cứ VC. Tôi hỏi ông nghĩ gì về
khả năng tấn công Bắc Việt, thì
ông nói ông ủng hộ việc đó
nếu cuộc tấn công có thể được
thực hiện mà không lôi kéo Nga
hay Trung Cộng vào cuộc chiến ” (19).
Cũng
dễ hiểu là các giới chức Hoa Kì
lo ngại về nhiều khía cạnh của
tình hình Việt Nam vào đầu năm
1964, nhưng họ không mảy may lo ngại khả
năng phong trào Phật giáo có thể
chuyển qua một chiều hướng thiên
trung lập và chống Mĩ. Trong một phân
tích quan trọng về tình hình Phật
giáo từ khi chế độ Diệm sụp
đổ, Đại sứ quán Mĩ kết
luận rằng tất cả các lãnh đạo
Phật giáo cấp cao đều có khuynh
hướng thân Mĩ và rằng dù
đến một lúc nào đó phong
trào có bị giới lãnh đạo
“cơ hội chủ nghĩa” chi phối,
thì những mục tiêu của phe Phật
giáo và của Hoa Kì vẫn còn
tương hợp vì cả hai phía đều
sợ trung lập và sợ sự thống trị
của cộng sản (20).
Dấu hiệu đầu tiên về sự xung
đột giữa Trí Quang và Hoa Kì
loé lên là do các vụ án xử
Ngô Đình Cẩn, em trai của Diệm,
người đã cai trị Miền Trung bằng
bàn tay sắt, và Thiếu tá Đặng
Sỹ, một sĩ quan quân đội đã
ra lệnh nổ súng vào các Phật
tử biểu tình tháng Năm 1963. Vì
sợ rằng người Công giáo Mĩ
và dư luận thế giới phản đối
chế độ mới nếu chế độ
này có vẻ như đang tiến hành
cùng một dạng thức đàn áp
tôn giáo mà Diệm đã thực
hiện trước đó, Lodge muốn Khánh
phải tự kiềm chế và xoa dịu
những cuồng nộ chừng nào hay chừng
ấy. Chẳng lạ gì, chính phủ
Khánh cũng sợ mang tiếng là quá
dung túng người chế độ Diệm
và không chịu lắng nghe những kêu
đòi công lí cuả phe Phật giáo.
Rõ ràng là, chính vì sự kiện
cả Cẩn và Thiếu tá Đặng Sỹ
đã gây tội ác trên căn cứ
địa Miền Trung của ông và ở
thành phố Huế mà Trí Quang đã
bác bỏ bản án khoan hồng. Khi khuyến
cáo Lodge uy tín của ông đại sứ
sẽ bị tổn thương nếu dân
chúng biết được ông chống
đối việc xử tử Cẩn, Trí
Quang cho rằng việc xử tử Cẩn là
điều cần thiết để chứng tỏ
rằng “đám người cũ của
Diệm” không còn quyền lực. Trong
một cuộc gặp gỡ Lodge vào tháng
Tư 1964, Trí Quang cảnh báo rằng cuộc
chiến đấu chống cộng và hậu
thuẫn của Phật giáo dành cho Hoa Kì
sẽ bị suy giảm nếu Cẩn không bị
hành quyết (21).
Giới
chức Mĩ rất quan ngại về việc Trí
Quang chống đối chế độ Khánh,
nhưng họ để ngoài tai những báo
cáo cho rằng hành động chống đối
này phát xuất từ những móc nối
mờ ám với cộng sản. Tháng Năm
1964, Lodge gửi về Washington một báo cáo
từ một nguồn tin cho rằng phong trào
Phật giáo đang bị cộng sản lợi
dụng nhằm kích động tình cảm
chống Mĩ trên khắp Miền Nam. Mặc
dù ca ngợi nguồn tin của mình là
một người trong quá khứ đã
từng đưa tin “cực kì chính
xác”, nhưng Lodge vẫn thận trọng
ghi lại ý kiến riêng là ông cảm
thấy bản báo cáo này đã
“nói quá đáng” (22).
Lodge và nhiều viên chức khác e ngại
rằng Trí Quang “có tiềm
năng của
một người gây rối loạn” (a
potential troublemaker) và lo lắng khi thấy Trí
Quang tỏ ra chống Công giáo hăng say
hơn chống cộng ; nhưng điều này
chưa hẳn có nghĩa là những bất
đồng với Trí Quang tiêu biểu cho
những vấn đề có tầm mức
nghiêm trọng (23).
Lodge rất lạc quan về quan hệ của Mĩ
với phe Phật giáo sau một bữa ăn
rất thân mật với Trí Quang và
các chức sắc hàng đầu của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất (GHPGVNTN) vào cuối tháng Năm
1964. Mặc dù Trí Quang vẫn là một
nhân vật chính trị có tiềm năng
nguy hiểm, nhưng Lodge nghĩ rằng Trí
Quang vẫn còn biết ơn Hoa Kì đã
cứu mạng và còn chấp nhận ảnh
hưởng của Mĩ. Trong một cách thế
gần như là một nỗ lực nhằm
trấn an viên đại sứ Mĩ, một
cách thế mà một chính trị gia
lão luyện như Lodge chắc phải biết,
Trí Quang và các lãnh đạo khác
của Phật giáo nói rõ rằng mặc
dù quan điểm thân Mĩ của họ
là thành thật, nhưng “người
Mĩ đừng kì vọng họ có thể
bộc lộ công khai, vì làm như thế
có nghĩa là làm hỏng vai trò
tôn giáo cuả họ” (24).
Thật vậy, Trí Quang lí giải với
một số viên chức Mĩ vào cuối
tháng Năm 1964 rằng việc một vài
phần tử trong báo giới nước ngoài
chụp mũ ông cộng sản là một
điều có lợi, vì nó giúp
ông “ hoạt động hữu
hiệu hơn
trong nỗ lực âm thầm chống lại
ảnh hưởng của Việt Cộng trong giới
tín đồ đã biết rất rõ
bản thân ông không phải là cộng
sản ” (25).
Trí Quang vẫn không chịu làm hoà
với chính phủ Nguyễn Khánh, một
chính phủ mà ông cho là chưa
thật sự cách mạng vì nó không
chịu mạnh tay đối với tàn dư
của chế độ Diệm. Nhưng mặt
khác, Trí Quang lại rất thoải mái
với giọng điệu ngày một hiếu
chiến về một cuộc “bắc tiến”
mà Khánh và các tướng lãnh
hô hào vào mùa hè 1964. Dù
nhìn nhận rằng một nhà lãnh
đạo Phật giáo mà cổ vũ bạo
lực là điều bất thường,
nhưng Trí Quang vẫn bênh vực “ những
biện pháp quân sự mạnh mẽ ”
vì ông cho rằng “ nếu
chiến
tranh tiếp tục kéo dài ở mức độ
hiện nay con số tổn thất nhân mạng
sẽ cao hơn so với sự thiệt hại do
một trận đánh chớp nhoáng hơn
dù trong khoảnh khắc có thể đẫm
máu hơn ” (26=.
Khi Mỹ cho máy bay tấn công Miền Bắc
tháng Tám 1964, Trí Quang nói với
một viên chức Toà Đại sứ
rằng hàng lãnh đạo Phật giáo
cũng như “nhân dân” đều
tán thành những cuộc tấn công
đó vì sử dụng biện pháp
quân sự mạnh mẽ có nghĩa là
biểu lộ “quyết tâm” của
chúng ta (27).
Dù
ông ủng hộ hành động quân
sự chống lại Bắc Việt, nhưng chẳng
bao lâu Trí Quang trở thành chướng
ngại lớn nhất cho chính quyền Johnson
trên bước đường tiến tới
việc điều hành cuộc chiến quyết
liệt hơn. Ngay sau đợt Mĩ dội bom
Miền Bắc, Tướng Khánh tuyên bố
tình trạng khẩn trương trên toàn
lãnh thổ, một sắc lệnh cho phép
chính phủ ông dùng công an để
kiểm soát toàn diện mọi sinh hoạt
chính trị. Phản ứng ban đầu của
Trí Quang đối với sắc lệnh này
là ủng hộ, nhưng ông lại sợ
Khánh “ không đủ khôn
ngoan hoặc
đủ mạnh để thực thi sắc lệnh
mới một cách hữu hiệu ”. Theo ý
ông, dân chúng chỉ ủng hộ quyền
hành mới của Khánh nếu viên
tướng này chịu sử dụng nó
để nhiên hậu thực thi “cuộc
cách mạng” và triệt hạ toàn
bộ dư đảng Cần Lao và giới
thân cận chế độ Diệm (28).
Liền sau khi Khánh ban hành bản hiến
pháp mới, gọi là Hiến chương
Vũng Tàu, Trí Quang đi đến kết
luận dứt khoát là Khánh không
muốn thực hiện cuộc “cách mạng”.
Nếu Khánh không chịu tự nguyện
làm điều phải làm, Trí Quang
thông báo cho Toà Đại sứ Mĩ
biết, Phật tử không còn con đường
nào khác hơn là lao mình vào
một cuộc vận động “bất hợp
tác”, điều này có nghĩa là
buộc Khánh phải lựa chọn dứt
khoát giữa một bên là giới Phật
tử và bên kia các sĩ quan quân
đội mà Trí Quang cho là đảng
viên Cần Lao hoặc Đại Việt. Bởi
vì nhìn từ bên ngoài không có
sự khác biệt giữa bị cộng sản
hay bị Cần Lao đàn áp, Trí
Quang cảnh báo, đồng bào Phật tử
sẽ rút lui khỏi cuộc chiến đấu
chống cộng và phó mặc cho người
Mĩ và người Công giáo đánh
giặc một mình nếu Khánh không
thanh lọc chính phủ của ông ta (29).
Nếu những nhà hoạch định chính sách Hoa Kì có mối hoài nghi nào về sức mạnh của Trí Quang trong việc khuynh loát tình hình chính trị Miền Nam, thì những hoài nghi đó chắc chắn bị xua tan bởi những cuộc phản kháng và biểu tình bạo động bộc phát trong nhiều thành thị Việt Nam vào cuối tháng Tám 1964. Ảnh hưởng của Trí Quang lên nội dung của những cuộc phản kháng này thật là rõ nét bởi vì một trong những mối bất bình chính được những người biểu tình bày tỏ là, họ nhận thấy có quá nhiều người thân cận với Diệm trước đây trong chính phủ hiện tại. Giới chức Mĩ muốn Khánh hành động quyết liệt để vãn hồi trật tự ở Sài Gòn và nhiều thành phố khác, nhưng thay vì như vậy Khánh lại quyết định gần như đặt tương lai của chế độ ông vào trong tay Trí Quang và phe Phật giáo. Trước sự vô cùng sửng sốt của Toà Đại sứ Mĩ và giới lãnh đạo quân sự Miền Nam, Khánh không muốn liều lĩnh đương đầu một mất một còn với Trí Quang. Theo quan điểm của Trung tướng Trần Thiện Khiêm, những đòi hỏi của Trí Quang được dân chúng tin theo quá nhiều khiến Khánh không thể làm ngơ : “ Khánh cảm thấy không còn lựa chọn nào hơn là phải chấp nhận, vì thanh thế của Trí Quang lớn đến nỗi ông không những có thể sách động dân chúng chống chính phủ mà còn tác động lên hiệu năng của toàn quân ” (30).
Các giới
chức Hoa Kỳ thường xuyên tiếp xúc
với Trí Quang suốt thời gian xảy ra
cuộc khủng hoảng chính trị và
nhiều lần cố gắng một cách vô
ích nhằm thuyết phục ông ta từ
bỏ cuộc đối đầu công khai.
