Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / Tự do hàng hải và Chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa

Tự do hàng hải và Chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa

- Thái Văn Cầu — published 02/10/2014 01:10, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:19



Tự do hàng hải và
Chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa


Thái Văn Cầu


Đầu tháng 5/2014, Trung Quốc bất ngờ di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 đến một địa điểm cách đảo Trí Tôn (Hoàng Sa) khoảng 17 hải lý, cách đảo Lý Sơn (Đà Nẵng) 120 hải lý, sâu trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, và cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 180 hải lý.

Giữa tháng 7, Trung Quốc thông báo giàn khoan Hải Dương 981 hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn và rút khỏi EEZ của Việt Nam.

Trong thời gian Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong EEZ của Việt Nam, có nhiều hoạt động ở tầm mức quốc tế và quốc gia phản đối hành động vi phạm trắng trợn pháp luật quốc tế và thoả thuận giữa lãnh đạo Việt Nam - Trung Quốc năm 2011 [1]

Mục đích của bài viết để phân tích mối quan hệ giữa tự do hàng hải và chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa, khả năng giải quyết tranh chấp biển đảo của Việt Nam, nhằm đóng góp vào quá trình bảo vệ quyền lợi đất nước một cách hữu hiệu và thiết thực.


1. Quan hệ giữa tự do hàng hải và chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa :


Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là đề tài nghiên cứu, tranh luận, và trao đổi của giới quan tâm ở trong nước và ngoài nước trong gần 40 năm qua, dù mức độ từng lúc, từng nơi, thay đổi khác nhau.

Quyết định của Toà án Quốc tế (ICJ) trong hơn 60 năm qua cho thấy chứng cứ xác lập chủ quyền lãnh thổ phải được xây dựng trên cơ sở lịch sử và pháp luật quốc tế.

Trên cơ sở này, nguồn tư liệu cổ của Việt Nam và của phương Tây chứng minh rằng Việt Nam hành xử chủ quyền ở Hoàng Sa, hợp lý và hợp pháp, trong hơn 300 năm, cho đến khi Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa đầu năm 1974, khiến 74 chiến sĩ hải quân Quân đội Việt Nam Cộng hoà hy sinh.

Mặc dù tư liệu cổ về chủ quyền Trường Sa chưa đầy đủ, vào giữa thập niên 1920, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương tuyên bố chủ quyền ở hai quần đảo, hành xử chủ quyền cho đến khi rời khỏi Việt Nam năm 1956, để lại quyền hành xử chủ quyền cho Việt Nam Cộng hoà. Vào tháng 3/1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm đá Gạc Ma và 5 đá khác ở Trường Sa, khiến 64 chiến sĩ hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh.[2]

Chủ trương của Trung Quốc là “ không đàm phán ” về Hoàng Sa với Việt Nam, “ Hoàng Sa không phải là khu vực tranh chấp ”, “ Việt Nam đã thừa nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc ”, “ Trung Quốc có bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa ”, v.v.

Để hỗ trợ cho chủ trương trên, từ đầu thập niên 1990 cho đến nay, Trung Quốc từng bước hoàn chỉnh đội ngũ học giả, bao gồm thành phần trí thức đào tạo từ phương Tây, có quan hệ tốt với các trường đại học uy tín, tích cực phổ biến, trình bày quan điểm của Trung Quốc với cộng đồng thế giới.[3]

Mặc dù một số học giả Việt Nam, độc lập hay trong cơ chế nhà nước, đã vạch rõ các sai lầm, thiếu sót nghiêm trọng về chứng cứ chủ quyền trong tư liệu cổ Trung Quốc, không ít học giả phương Tây, do bị ảnh hưởng bởi nguồn tư liệu cổ, mạnh về số lượng nhưng yếu về chất lượng, và bởi đội ngũ học giả của Trung Quốc, và do không tiếp nhận được phản biện của học giả Việt Nam, đưa nhận định về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa bất lợi cho Việt Nam. [4]

Bên cạnh sự lớn mạnh của quyền lực “ mềm ”, Trung Quốc thúc đẩy phát triển quyền lực “ cứng ” với tốc độ nhanh vượt bực ở Hoàng Sa.

