Trao đổi về ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT của Nguyễn Khải
Trao đổi về
Đi
tìm cái tôi đã mất
của
Nguyễn Khải
Nguyễn Đăng Mạnh
Trước khi mất, Nguyễn Khải gửi lại cho đời bài viết Đi tìm cái tôi đã mất. Bài được đưa lên mạng (có thể đọc trên mạng Diễn Đàn : (1), (2), (3)). Vương Trí Nhàn và Huệ Chi có lời bình luận trên Talawas (i). Về hai bài bình luận này, tôi có chỗ nhất trí, có chỗ chưa tán thành.
Mỗi người cầm bút chúng ta hãy nhớ lại chính bản thân mình thời chiến tranh với phong trào hợp tác hóa trong sản xuất và chế độ quan liêu bao cấp mà xem. Đúng là hồi ấy chủ nghĩa tập thể bầy đàn lấn át cá nhân, thủ tiêu tự do cá nhân. Nhưng có phải hồi ấy, tuy vật chất vô cùng cực khổ, ta vẫn cảm thấy thoải mái, vui vẻ đấy chứ ! Các học thuyết về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản, rồi đường lối văn nghệ phục vụ chính trị và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa v.v., ta có băn khoăn, nghi ngờ gì đâu !
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất mạnh và lâu đời. Cho nên đánh Pháp, đánh Mỹ, giải phóng dân tộc là rất thuận lòng dân (sau này có thể phát hiện con đường khác hay hơn, nhưng là chuyện sau này, mãi sau này). Mà ai là người phát động và lãnh đạo hai cuộc kháng chiến được gọi là “thần thánh” ấy ? Đảng cộng sản và cụ Hồ chứ ai. Vậy thì tin Đảng, tin cụ Hồ là điều dĩ nhiên. Mà tin Đảng, tin cụ Hồ, tức là tin ở chủ nghĩa xã hội, ở tập thể bầy đàn, tin ở học thuyết giai cấp của Mác - Lê Nin, tin ở đường lối văn nghệ phục vụ chính trị và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra chiến tranh là hoàn cảnh rất thuận lợi cho sự phát triển tư tưởng bầy đàn và thủ tiêu ý thức cá nhân :
Một
người, đâu
phải nhân gian
Sống chăng, một
đốm lửa tàn mà thôi !
(Tố Hữu)
Việc hoài nghi và đi đến phủ nhận những “chân lý” ấy chỉ là chuyện sau này – sau 1975 và nhất là sau Đại hội Đảng Cộng sản thứ VI (1986).
Lòng yêu nước khiến cho nhiều người, tuy cách mạng chẳng đem lại cho một chút quyền lợi gì, cũng hăng hái tham gia kháng chiến, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, lòng đầy tin tưởng (trong số này có không ít người thuộc giai cấp địa chủ, tư sản và tầng lớp trí thức cao cấp). Huống chi Nguyễn Khải là người được cách mạng vớt lên từ cống rãnh, tắm gội cho sạch sẽ, lại cấp cho một cái nghề sang trọng, vừa có danh, vừa có lợi.
Cho nên những tác phẩm Nguyễn Khải viết thời chiến tranh đâu phải là giả dối. Một người nhát, không biết bơi, rất sợ nước, vậy mà tự nguyện vượt biển ra Cồn Cỏ để viết Họ sống và chiến đấu thì không thể nói là giả dối được.
Huệ Chi nói, có
“ những người thông
minh quá, tinh
quái quá […] nên
đã biết
biến “dối” thành
“thật” ”.
Tôi nghĩ, làm gì có chuyện ấy
! Người ta có thể nói dối ở
đâu đâu, chứ không thể nói
dối trong văn chương được. Có
thể diễn đạt như thế này thì
đúng hơn : hồi đó họ đã
nói dối một cách thành thực. Nhưng
nói cho thật đúng thì lúc đó
họ cũng không hoàn toàn nói
dối. Nhận thức của họ có thể
không phản ánh đúng sự thật,
niềm tin của họ có thể mù
quáng, nhưng lòng yêu nước của
họ là có thật chứ ! Cho nên
những tác phẩm của họ đã
từng làm chúng ta xúc động thật
sự, xúc động một cách thành
thật. Nhớ lại mà xem có đúng
thế không ?