Khác với lúc xảy ra cuộc khủng
hoảng 1963, bây giờ các quan chức Hoa
Kì nhận thấy gần như không có
bằng chứng cụ thể để bênh
vực những ta thán của phe Phật giáo
là họ bị chính phủ Khánh đàn
áp. Đợt phản kháng và biểu
tình tái diễn chẳng bao lâu sau vụ
Mĩ dội bom Bắc Việt, điều mà
chính Trí Quang đã cổ vũ trước
đây, bị nhiều giới chức Mĩ
coi như thiển cận và là một hành
vi phản bội. Các giới chức Mĩ cho
rằng tình hình Miền Nam nguy ngập đến
nỗi mọi bất đồng giữa Phật
giáo và Công giáo cần phải đặt
dưới ưu tiên của cuộc chiến
đấu chống lại “kẻ thù
chung” là Việt Cộng và Bắc
Việt. Ngược lại, Trí Quang cho rằng
giai đoạn đầu tiên và cần
thiết của cuộc chiến đấu đòi
hỏi phải thanh lọc triệt để Chính
phủ VNCH trước khi có thể đạt
được bất cứ tiến bộ nào
trong nỗ lực chống lại cộng sản
và những người ủng hộ CS. Mặc
dù Trí Quang không đạt được
mục tiêu thanh lọc hoàn toàn và
triệt để mọi phần tử bị cho
là người của chế độ Diệm
ra khỏi Chính phủ VNCH, nhưng chính
quyền Khánh bị tê liệt và người
ta không còn biết rõ ai là kẻ
đang thực sự kiểm soát công việc
chính phủ ở Sài Gòn.
Quá
bối rối trước tình hình hỗn
loạn ở Miền Nam, các nhà phân
tích CIA bèn khởi động một nỗ
lực nghiêm túc nhất nhằm xác
định thực chất các mục tiêu
và ý định của Trí Quang. Khỏi
cần phải nói, việc đánh giá
lại những động lực chính trị
của Trí Quang không làm cho người
Mĩ yên tâm lắm. Trong hai bản tường
trình rất dài, Trí Quang được
mô tả là một kẻ mị dân,
cực kì chống Công giáo, một
người theo chủ nghĩa quốc gia cuồng
tín, và một kẻ vĩ cuồng
(megalomaniac)
với mục tiêu tối hậu là
thành lập ở Miền Nam một chế độ
thần quyền Phật giáo (31).
Nhân viên CIA còn tin rằng cuối cùng
Trí Quang sẽ đòi trục xuất các
lực lượng Mĩ ra khỏi Việt Nam và
rằng ông ủng hộ một dạng thức
trung lập nào đó, mặc dù họ
nói thêm rằng quan niệm trung lập của
ông khác xa với chủ nghĩa trung lập
của De Gaulle. Mặc dù những báo cáo
này có vẻ báo động và
những đánh giá của CIA chắc chắn
có mục đích gia tăng mối quan tâm
nghiêm túc, nhưng những nhà phân
tích này vẫn bác bỏ ý kiến
cho rằng Trí Quang hoặc là một cán
bộ cộng sản hoặc là có thiện
cảm với cuộc chống đối vũ
trang tại Miền Nam. Sau khi đánh giá
kĩ lưỡng các bằng chứng do nhiều
người chỉ trích Trí Quang đưa
ra, CIA kết luận rằng không có bất
cứ bằng chứng vững chắc nào để
xác nhận giá trị của những luận
cứ cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng
của cộng sản. Nhìn vào bản chất
cá tính của Trí Quang, nhân viên
CIA kết luận: “ Khó mà
tưởng
tượng được Trí Quang chịu làm 'tay sai' cho bất cứ ai, dù đó
là Hà Nội, Bắc Kinh hay Mạc Tư
Khoa ” (32).
Vì bất cứ một nỗ lực nào
nhằm triệt hạ Trí Quang khỏi sân
khấu chính trị Việt Nam sẽ gặp
thất bại thảm hại, CIA kết luận
rằng ông ta là một “thực tế”
không thể bỏ qua được vì
“ bất cứ một chế độ
chống
cộng nào ở Miền Nam muốn có cơ
may tồn tại đều phải được
Trí Quang ủng hộ hay chí ít, chấp
nhận ” (33).
Sau
khi cuộc khủng hoảng chính trị tháng
Tám 1964 lắng dịu, Trí Quang đã
làm một ngoại lệ là trấn an các
viên chức Toà Đại sứ rằng
ông không chống đối việc Mĩ
tiếp tục can thiệp vào công việc
nội bộ Miền Nam. Fredrik Logevall cho rằng :
“ [Trí] Quang và các
phần tử
tranh đấu Phật giáo khác cũng
phản đối sự gia tăng liên tục
ảnh hưởng của Mĩ ở Miền Nam
và họ càng ngày càng công
khai chống lại việc đó trong nửa
năm sau của 1964 ” (34).
Nhưng, một nhận xét như vậy về
Trí Quang lại tương phản với quan
điểm ông ta luôn luôn bày tỏ
với nhiều viên chức Toà Đại
sứ trong thời gian từ tháng Chín đến
tháng Mười Một 1964. Theo Trí Quang,
việc đả kích Chính phủ VNCH là
hoàn toàn chính đáng, nhưng ông
cho rằng các đoàn thể Phật tử
phải tránh chỉ trích Hoa Kì “ bởi
vì viện trợ Mĩ tuyệt đối cần
thiết cho cuộc chiến đấu chống
cộng ” (35).
Khi một thanh niên Phật giáo bị bắt
vì phân phát tài liệu chống Mĩ
vào đầu tháng Chín, Trí Quang
bèn cố gắng thuyết phục người
Mĩ không nên quảng diễn sai lầm về
hành vi đó. Trí Quang lí giải :
“ Tín đồ Phật giáo nhất
định là không chống Mĩ; trái
lại, họ rất tin tưởng thành tâm
thiện chí của người Mĩ ở
Việt Nam, nếu đem so sánh với sự
ngờ vực sâu xa của họ đối
với người Pháp và người
Anh, và họ hoàn toàn nhận chân
được sự cần thiết phải duy
trì hậu thuẫn của Mĩ ở nơi
đây ” (36).
Trí Quang cũng thanh minh với giới chức
Mĩ rằng họ không nên quan tâm về
một loạt bài bình luận trên tạp
chí Hải Triều Âm
của Phật giáo,
những bình luận mang luận điệu cổ
vũ một đường lối trung lập đặt
MTDTGPMN ngang hàng với Chính phủ VNCH.
Theo lời Trí Quang, tác giả loạt bài
bình luận sau đó đã bị
giải nhiệm vì bài viết thiếu
chất lượng của ông đã khiến
phong trào Phật giáo bị hiểu lầm
là đi theo trung lập (37).
Trí Quang bày tỏ quan điểm với viên chức Mĩ về vấn đề “trung lập” vào tháng Chín 1964, và theo giả thuyết của CIA, quan điểm của ông khác hẳn chế độ trung lập do Pháp đưa ra. Trí Quang tin rằng “ thuần tuý trung lập tự thân không nhất thiết là xấu ” nhưng ông chống lại bất cứ chế độ trung lập nào cho phép ảnh hưởng của Pháp trở lại trên đất nước Việt Nam (38). Hơn nữa, ông cho rằng các giới chức Mĩ cần phải nhìn nhận có nhiều loại trung lập khác nhau. Chế độ trung lập yếu ớt của Căm-pu-chia là tệ hại vì nó bị cộng sản lợi dụng, trong khi chế độ trung lập tại Ai Cập lại “ thẳng tay dập tắt đám cộng sản địa phương ” (39). Trí Quang cũng nhấn mạnh ông không ủng hộ những lời kêu gọi trung lập hiện nay của một số Phật tử. Khi người Mĩ bày tỏ mối bất bình với bản dự thảo do Đại đức Thích Quảng Liên đưa ra, kêu gọi các lực lượng Mĩ lẫn Việt Cộng phải rút khỏi Miền Nam, Trí Quang bèn trấn an họ rằng Quảng Liên đã được chỉ thị huỷ bỏ dự án đó và rằng ông ta có nguy cơ mất luôn chức vị trong phong trào nếu ông không chịu (40).
Chắc chắn các sử gia Chiến tranh Việt Nam thường bị cám dỗ coi sự trỗi dậy trở lại của phong trào Phật giáo vào tháng Tám – tháng Chín năm 1964 như là một phong trào hoà bình mới được khai sinh để phản đối chiến tranh và vai trò của Mĩ ở Miền Nam. Tuy nhiên, người viết sử cũng nên chống lại cám dỗ này, đặc biệt là nếu quan điểm của Trí Quang được trình bày để làm chỗ dựa chính cho luận điểm này. Kể từ khi Trí Quang ra khỏi Toà Đại sứ Mĩ tháng Mười Một 1963, mục tiêu đả kích chủ yếu của ông, trước sau như một, là vai trò quá nổi bật của người chế độ Diệm trong Chính phủ VNCH và sự thiếu quyết tâm của chế độ mới trong việc thanh lọc những phần tử này. Mũi tập trung vào các vấn đề quốc nội này cũng tiếp tục nổi bật trong những bài diễn văn hiếm hoi của ông trước công chúng. Trong một diễn từ tại Chùa Từ Đàm vào ngày 1 tháng Mười, cũng như trong một thư ngỏ gửi Phật tử đăng tải hôm sau trên báo Lập Trường, Trí Quang thậm chí không hề nhắc đến cuộc chiến đang xảy ra (41). Nếu có một người nào đọc bài diễn văn và bức thư ngỏ của Trí Quang mà không mảy may hay biết gì về Chiến tranh Việt Nam, người đó sẽ kết luận chắc nịch rằng cuộc xung đột đang xảy ra chỉ là một cuộc nội chiến giữa một bên là tín đồ Phật giáo và bên kia được gọi là bọn Cần Lao áp bức. Người Mĩ, Việt Cộng và Bắc Việt thậm chí không giữ được những vai phụ biên (peripheral players) trong các phát biểu quan điểm công khai của Trí Quang.
Khi
Trí Quang bàn chuyện với các giới
chức Hoa Kì trong giai đoạn này về
chiến tranh và tình hình quốc tế,
quan điểm trước sau như một của
ông vẫn là chống cộng và thân
Mĩ. Trong một phát biểu mà chắc
nhiều người phản chiến cũng biểu
đồng tình, Trí Quang đã trấn
an giới chức Hoa Kì rằng bản thân
ông và tín đồ Phật giáo
không bao giờ bài Mĩ, “ mặc
dù
đôi khi họ phản đối một số
chính sách nhất định nếu xét
thấy những chính sách đó sai
lầm hay thiếu khôn ngoan ” (42).
Tháng Mười 1964, Trí Quang cam đoan với
giới chức Hoa Kì rằng bản thân
ông và phong trào Phật giáo từ
nay sẽ dồn hết tâm trí vào sự
nghiệp chống cộng. Với viễn cảnh
đầy hứa hẹn về một chính
phủ dân chủ hơn và sự thất
bại của Hiến chương Vũng Tàu
của Khánh, Trí Quang tin rằng Phật tử
từ nay có thể “ hướng
nỗ lực
chính vào việc chống cộng ”
(43).
Mối quan ngại của Trí Quang về chủ
nghĩa cộng sản vượt cả ra ngoài
biên giới Việt Nam. Sau khi Trung Quốc có
bom nguyên tử, Trí Quang nghĩ rằng tín
đồ Phật giáo cần phải “ hoạt
động trên trường quốc tế nhằm
hỗ trợ cho việc tạo sức đề
kháng của Phật giáo chống lại
sự bành trướng của cộng sản
tại Đông Nam Á ” (44).
Theo ông, khả năng về vũ khí hạt
nhân của Trung Quốc đòi hỏi phải
“ tăng cường gấp bội
khả năng
chiến tranh quy ước của Mĩ cũng như
gia tăng sức mạnh tự vệ của chính
các nước châu Á nhằm chống
lại sự bành trướng và xâm
nhập của Trung Quốc ”. Đối với
Trí Quang, mối quan tâm về Trung Quốc
nghiêm trọng đến nỗi ông muốn
xuất ngoại để nói với Phật
tử các nước khác về “ sự
cần thiết phải duy trì sự hiện
diện của Mĩ ở châu Á ” (45).
Không có gì đáng ngạc nhiên
nếu như khoảng tháng Mười Một
năm 1964, giới chức Hoa Kì vẫn rất
hài lòng với tư duy và ý kiến
chính trị của phong trào Phật giáo :
“ thái độ của giới Phật
tử
khá thuận lợi và sự cần thiết
của sự hiện diện của Mĩ ở
Việt Nam và ở những nước châu
Á khác được họ nhìn nhận ”
(46).