Sân bay đảo Phú Lâm (Woody Island), đảo bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp đầu năm 1956, được hiện đại hoá với đường băng dài 2.700m cho máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư Su-30MKK, Shenyang J-11, với khả năng bay hơn 3.000 km, có tầm hoạt động đến tận Manila (Philippines), hay Sài Gòn.

Ngoài cảng biển ở đảo Quang Hoà (Duncan Island), đảo bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực năm 1974, căn cứ hải quân đảo Phú Lâm được hiện đại hoá và sử dụng cho các tàu khu trục nhỏ và lớn, tàu tuần tra 5.000 tấn, của Trung Quốc.

Song song với sự tăng cường mức độ tác chiến quân sự trên không và trên biển, Trung Quốc thiết lập ở Hoàng Sa một trung tâm thu thập tín hiệu, thông tin tình báo, từ Việt Nam, Philippines, Malaysia, v.v. qua hệ thống vệ tinh ở quỹ đạo thấp, và giám sát sự vận chuyển tàu thuyền qua lại gần khu vực Hoàng Sa. [5]

Gần đây nhất, trong cùng thời gian đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong EEZ của Việt Nam, Trung Quốc còn thách thức pháp luật quốc tế khi cho tiến hành xây cất với quy mô lớn ở Gạc Ma và các đá chiếm đoạt của Việt Nam năm 1988. [6]

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD)) năm 2011 cho biết gần 8,4 tỷ tấn, hay hơn một nửa tổng số hàng hoá vận chuyển bằng đường biển hàng năm của toàn thế giới, đi qua Biển Đông, phần lớn là qua khu vực lân cận Hoàng Sa. [7]

Số lượng hàng hoá vận chuyển có định giá khoảng 5.300 tỷ USD, trong đó 1.200 tỷ USD là của Mỹ. Mậu dịch này tạo thêm khoảng 320 tỷ USD thâm hụt thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, chiếm 3,5% GDP của Trung Quốc cho năm 2013. [8]

Vì không có bằng chứng thuyết phục về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa, và vì chiếm đóng Hoàng Sa và một phần Trường Sa bất hợp pháp, Trung Quốc luôn luôn từ chối đàm phán với Việt Nam.

Không những thế, Trung Quốc tận dụng vị thế chiến lược ở Hoàng Sa - Trường Sa vào tham vọng chiếm đoạt Biển Đông của họ, đe dọa nghiêm trọng tự do hàng hải trong một khu vực cực kỳ quan trọng của thế giới.


2. Khả năng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa :


a. Hành động quân sự không khả dụng


“ Giấc mộng Trung Hoa ” là cụm từ được Tập Cận Bình nêu lên đầu tiên khi trở thành lãnh đạo Trung Quốc cuối năm 2012.

Mặc dù họ Tập nhấn mạnh sự “ trỗi dậy hoà bình ” của Trung Quốc, nguy hiểm đáng kể nhất trong “ Giấc mộng Trung Hoa ” nằm ở chỗ nó đề cao chủ nghĩa dân tộc và, qua bộ máy tuyên truyền hùng hậu, khiến nhân dân Trung Quốc khó nhận thức được sai lầm lớn lao của lãnh đạo Trung Quốc trong đòi hỏi chủ quyền Biển Đông, bao gồm chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam.

Để phục vụ cho “ Giấc mộng Trung Hoa ” qua cái-gọi-là “ trỗi dậy hoà bình ”, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc không ngừng gia tăng trong những năm qua. Ngân sách cho năm 2014 là 132 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2013. Theo một ước tính khác của tạp chí quốc phòng IHS Jane’s, ngân sách này có thể lên đến 148 tỷ USD. [9]

Mức gia tăng 12,2% trong ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tương đương với 15 tỷ USD, một con số cao hơn tổng số ngân sách quốc phòng của ba nước Việt Nam, Malaysia và Philippines hợp lại. [10]

Nhằm đối phó với mưu đồ ngày càng rõ rệt của Trung Quốc để thống trị Biển Đông, kể cả biển đảo của Việt Nam, Việt Nam cần đẩy mạnh hiện đại hoá quân đội để bảo vệ chủ quyền và quyền lợi của đất nước.