Trong bài viết của
mình, Vương Trí Nhàn có dẫn
lời Dương Tường rằng trong Nguyễn
Khải có hai con người “ Một
Nguyễn Khải khôn khéo giả dối và
một Nguyễn Khải thành thật trắng
trợn. Một Nguyễn Khải hèn nhát
và một Nguyễn Khải khinh ghét tay
Nguyễn Khải hèn nhát kia. Và sự
tranh chấp giữa hai con người ấy không
bao giờ ngã ngũ ”. Và Vương
Trí Nhàn nói thêm : “ Sự
tranh
chấp ở đây thực ra chỉ là
bề ngoài, trên sàn diễn, trước
mặt bàn dân thiên hạ. Chứ ở
hậu trường, Nguyễn Khải yêu cả
hai con người đó ở mình. Ông
sống hoà hợp với cả hai. Tùy
trường hợp mà ông đưa con
người này hay con người kia ra để
làm hàng. Lối nghĩ này đã
giúp ông thành công chói lọi
trong suốt đường đời ”.
Những nhận xét
ấy không hẳn sai. Nhưng theo tôi, hai
con người ấy ở Nguyễn Khải chỉ
xuất hiện một cách thật sự rõ
rệt và hoàn toàn tự giác
trong tâm trí anh từ sau năm 1975. Mà
cũng xuất hiện dần dần, ngày một
sáng rõ hơn trong quá trình suy ngẫm
nhờ trải nghiệm bản thân và
những sự kiện trong nước, ngoài
nước khiến anh thức tỉnh. Năm 1993,
trong truyện Anh
hùng bĩ vận (trong tập truyện ngắn Một thời gió bụi, nxb Lao Động, 1993),
Nguyễn
Khải viết : hồi ấy “ là
một
viên chức nhà nước ăn lương
để viết văn. Không nghĩ ngợi
gì nhiều, trăn trở gì nhiều,
không sóng gió, không chìm nổi.
Đôi lúc cũng muốn bơi ngược
một tí, rẽ ngang một tý, nhưng
rồi mệt quá lại khuôn mình theo
dòng chảy, theo dòng mà bơi, bơi
cùng với đồng đội, vừa an
toàn vừa vui vẻ ”.
“ Bơi ngược một tý
” có
nghĩa là viết theo kinh nghiệm cá
nhân. Viết được như thế trước
1975 là chỗ hấp dẫn và hơn người
của Nguyễn Khải – tôi gọi là
“ khoán chui ” tư tưởng. Bây
giờ đọc lại, thấy những tư
tưởng gọi là khoán chui ấy thực
ra cũng có ghê gớm gì lắm đâu,
có gì thật trái nghịch với
kinh nghiệm cộng đồng đâu.
Vâng, tôi cho rằng,
sự xung đột giữa hai con người ở
Nguyễn Khải như Dương Tường
từng nói chỉ thực sự diễn ra
trong ý thức tự giác của Nguyễn
Khải mãi sau này.
Còn vì sao phải
đợi đến khi sắp từ giã cõi
đời, Nguyễn Khải mới nói ra sự
thật của lòng mình một cách
“ thành thật và trắng
trợn ”,
thì tưởng chẳng có gì khó
hiểu. Nguyễn Khải là người nhát,
quá nhát. Nhưng chết rồi thì
còn sợ gì nữa, còn có quyền
lợi gì phải mất nữa ! Mặt khác
phải nói rằng, con người ta khi đã
ngộ ra được điều gì thì
trong lòng bức xúc không chịu được,
phải nói ra để giải tỏa.
Dostoievsky nói : “ Thật
là nặng nề
khi phải một mình ôm giữ sự thật
”. Vả lại nói ra như thế cũng
là một đóng góp cho đời
chứ, cũng là trách nhiệm của một
người viết văn chứ !
Nguyễn Khải đúng
là một con người thông minh, khôn
ngoan. Nhưng theo tôi, cũng chỉ là khôn
vặt, một thứ “ tiểu trí ”
mà thôi. Mà nói chung, dân tộc
ta là thế, không có đại trí
đâu. Một dân tộc nông dân
láu cá thế thôi. Một sự khôn
ngoan chỉ vừa đủ để “ biết
lui biết tới ” mong được sống
yên ổn với đời. Lời Trang Tử,
chính Nguyễn Khải dẫn ra trong bài
viết của mình, đã diễn tả
rất đúng cái khôn của anh “
con chim bay cao để
tránh được tên,
được bẫy, con chuột đào hang
sâu để tránh được hoạ
bị khói hun ”. Nguyễn Khải (và
những người Việt Nam khôn ngoan nhất
cũng thế thôi) đâu phải là
một đầu óc “ đại trí
” để có thể vượt được
thời thế, thoát được ra khỏi
bầu không khí tâm lý của cả
cộng đồng dân tộc đang đắm
đuối trong một tín ngưỡng. Anh nói
đúng : “ Một trí tuệ
sáng
láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc
bởi nhiều vòng tự giác và
không tự giác của thời thế, của
cuộc đời ”. Nhất là Nguyễn
Khải, con người mà cái danh cái
lợi của cá nhân đều gắn với
thời thế, đều nhờ vào thời
thế. Cho nên anh thú nhận : “ Những
năm 50, 60 của thế kỷ XX, với tôi
là những năm tràn đầy niềm
tin. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy
được, dân tộc tôi được
[...] tôi vui là chuyện
có thật,
những trang viết của tôi vào những
năm ấy là rất thành thật ”.