Tuy
nhiên, sự đằm thắm tương đối
trong quan hệ của Mĩ đối với Trí
Quang sau cuộc khủng hoảng tháng Tám
chỉ là một sự lắng dịu tạm
thời trước khi nổ ra một cơn bão
tố thậm chí mãnh liệt hơn. Bề
ngoài, Trí Quang và phong trào Phật
giáo tỏ vẻ hoan nghênh sự chuyển
tiếp sang một chế độ dân sự
mới, nhưng chẳng mấy chốc sự thể
trở nên hiển nhiên là, một số
phần tử trong phong trào Phật giáo
quay ra phản đối vị thủ tướng
mới, Trần Văn Hương. Sự xuất
hiện nhanh chóng phong trào chống đối
Hương làm cho người Mĩ tưng
hửng vì trong quá khứ Hương là
người đã sớm lớn tiếng chỉ
trích chế độ Diệm. Vào ngày
30 tháng Mười chính Trí Quang cũng
đã bày tỏ với người Mĩ
sự hậu thuẩn của ông dành cho
Hương, nhưng chưa được một
ngày sau đó ông thay đổi ý
kiến, nói rằng bây giờ ông đồng
ý với những kẻ cho rằng Hương
“ quá già nua, thiếu
khả năng,
không có chương trình hành động
rõ ràng và bị bọn chính khách
xôi thịt vây quanh ”(47).
Việc Hương nhấn mạnh các trọng
điểm như vãn hồi trật tự xã
hội và đặt tôn giáo ra ngoài
chính trị và học đường cũng
đổ thêm dầu vào ngọn lửa
đấu tranh của Phật giáo nhắm vào
chế độ ông. Vào cuối tháng
Mười Một 1964, phong trào Phật giáo
ở Sài Gòn cổ vũ những cuộc
biểu tình nhằm buộc Hương từ
chức thủ tướng.
Phong
trào Phật giáo thường được
các sử gia coi như là bị phân
hóa giữa một cánh ôn hoà do
Thích Tâm Châu lãnh đạo và
một cánh triệt để hơn do Trí
Quang cầm đầu. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu
chống chế độ Hương cho thấy rõ
rằng phân loại như thế là sai
trật. Trong giai đoạn đầu của cuộc
khủng hoảng, chính Tâm Châu là
người đóng vai trò tiên phong
trong việc sách động sinh viên và
tín đồ chống lại Hương. Trong
khi các cuộc biểu tình diễn ra sôi
sục ở Sài Gòn, địa bàn
nằm dưới ảnh hưởng của Tâm
Châu, thì chẳng có cuộc xuống
đường nào diễn ra trên cứ
địa của Trí Quang tại Huế. Trí
Quang giải thích rõ với giới chức
Hoa Kì ông không ủng hộ hành
động chống Hương công khai vào
giai đoạn này. Hơn một lần Trí
Quang cũng nói rằng Tâm Châu đã
sai lầm khi tự để những thế lực
bên ngoài giật dây trong việc kêu
gọi dân chúng biểu tình (48).
Thật vậy, suốt trong giai đoạn đầu
của cuộc khủng hoảng, giới chức
Hoa Kì vẫn tiếp tục tin tưởng Trí
Quang thật sự không muốn đẩy thêm
một cuộc khủng hoảng chính phủ
nữa và họ có phần hi vọng ông
sẽ đóng vai một lực tiết chế
đối với Tâm Châu và phong trào
Phật giáo nói chung (49).
Tuy nhiên, giữa Trí Quang và Tâm Châu
dù có bất cứ dị biệt nào
vào lúc khởi đầu của cuộc
vận động chống Hương đi nữa,
những dị biệt này cũng chưa đủ
lớn để giới chức Mĩ có thể
li gián hai nhà sư. Cương quyết
đòi hỏi Hương phải từ chức,
Trí Quang và Tâm Châu bắt đầu
một cuộc tuyệt thực chung ngày 12
tháng Chạp.
Những
người hoạch định chính sách
Mĩ ủng hộ Hương hết mình
trong cuộc đối đầu với phe Phật
giáo. Đại sứ Maxwell Taylor không tin
rằng phe Phật giáo đưa ra được
kêu nài nào chính đáng nhắm
vào chính phủ Hương và ông
ta nghĩ rằng điều rất quan trọng là
chính phủ Nam Việt Nam phải có lập
trường cứng rắn đối với những
nhóm phản đối “ thiểu
số
nhưng to tiếng ” (50).
Mặc dù trong thực tế cả Trí
Quang và Tâm Châu đều bày tỏ
ý muốn thương thuyết để giải
quyết những bất đồng với chế
độ Hương cũng như muốn nhờ
Hoa Kì làm trung gian để giải quyết
cuộc xung đột, nhưng Taylor không muốn
gặp hai nhà sư này hay làm trung gian
hoà giải giữa phe Phật giáo và
chế độ Hương. Taylor còn phản
bác ý kiến nhờ Lodge gửi một lá
thư cho Trí Quang hay đưa ra hứa hẹn
Mĩ sẽ viện trợ kinh tế rồi giao
cho phe Phật giáo kiểm soát (51).
Lập trường không khoan nhượng của
Taylor nhắm vào Trí Quang và phong trào
Phật giáo chắc chắn là một lập
trường có thể bênh vực được,
nhưng nó cũng chắc chắn sẽ làm
cho cuộc khủng hoảng kéo dài thêm.
Phe Phật giáo và Taylor có một kẻ
thù chung [là Tướng Khánh] sau khi
Khánh bãi bỏ Thượng Hội Đồng
vào ngày 20 tháng Chạp 1964, nhưng
Taylor không thiết tha theo đuổi một
đường lối có lẽ đã
khai thác được mối ngờ vực
lâu ngày của Trí Quang đối với
Khánh (52).
Loại
chế độ chính trị nào mà
Trí Quang muốn thấy cầm quyền ở
Miền Nam thì cũng không rõ ràng
cho lắm. Có khi, ông gợi ý chỉ
cần thay Hương bằng một nhân vật
có thiện cảm hơn với Phật giáo
như Phan Huy Quát chẳng hạn thì phong
trào Phật giáo sẽ chấm dứt
những cuộc chống đối. Tuy nhiên,
ông cũng bày tỏ với giới chức
Hoa Kì rằng ông sẵn sàng ủng hộ
một chính phủ thậm chí độc
tài hơn miễn là chính phủ đó
“ thật sự cách mạng
” (53).
Nếu một chế độ như thế chịu
đặt Đảng Cần Lao ra ngoài vòng
pháp luật, Trí Quang sẵn sàng chấp
nhận việc chế độ ấy có đủ
toàn quyền cấm chỉ đình công,
giới hạn tự do ngôn luận và tiết
chế các đảng phái chính trị,
những đảng mà theo ông phải có
“ mục tiêu chống cộng
và lí
tưởng chống trung lập rõ ràng
dứt khoát ” (54).
Mặc dù Trí Quang hiển nhiên không
thu hút đủ hậu thuẫn để thay
đổi sâu rộng Chính phủ VNCH,
nhưng ông đã có thể vận
động kết liễu chính phủ Hương
vào cuối tháng Giêng bằng cách
dành hậu thuẫn Phật giáo cho Khánh.
Những người làm chính sách Mĩ
đã bị sốc khi thấy rằng lại
một lần nữa Trí Quang có thể
đóng vai một kẻ chọn lựa lãnh
tụ (kingmaker)
cho sân khấu chính trị
Miền Nam. Vì đã hoàn toàn gắn
chặt uy tín của Hoa Kì vào việc
phải duy trì một chính phủ dân
sự, các nhà phân tích CIA ngày
càng quan ngại về tương lai của
việc điều hành quốc gia ở Miền
Nam. Đòn bẩy chính trị của Mĩ
đã bị yếu đi nhiều lắm rồi,
và CIA kết luận phe Phật giáo “
đủ mạnh để vô hiệu hoá
bất cứ dàn xếp chính trị nào
mà lãnh đạo của họ quyết
tâm chống đối ” (55).
Sau
vụ đảo chánh, cũng dễ hiểu
thôi, các nhà phân tích của Mĩ
lại trở về với câu hỏi, liệu
những nỗ lực của Trí Quang có
bị thúc đẩy do cảm tình hay móc
nối với cộng sản hay không ? Sử
gia Moyar cho rằng Toà Đại sứ Mĩ ở
Sài Gòn ngày càng nghiêng về
luận cứ cho rằng phong trào Phật giáo
bị cộng sản xúi giục :
Viên chức Toà Đại sứ vẫn tin tưởng rằng hầu hết các vị lãnh đạo chóp bu của Phật giáo đều có tinh thần chống cộng, nhưng càng ngày càng có thêm nhiều viên chức nghi ngờ rằng chí ít Trí Quang cũng đang cộng tác với Cộng sản. Các chuyên gia Toà Đại sứ nhất trí rằng những lãnh đạo Phật giáo cấp thấp hơn, đặc biệt là những người thân cận với Trí Quang, đang liên minh với Việt Cộng (56).
Để
chứng minh cho sự đánh giá này,
Moyar chỉ viện dẫn một chứng liệu
duy nhất, tiếc rằng tư liệu ấy lại
không phải như vậy. Đó là
điện văn ngày 31 tháng giêng,
đánh đi từ Toà Đại sứ,
do nhân viên Toà Đại sứ và
những viên chức tình báo –
những người thường xuyên tiếp
xúc với Trí Quang và phong trào
Phật giáo – cùng biên soạn,
nhưng chính Taylor đích thân chuẩn
y bức điện bằng cách nói rằng
nó cũng phản ánh quan điểm của
các viên chức cấp cao. Sau khi nhìn
nhận mọi cách thế theo đó các
hoạt động của phong trào Phật
giáo đã làm tổn hại nghiêm
trọng cho sự nghiệp chống cộng, các
viên chức Toà Đại sứ nhấn
mạnh dứt khoát rằng vào lúc
này họ “ không chia sẻ
quan điểm
cho rằng các lãnh đạo Phật giáo
cố tình đứng về phe Cộng sản
hay rằng những mục tiêu của họ
bao gồm việc cố tình tạo ra một
tình thế trong đó cộng sản sẽ
giành được quyền kiểm soát
chính trị ở Miền Nam Việt Nam…
Nói tóm lại, giả thuyết các
lãnh đạo của GHPGVNTN hoạt động
cho cộng sản không đáng tin bằng
cách lí giải thích rằng họ
hoạt động cho chính họ, sử dụng
những phương tiện vô trách nhiệm
nhằm theo đuổi mục đích của
mình, và điều này có thể
bị Cộng sản khai thác lợi dụng ”
(57).
Tuy rất lo ngại về chiến thuật và
ý tưởng của vài người trong
đám thân cận với Trí Quang và
Tâm Châu, các viên chức toà đại
sứ nhất định không “ đồng
ý ” rằng điều này có
nghĩa là họ liên minh với Việt
Cộng. Chắc chắn Toà Đại sứ
Mĩ ở Sài gòn thực sự nghĩ
rằng cộng sản đang gia tăng nỗ lực
xâm nhập hàng ngũ lãnh đạo
Phật giáo, nhưng điểm quan trọng
họ nêu ra ở đây là không
một tin đồn nào về việc móc
nối VC được coi là có bằng
chứng, và toà đại sứ lặp
lại kết luận là cộng sản không
chi phối được chính sách của
GHPGVNTN (58).
Sau cùng, điều khá lí thú về
quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ
ở Sài Gòn là chính Toà Đại
sứ lại lo lắng về một chính phủ
có nhiều nhân vật thân cận với
Tâm Châu, vị sư thường được
coi là chống cộng hơn [Trí Quang], hơn
là lo lắng về một chính phủ mà
thành viên là người thân cận
với Trí Quang.
Quan chức
Bộ Ngoại giao Mĩ ở Washington hoàn toàn
chuẩn y quan điểm của Toà Đại
sứ ở Sài gòn. Khi kí giả
Marguerite Higgins đăng một bài trên báo
The Washington Star
cảnh báo rằng chính
quyền Johnson cần phải thức tỉnh đối
với Trí Quang và điều mà nhà
báo gọi là những âm mưu của
ông ta với cộng sản, Bộ trưởng
Ngoại giao Dean Rusk chỉ thị người đứng
đầu Đoàn Công tác Việt Nam
(the Vietnam Working
Group / VWG) trả lời riêng với
Higgins. Thomas Corcoran, Giám đốc VWG, nhận
định nghiêm chỉnh rằng không có
chuyện các nhân viên tình báo
biết chắc Trí Quang có móc nối
Cộng sản và cũng không có chuyện
dữ liệu này phần nào đang bị
những người làm chính sách ở
Washington ém nhẹm. Đích xác dựa
vào ý kiến của các nhân viên
nói tiếng Việt của toà đại
sứ, Corcoran lí luận rằng không ai có
thể đưa ra bất cứ một nhận
xét tối hậu hay dứt khoát nào
về mục tiêu và động lực
chính trị của Trí Quang. Mặc dù
một số lời nói và việc làm
của phong trào Phật giáo có thể
vô tình làm lợi cho cộng sản,
Corcoran ghi nhận rằng “ họ
cũng làm
được nhiều việc nhằm chống
lại và chặn đứng âm mưu của
cộng sản nhằm nới rộng quyền kiểm
soát lên đầu dân chúng Việt
Nam ” (59).