Tuy nhiên, do sự bất cân xứng về tương quan lực lượng giữa hai nước và do chủ trương của Việt Nam không liên minh với nước nào khác, giải quyết tranh chấp với Trung Quốc bằng hành động quân sự không thể là biện pháp tốt nhất cho Việt Nam.


b. Giải quyết bằng đàm phán hoà bình


Vào cuối tháng 9/1975, trong cuộc họp với lãnh đạo Trung Quốc, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau. [11]

Sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ đầu thập niên 1990, bên cạnh thường xuyên kêu gọi Việt Nam tôn trọng “ phương châm 16 chữ ”, “ 4 tốt ”, tất cả vì đại cục, Trung Quốc không ngừng phát triển quyền lực mềm và quyền lực cứng trên Biển Đông, cụ thể như Trung Quốc cử quan toà tham gia vào Toà án Quốc tế và Toà án Luật Biển (ITLOS) ; Trung Quốc có hàng trăm luận án tiến sĩ, hội thảo về đề tài Biển Đông, hải quân Trung Quốc lớn mạnh và hiện diện rộng khắp trên Biển Đông, v.v.

Từ đầu thập niên 2000 cho đến nay, Trung Quốc hàng năm ngang nhiên tuyên bố lệnh cấm đánh cá trên vùng biển cổ truyền của Việt Nam, tàu tuần tra Trung Quốc không ngừng gây thiệt hại tài sản cho ngư dân hành nghề ở Hoàng Sa, ngăn chặn các dự án khảo sát, thăm dò bên trong EEZ của Việt Nam, v.v. [12]

Vào tháng 1/2005, lực lượng tuần tra Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế khi nổ súng vào tàu đánh cá Việt Nam, khiến 9 ngư dân thiệt mạng, rồi vu cáo cho nạn nhân là “cướp biển”. [13]

Vào đầu tháng 10/2011, với sự chứng kiến của lãnh đạo hai đảng, Việt Nam và Trung Quốc ký kết thỏa thuận nhằm giải quyết vấn đề trên biển “ thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị ”. [14]

Dù đã ký kết thỏa thuận, thực tế cho thấy Trung Quốc không hề từ bỏ tham vọng từ ngàn xưa đối với Việt Nam : Trung Quốc tiếp tục xâm phạm vùng biển của Việt Nam, tiếp tục đánh đập, cướp phá tàu ngư dân Việt Nam, tiếp tục leo thang những hành động phi pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa, mà cao điểm là ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong EEZ của Việt Nam và tiến hành thay đổi cấu trúc đá thành đảo nhân tạo ở Trường Sa. [15]

Gần 40 năm sau khi lãnh đạo Trung Quốc đề nghị hai nước thảo luận sau về tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa, dù tình hình trở nên tồi tệ hơn nhiều, Việt Nam giữ chủ trương giải quyết tranh chấp bằng đàm phán hoà bình, song song với việc phản đối ngoại giao trước các hành động hung hãn, khiêu khích, hay trắng trợn xâm lược của Trung Quốc trên Biển Đông.

Quyết định của Toà án Quốc tế trong các vụ kiện giữa Honduras và Nicaragua về khu vực Biển Caribbean, giữa Malaysia và Singapore về đảo Pedra Branca, giữa Na Uy và Thụy Điển về Grisbadarna Banks, giữa Bahrain và Qatar về quần đảo Hawar, cho thấy một nước bị mất chủ quyền nếu không hành xử chủ quyền hay không sử dụng phương cách thoả đáng để giải quyết tranh chấp chủ quyền trong một thời gian dài. [16]

Một khi Trung Quốc giữ nguyên thái độ cứng rắn, không hợp tác, trong khi tích cực “ hành xử chủ quyền ” ở biển đảo chiếm đoạt của Việt Nam bằng vũ lực từ năm 1974 cho đến nay, thì việc Việt Nam vẫn chỉ theo đuổi chủ trương đàm phán hoà bình và phản đối ngoại giao không thể là biện pháp tốt nhất.


c. Giải quyết bằng pháp luật quốc tế


Điều 1, Khoản 1, trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc tuyên bố mục đích của tổ chức này :

“ Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và để đạt được mục đích đó: tiến hành những biện pháp tập thể có hiệu quả nhằm ngăn ngừa và loại trừ các mối đe dọa hòa bình, nhằm trừng trị mọi hành vi xâm lược và phá hoại hòa bình khác, điều chỉnh hoặc giải quyết các tranh chấp quốc tế hoặc những tình huống có thể dẫn đến sự phá hoại hòa bình, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế ”