Cuộc đời Nguyễn
Khải, như anh nói, thật là may mắn.
Anh được đủ mọi thứ : danh,
lợi, địa vị cao trong làng văn,
giải thưởng Hồ Chí Minh… Khi
được trao giải thưởng (năm
2000), anh cảm thấy : “ Mừng
thì rất
mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây
là tấm bia mộ sang trọng cắm lên
một đời văn đã tới hồi
phải kết thúc ”.
Dương Tường
thích câu này, nhưng Vương Trí
Nhàn thì cho là dối trá. Vì
theo chỗ anh viết, Nguyễn Khải mồm thì
nói thế, nhưng thực bụng vẫn nâng
niu, ôm ấp, vẫn rất tự hào về
những gì mình đã viết. Điều
này tôi cho cũng dễ hiểu. “ Văn
mình vợ người ” mà. Người
viết nào chả quý cái văn của
mình, cũng như người mẹ nào
chả quý đứa con mình đẻ ra,
dù nó xấu xí, kém cỏi thế
nào. Nhưng cái văn ấy có giá
trị đến đâu, có thể sống
lâu dài hay chết yểu lại là
chuyện khác. Thông minh, tỉnh táo như
Nguyễn Khải tất nhiên là thừa
biết điều đó. Cho nên câu
nói trên của Nguyễn Khải không
hẳn là dối trá. Có điều
trong giọng nói có vị chua chát cay
đắng đấy. Đó là lối
nói hờn, nói dỗi. Hờn dỗi với
đời, hờn dỗi với cái phận
của mình. Nghĩ đến sự nghiệp
cả một đời có thể sẽ trở
thành số không, trở thành hư vô,
cay đắng lắm chứ !
Con người ta ai chả
muốn sống mãi với đời. Dù
đời là bể khổ, nhưng khổ vẫn
hơn là chết. Khốn nỗi ai rồi cũng
phải chết. Đó là tấn bi kịch
lớn nhất của loài người. Vậy
thì phải nghĩ ra cách gì để
chống lại cái chết chứ ? Người
ta tìm đến tôn giáo để được
an ủi bằng đức tin : thân xác dù
trở thành tro bụi nhưng linh hồn vẫn
tồn tại, và nếu chịu khó tu
nhân tích đức thì còn có
thể được lên thiên đàng
nữa kia. Vua chúa thì ướp xác
và xây lăng tẩm thật đồ sộ
nguy nga. Những nhà lãnh đạo quốc
gia thì muốn tên mình được
đặt cho phố này, phố nọ (có
chuyện tranh nhau phố to phố nhỏ nữa
đấy !). Những đấng anh hùng hào
kiệt, những bậc thánh hiền thì
lo lập công, lập đức, lập ngôn
để tên tuổi lưu truyền muôn
đời trong sử sách. “ Người
chết thật là chết, khi nào họ
chết hẳn trong lòng người sống ”
(Lỗ Tấn). Có một cách thực hiện
sự bất tử một cách bình dân
đại chúng nhất, hầu như ai cũng
có thể làm được : sinh con, đẻ
cái, nhất là sinh con trai. Nó sẽ
giữ mãi dòng họ cho mình và
cúng giỗ, tưởng nhớ mình mãi
mãi.
Còn anh viết văn thì mong sống mãi cùng tác phẩm của mình. Không dám nói ra miệng đâu, vì xấu hổ lắm ! Nhưng âm thầm trong bụng, anh nào chẳng muốn như vậy : chẳng được như cụ Nguyễn Du bất tử với Truyện Kiều thì cũng không đến nỗi bị đời quên ngay khi vừa nằm xuống. Nhưng có phải muốn mà được đâu! Mình có phải thiên tài đâu. Là “ đại tài ” cũng chưa chắc. Ôi thật là cay đắng ! “ Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra ”. Đúng là giọng nói hờn nói dỗi đầy vị chua chát, đắng cay của một cây bút chưa biết tuổi thọ của sự nghiệp mình được bao lăm khi thân xác sắp trở thành tro bụi.
Láng Hạ, Hà Nội, 29- 9- 2008
Nguyễn Đăng Mạnh
i Vương Trí Nhàn : Một cách nghĩ khác về Nguyễn Khải
Nguyễn
Huệ Chi : Về
bài Một
cách nghĩ khác về Nguyễn Khải
của Vương Trí Nhàn
Các thao tác trên Tài liệu