Sau khi
Hương mất ghế thủ tướng chính
phủ, Trí Quang tìm cách trấn an Toà
Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn rằng
những nỗ lực của ông không phản
ánh của một tinh thần cơ bản
chống Mĩ. Trả lời phỏng vấn của
những tờ báo tiếng Anh ở Sài
Gòn, Trí Quang nhìn nhận có sự
phẩn uất của phía Phật giáo đối
với Đại sứ Taylor và đối với
sự hậu thuẫn trung thành mà Mĩ
dành cho Hương, nhưng ông cũng biện
luận rằng người Phật tử không
thể có tinh thần bài Mĩ : “
Không có chuyện chống
Mĩ. Người
ta chỉ có thể chống Mĩ nếu người
ta theo Cộng sản hay theo chủ nghĩa sô-vanh.
Vì Phật giáo không phải là
cộng sản và cũng không phải là
sô-vanh, nên không có chủ trương
chống Mĩ ” (60).
Trong các đàm đạo riêng tư
với nhiều viên chức toà đại
sứ, Trí Quang cố truyền đạt đại
ý rằng ông vẫn còn là một
đồng minh vững chắc của chính phủ
Hoa Kì và rằng ông rất buồn
phiền vì hành động cực đoan
của vài người cộng sự trong phong
trào Phật giáo. Mặc dù, cũng dễ
hiểu là, người Mĩ đang thất
vọng về tình hình Việt Nam, nhưng
Trí Quang không tin là Hoa Kì có
thể hay phải chấp nhận khả năng
thất bại. Trong khi lặp lại một ý
kiến trước đây của ông rằng
có loại trung lập chấp nhận được
và có loại trung lập không thể
chấp nhận được cho Việt Nam, Trí
Quang lí giải với các viên chức
Mĩ rằng “ Sự hiện diện
của
Hoa Kì vẫn còn rất cần thiết ở
Việt Nam nhằm chặn đứng một cuộc
xâm chiếm của cộng sản. Vẫn còn
hi vọng chiến thắng ; Hoa Kì không
được nản lòng và bỏ cuộc.
Nhưng Hoa Kì phải có tư tưởng
của kẻ chiến thắng và chấp nhận
hoàn toàn trách nhiệm của mình
trong nỗ lực chiến tranh ” (61).
Nhưng,
điều mà Trí Quang coi là trách
nhiệm của chính bản thân ông
trong nỗ lực chiến tranh là gì thì
vẫn rất khó nhận ra. Vào đầu
tháng Hai 1965, theo tường trình của
CIA, Trí Quang đã nói rằng “ ông
sẽ lấy làm rất sung sướng để
hoạt động trong những chương trình
chống cộng có phạm vi rộng lớn…
quân đội và người Mĩ có
thể chiến đấu trên chiến trường
nhưng người Phật tử sẽ theo đuổi
chiến tranh tâm lí, trận chiến mà
ông cho là quan trọng hơn quân sự
rất nhiều ” (62).
Mặc dù có nhiều lí do để
thắc mắc Trí Quang đã chân thật
đến mức độ nào khi diễn tả
nhiệt tình chống cộng, nhưng những
nhà hoạch định chính sách Mĩ
hình như không bao giờ quan tâm khai
thác năng lực phong phú của Trí
Quang theo chiều hướng này. Sự thiếu
quan tâm này được giải thích
phần nào là do sự thiếu tin tưởng
mà giới chức Hoa Kì dành cho Trí
Quang và do mối lo sợ rằng những
chương trình chống cộng của ông
có thể gây trở ngại cho các mục
tiêu của Hoa Kì hay Chính phủ Việt
Nam Cộng Hoà. Tuy nhiên, rõ ràng là
các viên chức Mĩ đã chấp
nhận quan điểm cho rằng những nỗ
lực chống cộng của Trí Quang có
thể thành công cao độ nếu ông
không bị coi như một kẻ hoàn toàn
liên minh với chính phủ Hoa Kì.
Việc
Trí Quang bày tỏ ước muốn hoạt
động độc lập đằng sau hậu
trường cũng có thể là một
cách hợp lí hoá qua loa cho sự không
hoạt động gì cả, nhưng thực
tình mà nói, ông cũng đã
ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Mĩ
vào mùa xuân năm 1965. Vào khoảng
tháng Hai 1965 giới chức Hoa Kì tỏ ra
rất lo ngại rằng phong trào Phật giáo
sẽ công khai chấp nhận đề nghị
chấm dứt chiến tranh thông qua một sự
dàn xếp bằng đàm phán với
MTDTGPMN. Những lo ngại này bỗng trở
thành hiện thực vào cuối tháng
khi Thích Quảng Liên công bố một
tuyên ngôn kêu gọi các lực lượng
của MTDTGPMN và Mĩ cùng rút ra khỏi
Miền Nam. Quảng Liên, một nhà sư
nổi tiếng từng học ở Đại học
Yale, đã đưa vào trong bản tuyên
ngôn những lời tri ân về viện trợ
Mĩ trong quá khứ, nhưng những tuyên
bố như thế không thế nào thay đổi
sự báo động của Toà Đại
sứ Mĩ ở Sài Gòn về một lời
kêu gọi mà họ cho là ngây thơ
và nguy hiểm (63).
Liền sau khi bắt đầu chiến dịch
dội bom Rolling Thunder (Sấm Động) đánh
vào Miền Bắc, giới chức Mĩ lo
ngại rằng lời kêu gọi một cuộc
dàn xếp bằng đàm phán của
phong trào Phật giáo sẽ gây trở
ngại cho khả năng điều hành cuộc
chiến.
Trí
Quang hoàn toàn chia sẻ mối quan ngại
của toà đại sứ về những
hoạt động của phong trào hoà
bình Thích Quảng Liên. Điều có
ý nghĩa là, khi được một
viên chức toà đại sứ hỏi là
liệu đề xuất của ông có
được hậu thuẫn của giới lãnh
đạo Phật giáo hay không, Quảng
Liên chỉ trả lời bản tuyên ngôn
được sự ủng hộ của Tâm
Châu, nhà sư thường được
cho là “ôn hoà”. Quảng Liên
không nói rõ là nó có được
sự hậu thuẫn của nhà sư “cực
đoan” Trí Quang hay không và Quảng
Liên phát biểu như thế cũng phải
thôi vì Trí Quang cực lực phản
đối một lời kêu gọi đàm
phán tức khắc (64).
Thực vậy, Trí Quang ủng hộ hết
mình chiến dịch Rolling Thunder và hơn
thế nữa còn cổ vũ nới rộng
phạm vi chiến dịch. Theo quan điểm của
ông, “ Chúng ta phải
tiếp tục
những vụ oanh kích trên Miền Bắc
như một phần cần thiết của cuộc
tấn công quân sự - ngoại giao. Những
cuộc oanh kích này không nhất thiết
chỉ giới hạn trong việc trả đũa
những vụ VC tấn công vào căn cứ
và nhân viên của Mĩ, vì nếu
chỉ làm như thế thì sẽ có
hại cho tinh thần chiến đấu của
người Việt Nam, những cuộc oanh kích
này phải được sử dụng để
trả đũa chiến dịch chung của VC
nhằm chống phá Miền Nam và chống
phá chính nhân dân ” (65).
Nếu những hành động quân sự
của Mĩ có đáng phê phán
chăng, Trí Quang chỉ nhận thấy chúng
có vấn đề ở chỗ là không
đi tới nơi tới chốn. Dùng một
loại ngôn từ và lí luận mà
các nhà chiến lược Mĩ có
thể hiểu trọn vẹn, Trí Quang cho rằng
chiến dịch dội bom lên Miền Bắc
phải “ được tập trung
trong một
thời gian ngắn và với cường độ
gia tăng nhanh chóng để buộc Bắc
Việt có phản ứng càng sớm càng
tốt và để tránh việc cho cộng
sản có đủ thời gian chuẩn bị
về mặt tâm lí và quân sự
” (66).
J. D. Rosenthal, viên chức toà đại sứ
Mĩ gần gũi nhất với Trí Quang
trong suốt giai đoạn này, vô cùng
ngạc nhiên về việc ông đã
có thể dẹp qua một bên bất cứ
nỗi dằn vặt nào trong đức tin
liên quan tới chiến dịch Rolling Thunder.
Thật vậy, theo Rosenthal, “ Chẳng
những
không có một e ngại luân lí và
đức lí nào về những trận
dội bom của Mĩ, ông lại tỏ vẻ
lo lắng rằng cơ hội do những vụ
oanh tạc này mang lại sẽ bị lãng
phí vì chúng không đạt đến
mức độ ác liệt cần thiết ”
(67).
Việc
Trí Quang công khai tán thành chiến
dịch Rolling Thunder lẽ ra có thể chống
đỡ phần nào cho lập trường
của Mĩ vào thời điểm nó bị
chỉ trích gay gắt bởi một quần
chúng quá lo ngại về những hệ
quả của một chiến dịch dội bom
rộng lớn trên Miền Bắc. Bộ Ngoại
giao Mĩ cho rằng nếu toà đại sứ
có thể yêu cầu Trí Quang công
bố lập trường của ông cho đông
đảo quần chúng, đó sẽ là
một điều “ rất đáng
mong ước
” (68).
Tuy nhiên, vấn đề là, cả Trí
Quang lẫn Toà Đại sứ Mĩ đều
không chia sẻ quan điểm cho rằng nếu
ông công khai ủng hộ các cuộc
oanh tạc thì đó hiển nhiên là
điều rất đáng mong ước. Như
Trí Quang lí giải với nhiều viên
chức ở toà đại sứ, không ai
có thể kì vọng một vị lãnh
đạo tinh thần lại công khai hậu
thuẫn tiến trình bạo lực của một
hành động quân sự. Sau khi nghe Trí
Quang giải thích lập trường của
mình, Rosenthal không phản đối quyết
định của ông và “ trấn
an
ông chúng ta thông cảm lập trường
ấy ” (69).
Việc Trí Quang không chịu công khai
ủng hộ chiến dịch Rolling Thunder chắc
chắn không có nghĩa là lập
trường của ông không phù hợp
hay không có ích cho nỗ lực của
Mĩ tại Việt Nam. Hoạt động trong
hậu trường, Trí Quang đã góp
phần đảm bảo rằng tuyên ngôn
hoà bình của Thích Quảng Liên
sẽ không có ảnh hưởng rộng
lớn. Chưa được ba tuần sau khi Quảng
Liên công bố lời kêu gọi hoà
bình, phong trào của ông phải chấm
dứt, một phần do chính quyền đàn
áp và một phần vì những nỗ
lực của Trí Quang nhằm đảm bảo
lời kêu gọi đó không được
phong trào Phật giáo tán thành.
Chính Trí Quang không có một ngần
ngại nào về việc dùng bàn tay
đàn áp của chính quyền để
bẻ gãy phong trào hoà bình. Khi
chính phủ VNCH đề nghị trục xuất
ba thành viên của phong trào hoà
bình ra Miền Bắc như một cách
trừng phạt họ, ông cho rằng đó
là một ý kiến “ tuyệt
vời
” (70).
Trong một cuộc đàm luận một tháng
sau đó với Thủ tướng Phan Huy
Quát, theo tin tiết lộ, Trí Quang đã
nói với vị thủ tướng rằng
lẽ ra Quảng Liên phải bị bắt giữ
và phong trào hoà bình của ông
ấy phải bị xử lí nghiêm khắc
như tất cả các phong trào hoà
bình khác (71).