Là cơ quan trực thuộc Liên hiệp quốc, Toà án Quốc tế có chức năng là khi được yêu cầu, dựa trên pháp luật quốc tế, đưa ý kiến tư vấn về pháp lý và đưa quyết định giải quyết tranh chấp, giảm thiểu nguy cơ xung đột quân sự, duy trì trật tự trên thế giới. [17]

Trong hơn 100 năm qua, giải quyết tranh chấp trên biển hay trên đất liền bằng pháp luật quốc tế là phương cách được nhiều nước ở phương Tây và ở phương Đông thực hiện.

Từ năm 1959 cho đến nay, riêng trong vùng Đông Nam Á, có ba trường hợp sử dụng pháp luật quốc tế : vụ kiện giữa Campuchia và Thái Lan về ngôi đền Preah Vihear, giữa Indonesia và Malaysia về hai đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan, và giữa Malaysia và Singapore về đảo đá Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge.

Trên cơ sở đã nêu về tầm mức quan trọng đối với thế giới trong tự do hàng hải trên Biển Đông, ngang qua khu vực Hoàng Sa, và về bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa, Việt Nam nên cùng lúc thực hiện hai bước sau :

  1. Công khai kêu gọi Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Toà án Quốc tế để giải quyết. Trong trường hợp Trung Quốc từ chối hợp tác, Việt Nam tiến hành khởi kiện Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa, theo đúng Điều 53 trong Quy chế Toà án Quốc tế [18]

  1. Tiến hành khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài Thường trực (PCA), theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển (UNCLOS) do các hoạt động không phù hợp với Công ước ở vùng biển Hoàng Sa - Trường Sa


Trong 30 năm gần đây, Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu nổi bật để trở thành một trong ba nước lớn hàng đầu về kinh tế và quân sự. [19]

Bên cạnh thành tựu to lớn của một nước là trách nhiệm không thể thiếu với cộng đồng thế giới, với Liên hiệp quốc, đặt biệt trong trường hợp Trung Quốc là một trong năm thành viên chính thức của Hội đồng Bảo an.

Chủ trương “ không đàm phán ” về Hoàng Sa với Việt Nam, “ Hoàng Sa không phải là khu vực tranh chấp ”, “ Trung Quốc có bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa”, v.v. không còn chỗ đứng khi Hiến chương Liên hiệp quốc bị vi phạm nặng nề; nó không còn chỗ đứng khi Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, v.v. công nhận Hoàng Sa là khu vực tranh chấp, và nhấn mạnh giá trị của tự do hàng hải trên Biển Đông. [20]

Trong tổng số 23 cuộc tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng từ năm 1949, Trung Quốc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán 17 lần và sử dụng vũ lực 6 lần. [21]

Trung Quốc có hai chọn lựa ngày nay : Hợp tác để cùng ra Toà án Quốc tế và Toà án Trọng tài Thường trực, hay đàm phán nghiêm túc để giải quyết, trước hết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, và kế đến, những vấn đề biển đảo khác.

Chọn lựa trên giúp Trung Quốc chứng minh cụ thể với dư luận quốc tế là “ Giấc mộng Trung Hoa ” thật sự là một trỗi dậy hoà bình ; nó đóng góp hữu ích vào nền thịnh vượng chung của thế giới; dù là nước mạnh, Trung Quốc tôn trọng pháp luật quốc tế.

Bằng không, Trung Quốc càng lún sâu vào một cuộc phiêu lưu mà cái giá phải trả khó thể dự đoán được.

Ngay sau chuyến đi bốn nước châu Âu giữa tháng 9/2014 để tìm hậu thuẫn cho phương cách giải quyết tranh chấp với Trung Quốc, lãnh đạo Philippines chia sẻ suy nghĩ riêng :

“ Nói cho cùng, nếu chúng tôi không bảo vệ quyền lợi của chúng tôi, thì chúng tôi sẽ mất nó bởi vì chúng tôi không nghĩ rằng một ai khác sẽ đứng lên để bảo vệ cái quyền lợi mà chúng tôi đã không bảo vệ được.” [22]

Sau gần 20 năm đàm phán hoà bình với Trung Quốc nhưng không tiến triển, Philippines quyết định khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài Thường trực, theo Phụ lục VII của UNCLOS, vào đầu năm 2013.