Quan hệ
của Mĩ với phong trào Phật giáo
chưa bao giờ tích cực như trong mùa
Xuân 1965. Trí Quang và một số Phật
tử khác từ lâu đã tiến cử
Phan Huy Quát vào một vai trò lãnh
đạo trong chính phủ và việc bổ
nhiệm ông vào chức vụ thủ tướng
đã thực sự chấm dứt sự
chống đối của Phật giáo nhắm
vào chính phủ. Rất hài lòng
với thành phần chính phủ VNCH, Trí
Quang cuối cùng đã quay sang chiến
dịch chống cộng mà ông mãi hứa
hẹn từ lâu. Vì lí do VC gia tăng
hoạt động ở Miền Trung, phe Phật
giáo phải tăng cường những biện
pháp chống lại sự xâm nhập của
cộng sản vào hàng ngũ của họ
và tránh tham dự các cuộc biểu
tình do Việt Cộng đỡ đầu
(72).
Nhiều viên chức Toà Đại sứ
có ấn tượng sâu sắc với
tinh thần chống cộng được biểu
dương bởi các sinh viên trong Đoàn
Sinh viên Phật tử (73).
Theo tường trình của các phân
tích gia CIA, “ nhiều
nhà lãnh đạo
Phật giáo đã từng bước âm
thầm bày tỏ một thái độ
chống cộng cứng rắn hơn ”(74).
Cái tâm trạng não nề về sức
mạnh Phật giáo đã trùm lên
các nhà hoạch định chính sách
Mĩ vào tháng Giêng giờ đây
được thay thế bằng một thái
độ lạc quan dè dặt về khả
năng cộng tác với giới Phật giáo.
Trong khi nhìn nhận rằng việc cộng tác
với Phật giáo trong một cuộc vận
động chống cộng có thể đặt
ra một số rủi ro nhất định, Phó
Giám đốc Kế hoạch của CIA,
Richard Helms, đề nghị rằng Hoa Kì phải
chơi một “ ván bài vừa
phải
” và âm thầm hậu thuẫn phe Phật
giáo nhiều hơn nữa(75).
Sự
hợp tác mật thiết hơn nữa giữa
Hoa Kì và Trí Quang mà Helms mường
tượng trong trí đã không thành
tựu. Trí Quang tiếp tục phát biểu
càng ngày càng nhiều tư tưởng
diều hâu về cuộc chiến trong các
cuộc gặp riêng với giới chức Hoa
Kì, nhưng những hiểm hoạ trong khả
năng cộng tác chặt chẽ hơn nữa
với ông được phơi bày rõ
nét trong một lá thư ông gửi cho
Henry Cabot Lodge vào tháng Năm 1965. Trí
Quang ít khi liên hệ với giới chức
Mĩ qua thư từ chính thức và rõ
ràng là lá thư này tiêu biểu
cho một nỗ lực diễn đạt những
tâm tư sâu kín nhất của ông
về tình hình Việt Nam. Điều đáng
tiếc là, những suy nghĩ được
diễn tả trong thư tiết lộ rằng
cuộc xung đột tôn giáo ở Việt
Nam vẫn là quan tâm hàng đầu của
Tri Quang. Theo cách nhìn của ông, người
Công giáo không phải là những
người thực tâm chống cộng trong
khi người Phật giáo thì cho rằng
chính sách của Mĩ có khuynh hướng
ưu đãi đạo Công giáo. Người
Mĩ bị dân chúng coi là không
khác gì người Pháp trong việc “
dùng người Công giáo để
tiêu diệt Phật tử ”. Nếu Hoa Kì
muốn khỏi bại trận, họ không còn
cách nào khác hơn là phải đảo
ngược chính sách của mình và
chủ trương một chính sách cách
mạng, một chính sách mà nội
dung cơ bản, theo Trí Quang, là “ các
phần tử Công giáo Cần Lao ác ôn
và bè lũ Đại Việt phản động
phải bị loại trừ ” (76).
Khỏi cần phải nói, những người
hoạch định chính sách Hoa Kì
lấy làm kinh hoàng trước những
cảm nghĩ mà Trí Quang biểu lộ
trong thư. Như vậy, chẳng bao giờ có
được một cơ may dù mong manh nhất
để Hoa Kì thoả thuận với Trí
Quang và theo đuổi một chiến lược
chính trị đặt cơ sở trên ưu
tiên hàng đầu là bài trừ
Công giáo ở Miền Nam. Vì không
nhất trí về bản chất đích
thực của cuộc xung đột ở Miền
Nam, cả hai bên gặp phải những giới
hạn thực tế trên mức độ có
thể hợp tác với nhau.
Quyết
định của các tướng lãnh
Miền Nam trong việc giải nhiệm Thủ
tướng Quát năm 1965 đã đưa
đến một sự thay đổi đáng
lưu ý trong mối quan hệ của Trí
Quang với Hoa Kì. Sự thay đổi này
gần như không có gì liên quan
đến việc chống đối những kế
hoạch leo thang chiến tranh của Mĩ hay chống
đối trên nguyên tắc sự chấm
dứt chính phủ dân sự ở Sài
Gòn. Cũng như bản thân của các
tướng lãnh, Trí Quang thường chỉ
trích Quát về việc ông ta điều
hành cuộc chiến thiếu hăng say (77).
Thật vậy, Trí Quang tiếp tục cổ
vũ những đường lối quân sự
nằm quá tầm dự kiến của những
người làm chính sách Hoa Kì.
Mãi đến tận tháng Bảy 1965, Trí
Quang còn nói với các giới chức
Hoa Kì rằng ông ủng hộ một cuộc
đổ bộ liên quân [Việt-Mĩ] lên
Miền Bắc và ông còn nghĩ rằng
chính quyền Johnson cần phải triệt hạ
khả năng hạt nhân của Trung Quốc
(78).
Sau khi tiếp xúc với các người
Mĩ vận động hoà bình trong Tổ
chức Hoà giải (Fellowship
of Reconciliation), Trí
Quang nói với các viên chức toà
đại sứ rằng ông thấy những
người ấy “ tuyệt đối
chẳng
biết gì ” và ông đã cho họ
biết chiến tranh ở thời điểm này
là cần thiết cho nhân dân Việt
Nam(79).
Trí Quang cũng không mấy bận tâm
về việc làm trái nguyên tắc
chính quyền dân sự. Như đã
từng phát biểu trong quá khứ, Trí
Quang tin rằng một chế độ quân
nhân có thể dễ thực thi những
biện pháp cách mạng và dễ áp
dụng kỹ luật cần thiết cho việc
điều hành cuộc chiến hiệu quả
hơn (80).
Những
chỉ trích của Trí Quang nhắm vào
tân chính phủ đặt cơ sở trên
một yếu tố đơn giản, một yếu
tố dễ tiên đoán nếu người
ta chịu nghiên cứu quá khứ của
ông, đó là việc chỉ định
Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng
[Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc
gia, ND]. Thiệu, một tín đồ Công
giáo, từ lâu đối với Trí
Quang đã là biểu tượng chính
cho sự ngoan cố của chính phủ VNCH
không chịu dứt khoát với chế độ
Công giáo trị của thời Diệm.
Trước đó, Trí Quang đã nuôi
hi vọng Tướng Nguyễn Chánh Thi, một
người nổi tiếng thân Phật giáo,
sẽ được chọn vào chức vụ
mà Thiệu vừa nắm giữ. Sau khi kể
hết những điều mà ông cho là
tội ác chống Phật giáo của
Thiệu trong quá khứ, Trí Quang nói
với các viên chức Hoa Kì rằng
ông tin rằng Thiệu là tay sai của CIA
được dựng lên “ nhằm
đảm
bảo một chính phủ sẵn sàng đáp
ứng mọi tham vọng của Mĩ một khi
chúng ta đã gửi đến nửa
triệu quân sang đây ” (81).
Tuy vậy, mặc dù giọng điệu chống
đối chế độ mới của Trí
Quang rất giống với giọng điệu ông
sử dụng trong quá khứ, hành động
của ông bây giờ được tự
chế hơn nhiều. Thật vậy, giai đoạn
từ tháng Sáu 1965 cho đến cuộc
khủng hoảng Phật giáo tháng Ba 1966
rõ ràng là thời gian ổn định
nhất trong thời kì tiếp theo sau chế
độ Diệm.
Cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966 và sự thất bại của Mĩ tại Việt Nam
Nếu
Trí Quang là một điệp viên cộng
sản trong Chiến tranh Việt Nam, thì thật
chẳng cường điệu chút nào
khi cho rằng Bắc Việt đã thực
hiện được “ một trong
những
kì công vận dụng tài tình nhất
và hiệu quả nhất hoạt động
bí mật trong lịch sử ” (82).
Các nhà phân tích tình báo
Mĩ ở Sài Gòn và Washington đã
nhiều lần xem xét khả năng này
để rồi luôn luôn phải kết
luận rằng chứng liệu tìm thấy
không biện hộ cho lời cáo buộc.
Các nhà phân tích này không
hề nhắm mắt làm ngơ đối với
những sai lầm của Trí Quang cũng như
đối với những cản trở ông
tạo ra trên con đường dẫn đến
một chính phủ VNCH ổn định có
khả năng điều hành cuộc chiến
hữu hiệu. Mặc dù người ta không
bao giờ có đủ chứng cớ để
phản bác luận cứ cho rằng Trí
Quang chỉ lừa bịp các nhà phân
tích Mĩ bằng những tư tưởng
chống cộng diều hâu của ông,
nhưng cũng nên nhớ rằng các đối
tượng nghe ông nói không phải là
những người chủ hoà cả tin hay
các trí thức hàn lâm đầy
lí tưởng, nhưng là những nhà
phân tích tình báo dày dạn
với quyết tâm giành thắng lợi
trong chiến cuộc Việt Nam như John Negroponte
và George Carver. Như Carver ghi nhận, ý
kiến cho rằng Trí Quang chỉ đưa ra
những tư tưởng chống cộng và
chủ chiến để lấy lòng các
viên chức Mĩ “ không có
khả
năng thuyết phục chút nào đối
với bất cứ ai đã trực tiếp
thảo luận những vấn đề ấy
với ông ” (83).
Đương
nhiên là, những nỗ lực của Trí
Quang cũng chẳng đóng góp được
gì cho sự nghiệp chống cộng và,
bất chấp mọi ý định của
ông, những can thiệp của ông vào
sinh hoạt chính trị Miền Nam thường
thường rốt cuộc chỉ có lợi
cho những mục tiêu của cộng sản
và MTDTGPMN. Các nhà phân tích Mĩ
nhiều lần nhìn nhận thực tế phũ
phàng này, nhưng họ coi vấn đề
này như một sai lầm trí tuệ về
phía Trí Quang, một sai lầm có gốc
rễ trong cá tính, hơn là một
mưu đồ có ý thức. Những can
thiệp thường xuyên vào chính sự
và những lời kêu gọi đòi
hỏi một “ cuộc cách
mạng xã
hội ” mơ hồ của ông vốn đã
không phù hợp với mục tiêu của
Mĩ về ổn định chính trị và
xã hội. Tuy nhiên, nhiều nhà phân
tích tình báo Mĩ chắc chắn đã
nhìn nhận rằng luận cứ của ông
không hẳn là thiếu chính đáng
hay sai lầm ; nghĩa là, Mĩ và VNCH
không thể thắng được cuộc
chiến trừ phi chính phủ Miền Nam phản
ánh được nguyện vọng của
nhân dân và quy tụ được quần
chúng để chống lại MTDTGPMN. Trí
Quang chắc chắn không đại diện cho
toàn thể nhân dân Việt Nam, hay thậm
chí đa số Phật tử, nhưng rõ
ràng là ông đại diện cho một
lực lượng chính trị hùng hậu
và có tổ chức. Ngay trước khi
xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo,
các nhà phân tích tình báo
Mĩ vẫn chưa tìm được cách
chuyển hướng hành động của
Trí Quang đi theo những đường lối
xây dựng hơn, nhưng họ cũng loại
bỏ ý kiến cho rằng Trí Quang hay
phong trào Phật giáo do ông lãnh đạo
cần phải cho qua một bên, không cần
đếm xỉa đến.