Với bờ biển dài hơn 3.200 km, với chứng cứ chủ quyền thuyết phục, Việt Nam là nước bị thiệt thòi lớn nhất, bị xâm phạm nhiều nhất, trong tham vọng Biển Đông của Trung Quốc.

Sự leo thang của Trung Quốc trong thời gian qua khiến tình hình trở nên cực kỳ căng thẳng, phức tạp. Để đối phó, Việt Nam cần quyết tâm và hành động.

Khi sử dụng pháp luật quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ bảo vệ quyền lợi đất nước mà còn góp phần gìn giữ hoà bình, an ninh của khu vực và xa hơn, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với lịch sử và thế hệ tương lai.


Thái Văn Cầu



NGUỒN : Bài do tác giả gửi Diễn Đàn (ngày 1.10.2014)




[4]  Một số nghiên cứu của học giả phương Tây hay học giả Trung Quốc được đào tạo từ phương Tây có lập luận sai lệch về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa :

Marwyn S. Samuels, “Contest for the South China Sea”, 1982

Daniel J. Dzurek, "Spratly Islands Dispute: Who's on First", 1996

Greg Austin, “China's Ocean Frontier: International Law, Military Force and National Development”, 1998

Nong Hong, "UNCLOS and Ocean Dispute Settlement: Law and Politics in the South China Sea", 2011

[7] U.S. Energy Information Administration, “South China Sea”, 2013

[8] Bonnie S. Glaser, “Armed Clash in the South China Sea”, 2013

[11] Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “La Souverainete du Viet Nam sur les archipels Hoang Sa et Truong Sa”, 1979, tr. 55

[16] Trong vụ kiện giữa Nicaragua và Honduras ở vùng Biển Caribbean, Toà án Quốc tế nhận định rằng sự liên tục khẳng định chủ quyền, phản đối ngoại giao của Nicaragua không tương xứng với phương cách hành xử chủ quyền của Honduras.

Khiếm khuyết này của Nicaragua là một trong những yếu tố khiến Toà án Quốc tế trao chủ quyền khu vực tranh chấp cho Honduras.

Toà án Quốc tế, “Territorial and Maritime Dispute between Nicaragua and Honduras in the Caribbean Sea (Nicaragua v. Honduras)”, 2007

Pieter Bekker & Ana Stanic, “The ICJ Awards Sovereignty over Four Caribbean Sea Islands to Honduras and Fixes a Single Maritime Boundary between Nicaragua and Honduras”, 2007

[17]Hiến chương Liên hiệp quốc”, 1945

Nguyên văn tiếng Anh:

“Article 1

The Purposes of the United Nations are:

To maintain international peace and security, and to that end: to take effective collective measures for the prevention and removal of threats to the peace, and for the suppression of acts of aggression or other breaches of the peace, and to bring about by peaceful means, and in conformity with the principles of justice and international law, adjustment or settlement of international disputes or situations which might lead to a breach of the peace;”

Charter of the United Nations”, 1945

[18] Điều 53 trong Quy chế Toà án Quốc tế:

 1. Bất cứ khi nào một trong các bên không trình diện trước Tòa án, hoặc không bảo vệ trường hợp của họ, bên kia có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định theo hướng có lợi cho mình.

2. Trước khi thực hiện yêu cầu, Tòa án phải biết, không những là Toà án có thẩm quyền theo quy định ở các Điều 36 và 37, mà còn là vụ kiện có đầy đủ cơ sở chứng cứ và pháp lý.


Nguyên văn tiếng Anh:

“Article 53 in Statute of the International Court of Justice:

 1. Whenever one of the parties does not appear before the Court, or fails to defend its case, the other party may call upon the Court to decide in favour of its claim.

 2. The Court must, before doing so, satisfy itself, not only that it has jurisdiction in accordance with Articles 36 and 37, but also that the claim is well founded in fact and law.”

Statute of the International Court of Justice”, 1945

[21] M. Taylor Fravel, “Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China's Territorial Disputes”, 2008, tr. 46-47

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Indochine: 70 ans après les Accords de Genève 21/11/2024 16:00 - 18:00 — BnF site François-Mitterrand, Quai François Mauriac, 75706 Paris Cedex 13
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us