Bẽ bàng là, chính Henry Cabot Lodge lại là người lãnh trách nhiệm chính trong việc thay đổi đường lối của Mĩ đối với Trí Quang trong cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966. Với vai trò là kẻ bao che Trí Quang khỏi bàn tay của Diệm trong cuộc khủng hoảng 1963, Lodge được Phật tử coi là một nhân vật thân Phật giáo, cũng dễ hiểu thôi. Lodge bắt đầu phê phán gay gắt những sách động bài Công giáo của Trí Quang trong các vụ án xử Thiếu tá Đặng Sĩ và Ngô Đình Cẩn, nhưng mãi đến tận tháng Ba 1965, ông vẫn khuyên chính quyền Johnson đừng từ bỏ khối tín đồ Phật giáo vì họ có vai trò rất quan trọng ở Miền Nam (84). Tuy vậy, trong suốt cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966, Lodge lại quay ra ủng hộ lập trường của Chính phủ VNCH cương quyết đối đầu với phong trào tranh đấu Phật giáo. Lodge hoàn toàn ủng hộ quyết định của Kỳ cách chức tư lệnh Vùng I của Tướng Nguyễn Chánh Thi mặc dù Thi được coi là rất được lòng quần chúng Phật tử. Trong khi nhìn nhận ông không thể trưng ra chứng cớ, Lodge vẫn chấp nhận ý kiến cho rằng Trí Quang và một số nhân vật Phật giáo khác đang cố tình phục vụ những mục tiêu của cộng sản và MTDTGPMN (85). Trong suốt cuộc khủng hoảng lần này, Lodge nhất mực chủ chiến và ủng hộ nỗ lực của Chính phủ VNCH nhằm đè bẹp phe Phật tử tranh đấu.
Chắc
chắn là, Lodge nhận được một
số hậu thuẫn ở Washington dành cho lập
trường cứng rắn của ông đối
với Trí Quang. Maxwell Taylor, người mà
nhiệm kì đại sứ tại Sài
Gòn bị đánh dấu nhiều lần
bởi các cuộc khủng hoảng chính
phủ do phe Phật giáo gây ra, cho rằng
Lodge cần phải chuyển đến các nhà
lãnh đạo Chính phủ VNCH “ nhận
thức của chúng ta về tầm quan trọng
phải triệt hạ Trí Quang như một
thế lực chính trị ”. Taylor đã
từng bác bỏ ý kiến cho rằng Trí
Quang là người của Cộng sản trong
thời gian ông ta còn là đại sứ
ở Miền Nam, nhưng bây giờ ông ta
cho rằng Lodge và Chính phủ VNCH “
phải triển khai một kế
hoạch nhằm
vạch trần Trí Quang trước công
luận Việt Nam và cộng đồng quốc
tế như là một tên phiến loạn
được cộng sản hậu thuẫn với
chủ tâm tiêu diệt chính phủ
không - cộng sản tại Sài Gòn
nhằm phục vụ lợi ích của VC và
Hà Nội ” (86).
Mặc dù chính sách của Hoa Kì
trước cuộc khủng hoảng Phật giáo
đặt cơ sở trên quan niệm cho rằng
Trí Quang là kẻ gây rối nhưng
không phải là Cộng sản, nhưng bây
giờ Lodge lại đặt hẳn chính sách
ngoại giao Mĩ trên ý kiến cho rằng
Trí Quang gần như là một bộ phận
khắng khít trong nỗ lực phá hoại
của cộng sản. Quan điểm chính trị
của Trí Quang trong suốt cuộc khủng
hoảng cơ bản không có gì thay
đổi so với quan điểm ông vốn
có trước đó, nhưng Lodge dứt
khoát không còn coi ông như một
nhà hoạt động chính trị chính
đáng. Trong một điện văn gửi
Washington tháng Tư 1966, ông nói “
Chúng ta phải ý thức rõ
ràng
rằng giới lãnh đạo Phật giáo
là những kẻ thù nghịch của
chúng ta ” (87).
Thảm kịch của chính sách Mĩ
trong vụ khủng hoảng Phật giáo là
nhiều viên chức trong chính quyền
Johnson đã phản bác chính lập
trường mà Lodge cổ vũ, nhưng không
có hiệu quả bao nhiêu. Bộ Ngoại
giao nhiều lần đặt nghi vấn về
những quyết định và giả định
của Lodge suốt cuộc khủng hoảng này.
Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk đích
thân yêu cầu Lodge đừng chuẩn y
những luận điệu quy kết những nhà
lãnh đạo Phật giáo là cộng
sản bởi vì những luận điệu
này vẫn không đưa ra được
bằng chứng về sự móc nối và
bởi vì một đường lối như
vậy sẽ gặp phải sự phẫn nộ
của nhiều lãnh đạo Phật giáo,
những người có thể được
chứng minh là không cộng sản (88).
Sau khi nghe Cy Sulzberger của báo New
York Times nhấn
mạnh vai trò quan trọng của Việt Cộng
trong nỗ lực điều khiển phong trào
tranh đấu Phật giáo, Robert Komer đã
nói Sulzberger rằng ông “ thấy
rất
ít bằng chứng vững chắc khẳng
định VC đã thực sự điều
khiển vụ binh biến Huế-Đà Nẵng.
Chắc chắn là, có nhiều báo cáo
ở các cấp thấp nói về những
nỗ lực xâm nhập hàng ngũ tranh
đấu của cộng sản và mọi
người đều tin VC đã cố gắng
làm việc đó, nhưng tôi không
thể đưa ra cho ông ấy bằng chứng
vững chắc nếu bằng chứng ấy không
hề hiện hữu ” (89).
Komer lấy làm tiếc là Lodge đã
đưa ra cho Sulzberger và nhiều kí giả
khác một lối giải thích về cuộc
khủng hoảng Phật giáo hoàn toàn
sai lạc và không được nhiều
quan chức khác tán thành. Theo quan điểm
riêng của Komer, chính quyền Johnson cần
phải đặt vụ khủng hoảng Phật
giáo trong một tầm nhìn xa rộng và
cần phải “trấn an những người
hoảng hốt ” : “ Trí
Quang và
nhiều người khác nhất định
là không cố tình làm cho người
Mĩ phải rời bỏ Việt Nam. Chúng
tôi cũng không hề thấy những Phật
tử bất đồng chính kiến cũng
là những người chủ trương
trung lập, hay muốn thương thuyết với
VC. Họ biết như chính phủ VNCH đang
biết, làm như thế tức là phó
thác sinh mạng của mình cho VC. Nói
đúng ra, cái điều mà những
người bất đồng chính kiến
này theo đuổi (và họ nhiều lần
nói cho chúng tôi biết) bằng cách
biểu tình, bằng biểu ngữ chống
Mĩ và thậm chí bằng tự thiêu,
là tạo sức ép và gây lúng
túng khiến Hoa Kì phải ủng hộ
họ thay vì hậu thuẫn cho Kỳ ” (90).
Bản đánh giá tình hình của Komer nhận được sự đồng ý rộng rãi trong giới chức chính quyền Johnson. Thomas Hughes, Giám đốc Phòng Tình báo và Nghiên cứu của Bộ Ngoại giao (INR), gửi đi một bản phân tích dài dòng về tình trạng bế tắc giữa phe Phật giáo và Chính phủ VNCH trong tháng Ba, trong đó thậm chí ông không hề ám chỉ dù gián tiếp là phe Phật giáo bị chi phối bởi tinh thần chống Mĩ, bởi ý muốn trung lập, hay chấm dứt chiến tranh bằng bất cứ mọi giá. Cội nguồn của cuộc khủng hoảng, theo lí luận của Hughes, được tìm thấy trong những “ mối bất bình đối với tập đoàn lãnh đạo Thiệu-Kỳ, một chế độ mà phe Phật giáo cho là chuyển động quá chậm chạp và miễn cưỡng trong việc hợp pháp hoá tình trạng của nó, như tổ chức tuyển cử quốc gia, và giao quyền điều khiển chính phủ lại cho giới chức dân cử--nói chung, chế độ này đã đi ngược chứ không đẩy mạnh cuộc cách mạng 1963 ” (91). Đường lối cơ bản để đối phó cuộc khủng hoảng Phật giáo do CIA đề xuất rất phù hợp với đường lối mà Phòng Tình báo và Nghiên cứu (INR) đưa ra. Trong nhiều tham luận dài dòng nhưng sâu sắc, George Carver bác bỏ toàn bộ quan niệm cho rằng người Mĩ nhất định sẽ thất bại trong cuộc chiến nếu phe Phật giáo tranh đấu lên nắm chính quyền tại Miền Nam. Mặc dù nhìn nhận sẽ có những vấn đề ngắn hạn do một chiến thắng của phe Phật giáo đặt ra cho nỗ lực chiến tranh hiện nay, Carver tin rằng sự tương hợp của các mục tiêu của Mĩ và của phe Phật giáo vẫn còn tồn tại. Carver không hề nghĩ là nên trao quyền bính cho Trí Quang hay những Phật tử đấu tranh khác, nhưng ông cho rằng không có sự ủng hộ tích cực của giới Phật giáo thì chính sách của Mĩ không thể nào thành công được. Thật vậy, Carver mạnh dạn hàm ý rằng quyền lợi của Mĩ có thể được phục vụ tốt hơn nhờ một chiến thắng của phe Phật giáo vì “ một chính phủ trong đó quần chúng Phật tử có một tiếng nói ưu thế sẽ tạo được điểm hội tụ cho chủ nghĩa quốc gia đang vươn dậy, một chủ nghĩa nhiên hậu có thể cung ứng cho toàn bộ cơ chế quốc gia chủ nghĩa và phi cộng sản một nền móng vững chắc hơn cơ chế hiện nay đang có được ” (92). Lí luận cơ bản của Carver không có gì độc đáo ; từ lâu Trí Quang vẫn lập luận rằng Chính phủ VNCH không thể nào chiến thắng MTDTGPMN và Bắc Việt trừ phi nó có một nền móng vững chải hơn và được lòng dân hơn. Một liên minh gồm Bộ Ngọai giao, CIA, và Robert Komer có bề ngoài rất hùng hậu, nhưng chính Lodge mới thật là người đạo diễn “cuộc hí trường” vì ông là nhân vật duy nhất gặp gỡ và thảo luận thường xuyên với Kỳ và Thiệu. Tuy thỉnh thoảng Lodge cũng lắng nghe những quan ngại của Bộ Ngoại giao về cách ông đối phó cuộc khủng hoảng, nhưng ông chỉ tiếp thu một cách khiên cưỡng. Sau mỗi cuộc khủng hoảng do Trí Quang châm ngòi trước đây, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kì luôn tìm cách tái lập quan hệ tốt đẹp với Phật giáo vì lí do hiển nhiên là phe Phật giáo không thể bị triệt tiêu khỏi bài toán đi tìm phương cách xây dựng một xã hội không - cộng sản khả dĩ đứng vững ở Miền Nam. Tuy nhiên, đối với Lodge, không còn con đường hoà giải với Trí Quang hay phe Phật giáo tranh đấu thậm chí sau khi họ đã bị quân Chính phủ VNCH đè bẹp tháng Sáu 1966. Khi Bộ Ngoại giao bày tỏ niềm thất vọng vì không có ứng viên nào từ phong trào tranh đấu Phật giáo ra tranh cử Quốc hội Lập hiến mới, mà việc triệu tập của nó vốn là một nhượng bộ quan trọng do lực lượng đối lập giành được, Lodge trả lời rằng phe Phật giáo tranh đấu không phải là một “ tổ chức đối lập trung trực ” và rằng ông chống lại mọi nỗ lực có mục đích khuyến khích họ tham dự sinh hoạt chính trị (93). Hầu như Trí Quang và phe Phật giáo tranh đấu đứng ngoài sinh hoạt chính trị Miền Nam cho đến ngày VNCH không còn tồn tại. Mark Moyar tin rằng việc Chính phủ VNCH dùng vũ lực vào mùa Xuân 1966 đã chứng minh rằng “ phe Phật giáo tranh đấu có thể bị dẹp bỏ mà không hề phương hại đến nỗ lực điều hành cuộc chiến ” (94). Có lẽ là thế, nhưng vẫn còn một lối lí giải khác là, cuộc khủng hoảng chỉ chứng minh được rằng phe Phật giáo có thể bị chính phủ dùng quân lực để đánh bại, điều này cơ bản không có ai ngờ vực. Còn liệu chính quyền Johnson và Trí Quang lẽ ra có thể đã xây dựng được một mối quan hệ phong phú, một quan hệ khả dĩ vận dụng được sức mạnh của phong trào Phật giáo để chống lại Bắc Việt và MTDTGPMN, thì điều này vẫn không rõ ràng, và chắc chắn có nhiều lí do để hoài nghi rằng một quan hệ đối tác như thế hoặc là có thể xảy ra hoặc là đáng mong muốn. Tuy nhiên, có một điều hình như ít ai đem ra tranh luận là việc triệt tiêu Trí Quang và phong trào Phật giáo năm 1966 đã giảm thiểu hơn nữa những viễn ảnh vốn đã mong manh về một chế độ không - cộng sản được lòng dân xuất hiện ở Miền Nam.
JAMES McALLISTER
Nguyên tác tiếng Anh : "Only
Religions Count in Vietnam :
Thich Tri Quang and the
Vietnam War,"
tạp chí Modern Asian
Studies 42, 4 (2008), pp. 751–782
(1) George Herring, “ ‘Peoples Quite Apart’: Americans, South Vietnamese, and the War in Vietnam,” Diplomatic History, 14 (1990), p. 1. [“‘Hai dân tộc cách vời’: người Mĩ, người Nam Việt Nam, và Chiến tranh Việt Nam,” Lịch sử Ngoại giao, 14 (1990), tr.1.]
(2) Tôi ngờ rằng một phần lí do các sử gia chưa quan tâm đến Trí Quang và phe Phật giáo nhiều hơn là vì bộ sưu tập [các văn thư của Bộ Ngoại giao] Foreign Relations of the United States (FRUS) / Quan hệ Đối ngoại của Hoa Kì chỉ chứa đựng một vài cuộc đàm thoại giữa Trí Quang và Toà Đại sứ ở Sài Gòn, trong đó không có một bản đánh giá nào của CIA về mục tiêu và động lực của ông. Người ta không bao giờ biết được có bao nhiêu tư liệu hiện hữu trong các văn khố Hoa Kì nếu chỉ dựa vào chút quan tâm ít ỏi dành cho Trí Quang và phong trào Phật giáo trong bộ FRUS.
(3) Mark Moyar, Political Monks : The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War [“ Sư chính trị : Phong trào Phật giáo Tranh đấu trong Chiến tranh Việt Nam”], Modern Asian Studies, 38 (2004), tr. 749–784.
(4) Moyar, Political Monks, tr. 756. Moyar cũng đưa ra những luận cứ này trong một cuốn sách vừa xuất bản Triumph Forsaken : The Vietnam War, 1954–1965 [Chiến thắng bỏ đi: Chiến tranh Việt Nam, 1954-1965] (New York : Cambridge University Press, 2006), tr. 216–218. Mặc dù tôi có nhiều bất đồng với Moyar liên quan đến Trí Quang, tất cả những nhà nghiên cứu về cuộc chiến cần phải nghiêm túc nắm bắt công trình nghiên cứu rộng rãi và việc đánh giá có tính xét lại về nhiều yếu tố của Chiến tranh Việt Nam của ông.
(5) Marguerite Higgins là người cổ xuý mạnh mẽ nhất luận điểm cho rằng Trí Quang là một công cụ của Cộng sản. Xem Our Vietnam Nightmare [Cơn ác mộng Việt Nam của chúng ta] (New York : Harper & Row, 1965). Xem thêm Richard Critchfield, The Long Crusade: Political Subversion in the Vietnam War [Thánh chiến Trường kì: Phá hoại chính trị trong Chiến tranh Việt Nam] (New York: Harcourt, Brace & World, 1968); và Robert Shaplen, The Lost Revolution [Cuộc cách mạng thất bại] (New York: Harper & Row, 1965). Mặc dù Moyar trích một số bằng chứng từ các sử liệu miền Bắc về cuộc chiến, những sử liệu cho rằng cộng sản đã xâm nhập được phong trào Phật giáo, nhưng không có dấu hiệu gì để quy kết trực tiếp hoặc gián tiếp Trí Quang làm tay sai cho Cộng sản. Những bằng chứng như thế cũng chẳng làm cho giới chức Mĩ thời bấy giờ bị sốc, vì họ vốn đã nhìn nhận cộng sản mưu toan xâm nhập và tạo ảnh hưởng lên phong trào PG. Xem Moyar, Triumph Forsaken, tr. 217.
(6) Bản ghi nhớ của CIA : CIA Memorandum, “ Tri Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam [Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo ở Miền Nam Việt Nam], September 19, 1964, Lyndon B. Johnson Library (từ đây về sau viết tắt là LBJL), National Security Files (từ đây về sau NSF), Vietnam Country Files (từ đây về sau VNCF), box 9,vol. 18; và Saigon Embassy to State Department [Toà ĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao], January 31, 1965, National Archives II (từ đây về sau NA II), RG 59, Central Files, POL 13–6, box 2931.
(7) Sau khi Sài Gòn thất thủ, số phận Trí Quang không được rõ cho lắm, nhưng những gì người ta nghe biết thì không hậu thuẫn cho luận điểm của Moyar. Moyar cho rằng sau chiến thiến thắng của Bắc Việt Trí Quang được cộng sản ban thưởng vì âm mưu lật đổ VNCH : “ Khi Cộng sản chiếm được Miền Nam năm 1975, họ cho ông một công việc ở Huế và ông không hề lên tiếng phản đối chế độ mới, trong khi họ đưa đi tù những nhiều nhà sư khác, những nhà sư có một thành tích hoạt động chính trị ”. Có nhiều vấn đề nghiêm trọng khi chấp nhận lối đánh giá này. Một là, Moyar nói xuất xứ nguồn tin này là tờ Washington Post, ngày 2-11-1983, nhưng trong thực tế không có bài nào liên quan đến Trí Quang trong báo này vào ngày ấy. Rât có thể, Moyar muốn trích dẫn một ý kiến của H. Joachim Maitre trong bài “When Washington Ditched Diem” xuất hiện trên Wall Street Journal cùng ngày. Ý kiến cho rằng Trí Quang được Cộng sản tưởng thưởng nhờ vai trò của ông trong thập niên 1960 không có sức thuyết phục cho lắm vì chính Maitre đã viết : “ Trí Quang được bổ về làm việc ở Sở Vệ sinh thành phố Huế ”. Một chức vụ ở sở vệ sinh Huế chắc chắn có vẻ là một hình phạt hơn là một tưởng thưởng, nhất là khi ta xét về vai trò rất quan trọng mà Moyar và Maitre cho rằng Trí Quang đã đóng trong chiến thắng của cộng sản. Như Moyar nhận xét trong Triumph Forsaken, sau chiến tranh chế độ Bắc Việt đã phục chức cho nhiều cán bộ nằm vùng, nhưng chế độ không bao giờ nhìn nhận Trí Quang là cán bộ của họ. Hầu hết tất cả tin tức khác tường trình về số phận của Trí Quang đều vẽ ra một chân dung ảm đạm. Chẳng hạn, trong một chuyện đăng năm 1979 trên New York Times, James Sterba tường trình một trong những đệ tử của Trí Quang kể lại rằng ông “ đã trở thành một người tàn phế da bọc xương trong một năm rưỡi biệt giam tại khám Chí Hoà ”. Xin đọc James Sterba, “ Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related / Sự đọa đày của một nhà sư nổi tiếng, được kể lại,” New York Times, ngày 14-7-1979, A2. Sau cùng, Robert Topmiller, một sử gia từng đi Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn một số Phật tử trong thập niên 1990, tường thuật rằng ngay cả hiện nay Trí Quang vẫn còn bị quản thúc ở chùa Ấn Quang tại Thành phố Hồ Chí Minh. Xin đọc Robert Topmiller, “Vietnamese Buddhism in the 1990’s / Phật giáo Việt Nam trong thập niên 1990,” Trang nhà Quảng Đức.
Nhiều chứng liệu tương tự đưa đến một kết luận giản dị hơn : Thích Trí Quang chắc không phải là một cán bộ cộng sản và Hà Nội đã coi ông như một nhân vật độc lập, một nhân vật có tiềm năng đe doạ quyền thống trị của họ như ông từng là mối nguy cho giới cai trị Miền Nam trong thập niên 1960.
(8) Robert Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam,1964–1966 [Hoa sen tự do: Phong trào Phật giáo Hoà Bình ở Miền Nam Việt Nam, 1964-1966](Lexington, KY: The University of Kentucky Press, 2002,) tr. viii.
(9) Chẳng hạn, không một cuộc đàm thoại nào giữa Trí Quang và Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn trích dẫn trong bài này xuất hiện trong sách của Topmiller. Hình như Topmiller đã không hề tham khảo bất cứ tài liệu nào ở Hồ sơ Chính (Central Files) tại Văn khố Quốc gia II (NAII), tại đây hầu hết các cuộc đàm thoại đó được lưu giữ. Mặc dù các cuộc phỏng vấn mà Topmiller thực hiện với giới trí thức đại học và giới Phật tử là vô giá, nhưng rất đáng tiếc là nhiều luận điểm quan trọng mà ông đưa ra chỉ được hỗ trợ bằng các cuộc phỏng vấn có tính lịch sử truyền khẩu hơn là có văn kiện hẳn hoi.
(10) Toà ĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925. Câu tóm tắt đặc sắc nhất về nguyên tắc chủ đạo của Trí Quang có thể tìm thấy trong một bài phỏng vấn ông dành cho kí giả Robert Shaplen năm 1969. “ Đảng phái chính trị như thế không có nghĩa lí gì cả…Chỉ có tôn giáo mới thật đáng kể ở Việt Nam, và Tổng thống Nixon phải thích nghi với nhận thức này ”. Robert Shaplen, The Road From War [Con đường ra khỏi Chiến tranh] (New York: Harper & Row, 1970) tr. 271.
(11) Thư của ông có thể được tìm thấy trong hồ sơ Toà Đại sứ Mĩ Sài Gòn gửi Bộ trưởng Ngoại giao hiện nằm tại Thư Viện John F. Kennedy : Saigon to Secretary, September 2, 1963, John F. Kennedy Library (từ đây về sau JFKL), National Security File (NSF), box 199, State cables 9/1/1963–9/10/1963. Điều đáng để ý là, Thích Trí Quang không muốn đi tị nạn chính trị ở Ấn Độ vì “ tính cách trung lập của nước này ”.
(12) TĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, November 27, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 1; và Saigon to State Department [TĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao], NAII, RG59, POL13–6, box 2931. Paul Kattenburg, Giám đốc Đoàn Công tác Việt Nam (VWG) và là người gặp Trí Quang liền sau cuộc đảo chánh 1963, nói rằng ông đặc biệt ngạc nhiên khi Trí Quang nhấn mạnh Hoa Kì phải dùng quyền lực của mình đối với Chính phủ Miền Nam : Paul Kattenburg to Melvin Manfull, December 31, 1963, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 1, ORG 1.
(13) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, November 11, 1963, JFKL, NSF, box 202, State Cables 11/6/1963–11/15/1963.
(14) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, December 17, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2.
(15) Xem George McT. Kahin, Intervention : How America Became Involved in Vietnam [Can thiệp: Con đường Mĩ dính líu tới Việt Nam] (New York: Anchor Books, 1987), tr. 182–202; và Topmiller, The Lotus Unleashed, tr. 15–16.
(16) Xem David Kaiser, American Tragedy : Kennedy, Johnson, and the Origins of the War [Thảm kịch của Mĩ: Kennedy, Johnson và Nguồn gốc Chiến tranh] (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2000), tr. 297–298. Nhiều viên chức Hoa Kì liên tục yêu cầu Khánh trưng bằng chứng về những cáo buộc mà ông dành cho Minh, nhưng họ không bao giờ nhận được một mảy may chứng cớ hậu thuẫn cho những cáo buộc ấy.
(17) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, January 17, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2.
(18) Toà lãnh sự Mĩ ở Huế gửi Toà đại sứ ở Sài Gòn : Hue to Saigon, February 19, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924.
(19) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925.
(20) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, “Recent Buddhist Developments,” [Những diễn biến mới đây của Phong trào Phật giáo], March 26, 1964, LBJL.
(21) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3, vol. 7.
(22) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, May 7, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 8. CIA cũng báo cáo rằng những tin tức về điều gọi là liên can của Trí Quang với trung lập và cộng sản ‘vẫn không được chứng minh”, theo Bản ghi nhớ Tình báo của CIA, “ Đánh giá vấn đề tôn giáo ở Miền Nam Việt Nam ” : CIA Intelligence Memorandum, “An Assessment of the Religious Problem in South Vietnam,” LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 9.
(23) Theo Bản ghi nhớ của một Phiên họp : Memorandum of a Meeting, May 11, 1964, Foreign Relations of the United States (từ đây về sau FRUS), 1964–1968, vol. 1, tr. 305.
(24) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, May 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 5, vol. 10.
(25) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, June 1, 1964, NA II, RG 59, POL 6 VIET S, box 2929.
(26) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, June 11, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
(27) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, August 10, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2945.
(28) Như trên.
(29) Bạn đọc có thể theo dõi vụ việc Trí Quang phản đối Khánh ghi lại trong văn thư của TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, August 23, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; Saigon to Secretary, August 23, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; và trong một loạt các cuộc đàm thoại ghi lại trong văn thư Toà ĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, August 26, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
(30) Hội thoại trực tuyến với Tướng Westmoreland : Telecon with General Westmoreland, August 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16.
(31) Điện văn tin tình báo của CIA, “Bản phân tích về khả năng liên hệ với Cộng sản, về cá tính và mục tiêu chính trị của Trí Quang” : CIA Intelligence Information Cable, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality, and Goals,” August 28, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; và Bản ghi nhớ của CIA, “ Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo ở Miền Nam Việt Nam ”: CIA Memorandum, “ Tri Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam,” September 19, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9, vol. 18.
(32) “Bản Phân tích về Trí Quang”: “Analysis of Tri Quang,” August 28, 1964. Bản Phân tích ngày 19 tháng Chín không mạnh mẽ bằng bản phân tích trước đó vì nó chỉ lí luận rằng Trí Quang “chắc không phải là cán bộ cộng sản”. Mặc dù ghi nhận rằng CIA bác bỏ những đánh giá [cho rằng Trí Quang có quan hệ cộng sản], nhưng Moyar lại viết: “Một số viên chức cấp cao Mĩ giờ đây lại nằm trong số người cho rằng Trí Quang là cán bộ cộng sản”. Bản báo cáo ngày 19 tháng Chín có nói rằng một số “quan sát viên Mĩ thạo tin nghiêng về quan điểm này”, nhưng tôi không tìm ra bất cứ một chứng liệu nào cho biết chính xác “ai là viên chức cấp cao” chia sẻ quan điểm này. Xem Moyar, “Political Monks” (Những nhà sư Chính trị), tr.760.
(33) “Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo”: “Tri Quang and Buddhist Catholic Discord,” September 19, 1964.
(34) Fredrik Logevall, Choosing War : The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam [Chọn lấy chiến tranh : cơ may hòa bình đã mất và việc leo thang chiến tranh tại Việt Nam] (Berkeley: University of California Press, 1999), tr. 240.
(35) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 2, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
(36) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
(37) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
(38) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
(39) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
(40) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937.
(41) Cả bài diễn văn lẫn lá thư có thể được tìm thấy trong văn thư của TĐS Mĩ ở Sài Gòn gửi về Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, October 16, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924.
(42) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937.
(43) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, October 23, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2948.
(44) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, November 2, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 293.
(45) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, November 5, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
(46) “Bản đánh giá hiện nay về tình hình chính trị ở Miền Nam Việt Nam” của Toán Công tác Việt Nam : “Current Estimate of Political Situation in South Vietnam”, November 25, 1964, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 5, POL 1: Vietnam/Other Areas.
(47) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, November 2, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 293.
(48) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, November 17, 1964, NA II, RG 59, POL1 US VIET S, box 2878; and Saigon to State Department, November 27, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
(49) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, December 1, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10, vol. 23. Cách tường thuật của Moyar trong Triumph Forsaken [Chiến thắng bỏ đi] hàm ý Trí Quang từ ban đầu đã ủng hộ việc chống đối Hương, nhưng đây không phải là quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn. Xem Moyar, Triumph Forsaken, tr.334.
(50) Bản ghi nhớ sơ thảo cuộc đàm thoại giữa Taylor và Đại sứ Trần Thiện Khiêm : Draft Memorandum of Conversation between Taylor and Ambassador Khiem, December 2, 1964, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 5, POL-1, Memoranda of Conversation.
(51) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, December 16, 1964, FRUS, 1964–68, vol. 1, tr. 1000–1009.
(52) Trí Quang bày tỏ với nhiều viên chức Hoa Kì rằng ông sẵn sàng vận động chống lại Khánh nếu Hương thỏa mãn những điều kiện của phía Phật giáo. Xem văn thư của TĐS Mĩ gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, December 24, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11, vol. 24.
(53) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, January 5, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927.
(54) Điện văn tin tình báo CIA : CIA Intelligence Information cable, January 10, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12, vol. 26.
(55) CIA, “SNIE 53–65: Short-Term Prospects in South Vietnam [Dự kiến ngắn hạn tại Miền Nam Việt Nam],” February 4, 1965, Estimative Products on Vietnam 1948–1975 [Kết quả đánh giá về tình hình Việt Nam 1948-1975] (Washington, DC: GPO, 2005).
(56) Moyar, Political Monks, [“Sư chính trị”] tr. 773.
(57) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, January 31, 1965, NA II, RG 59, POL 13–6 VIET S, box 2931.
(58) Theo nguồn tư liệu ở trên. Chính Trí Quang cũng nhìn nhận Việt Cộng chắc có xâm nhập các cấp thấp của tổ chức [GHPGVNTN], nhưng ông vạch rõ VC cũng xâm nhập mọi tổ chức khác trên khắp cả nước. Xem TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, February 4, 1965, POL 2 VIET S, box 2927.
(59) Corcoran gửi Higgins : Corcoran to Higgins, February 18, 1965, NA II, RG 59, POL 13–6 VIET S, box 2931.
(60) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to Department of State, “Interview by Tri Quang in English-Language Dailies” [Trí Quang trả lời phỏng vấn trên những nhật báo tiếng Anh], February 3, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13, vol. 27. Hẳn nhiên, người đọc không thể hiểu lời phát biểu của Trí Quang theo nghĩa đen bởi vì đôi khi phong trào Phật giáo cũng có xiển dương tinh thần chống Mĩ. Nội dung mà chắc hẳn ông muốn chuyên chở là, những biểu lộ cảm tính này chỉ có ý nghĩa chiến thuật chứ không phải là lối diễn đạt cơ bản bày tỏ quan điểm của Phật giáo đối với Hoa Kì.
(61) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, February 4, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927.
(62) Điện văn tin tình báo CIA: CIA Intelligence Cable, February 2, 1965, Declassified Documents Reference System, [Hệ tham khảo các Hồ sơ Giải mật],1976070100060.
(63) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, March 4, 1965, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2953.
(64) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, March 1, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30.
(65) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, March 3, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30.
(66) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, March 22, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15, vol. 31.
(67) Theo tư liệu đã dẫn ở trên. Dù ghi nhận lời kêu gọi oanh kích của Trí Quang, nhưng Moyar lí luận trong Political Monks (Sư Chính trị) rằng “có bằng chứng trực tiếp nói rằng lời cố vấn này chỉ là một công cụ nhằm duy trì ân huệ của Hoa Kì để cho phe Phật giáo tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động phá hoại của họ” (tr. 779). Đáng tiếc là, bằng chứng trực tiếp ấy chỉ là một câu trích từ chuyên gia chống nổi dậy người Anh Robert Thompson: “Trí Quang nói với Tướng Taylor rằng ông ủng hộ việc dội bom Miền Bắc, rồi sau đó ông đến thẳng với người Pháp để phân bua rằng ông làm vậy chỉ để ru ngủ những ngờ vực của Taylor nhằm rảnh tay đẩy mạnh chiến dịch bí mật đòi hoà bình bằng mọi giá—hay nói đúng ra, bằng cái giá mà cộng sản đưa ra.” Xuất xứ của lời trích dẫn này chắc chắn là rất mù mờ; Moyar trích dẫn từ cuốn The Long Charade (Trò vờ vĩnh lâu dài) của Critchfield, nhưng nó cũng xuất hiện trong một cuốn sách xuất bản năm 1965 của Higgins, Our Vietnam Nightmare (Cơn ác mộng Việt Nam của chúng ta), tr. 285-286. Cả Higgins lẫn Critchfield đều không cho biết Thompson đã đưa ra phát biểu này ở đâu và vào lúc nào. Nội cái ý kiến cho rằng Trí Quang chịu tiết lộ một quan điểm như thế tự nó là một điều đáng nghi ngờ, nhưng ý kiến cho rằng ông chịu chọn mặt gửi vàng mà tiết lộ quan điểm của mình với “người Pháp” là điều ít ai tin được vì trước sau như một Trí Quang luôn giữ lập trường cực kì chống Pháp. Tóm lại, không cách chi có thể coi trích dẫn Thompson như một bằng chứng nghiêm túc liên quan đến động lực chính trị của Trí Quang.
(68) Bộ ngoại giao gửi Toà Đại sứ ở Sài Gòn : State Department to Saigon, March 2, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30.
(69) Như trên.
(70) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, March 19, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927.
(71) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, May 6, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17, vol. 34.
(72) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 7, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32.
(73) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 12, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32.
(74) CIA, “Tình hình Miền Nam Việt Nam” : CIA, “The Situation in South Vietnam,” April 7, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32.
(75) Bản ghi nhớ gửi Giám đốc Tình báo Trung ương : Memorandum for Director of Central Intelligence, “CIA Proposals for Limited Covert Civilian Political Action in Vietnam,” [Đề xuất hoạt động dân sự vụ bí mật và có giới hạn ở Việt Nam], March 31, 1965, LBJL, McCone’s 12 Points, box 194.
(76) Thư Trí Quang gửi Lodge : Tri Quang to Lodge, May 13, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17, vol. 34.
(77) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, May 6, 1965, LBJL, NSF, VN CF, box 17, vol. 34.
(78) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, July 21, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20, vol. 37.
(79) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, July 10, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20, vol. 37.
(80) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, June 12, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18, vol. 35.
(81) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, June 22, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19, vol. 36.
(82) Moyar, Triumph Forsaken, tr. 218.
(83) Carver gửi McNaughton : Carver to McNaughton, “Consequences of a Buddhist Political Victory in South Vietnam,” [Những hệ quả do một thắng lợi chính trị của phe Phật giáo ở Miền Nam] VN LBJL, NSF, VNCF, box 63, 1 EE (4) Post-Tet Political Activity [Sinh hoạt chính trị sau Tết Mậu Thân].
(84) Bản ghi nhớ của Lodge : Memorandum by Lodge, “Recommendations Regarding Vietnam,” [Những đề xuất liên quan Việt Nam] March 8, 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, pp. 415–420.
(85) Lodge, Điện tín hàng tuần : Lodge Weekly Telegram, March 23, 1966, FRUS, 1964–1968, vol. 4, pp. 225–229.
(86) Maxwell Taylor, “Comments on the Present Situation in South Vietnam,” [Bình luận về tình hình hiện nay tại Miền Nam Việt Nam] April 8, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 29, vol. 50.
(87) Lodge gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Lodge to Secretary, April 8, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 29, vol. 50.
(88) Rusk gửi Lodge: Rusk to Lodge, April 6, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 46, NODIS, vol. 3.
(89) Bản ghi nhớ của Komer gửi Bill Moyers : Komer Memorandum to Bill Moyers, June 3, 1966, LBJL, Files of Robert Komer, box 4, Moyer/Christian Folder. Như Komer đã nhận xét một cách tiếc rẻ, Sulzberger chắc đã tiếp thu những quan điểm này từ [Đại sứ] Lodge và Phó Đại sứ William Porter.
(90) Komer gửi Bill Moyers : Komer to Bill Moyers, June 2, 1966, LBJL, Files of Robert Komer, box 3, White House Chronological Folder March–December 1966. Phần nhấn mạnh là của nguyên bản.
(91) Hughes gửi Rusk : Hughes to Rusk, March 19, 1966, “GVN Crisis Hardening But Compromise Seems Possible,” [Cuộc khủng hoảng CPVNCH ngày càng gay gắt nhưng có vẻ có khả năng đi tới tương nhượng] FRUS, 1964–1968, vol. 4, pp. 292–293.
(92) Carver, “Những hệ quả do một chiến thắng chính trị của Phật giáo ở Miền Nam Việt Nam” và Bản ghi nhớ tình báo của CIA, “Thích Trí Quang và những mục tiêu chính trị của Phật giáo tại Miền Nam Việt Nam”, LBJL, NSF, VNCF, box 30, vol. 51. Trích dẫn lấy từ tài liệu thứ hai. Carver không được ghi là tác giả tài liệu này, nhưng rõ ràng là ông ta đã đóng góp những ý chính.
(93) Lodge gửi William Bundy : Lodge to William Bundy, July 26, 1966, LBJL, NSF, VNCF, box 34, vol. 56.
(94) Moyar, Political Monks, [Sư chính trị], tr. 784.
Các thao tác trên Tài liệu