MỘT THỜI TUỔI TRẺ BÊN BỜ Ô LÂU
Nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhật Thanh Tịnh (1911-1988)
MỘT
THỜI TUỔI TRẺ
BÊN
BỜ Ô LÂU
Bài và ảnh Võ Quang Yến
Người Huế nào mà không biết Thanh Tịnh, biệt hiệu của Trần Văn Ninh, một nhà văn, nhà thơ có tiếng từ thuở tiền chiến. Nhưng tuy học ở Huế từ hồi bảy tuổi, tôi quá trẻ để có dịp gặp ông. Xấp xỉ tuổi các anh tôi, sau bằng Thành chung, ông đi dạy thì tôi đang còn ở tiểu học. Khi tôi lên trung học, vào lúc bắt đầu biết cảm phục những câu văn của ông trong các báo Phong Hóa, Ngày nay, Thanh Nghị,.. cùng những bài trong các tập truyện ngắn Quê mẹ, Ngậm ngải tìm trầm thì xảy ra cuộc đảo chính Nhật. Vào tuổi thanh niên năng động, yêu nước, ông dấn thân vào cách mạng và rời gia đình ra đi biền biệt trong những ngày kháng chiến. Vài năm sau đó tôi cũng ly hương cho đến sau nầy trên đất Pháp tôi mới có dịp đọc lại những sách hấp dẫn của ông, mê man với Hận chiến trường : Mỗi lần nắng tắt tiết thu sang, Thi sĩ đua nhau khóc lá vàng. Cùng với lá vàng tan tác rụng, Đầu người rơi rụng chẳng người than….(TT).
Sông Ô Lâu
Các làng quanh Huế trong các truyện ngắn của ông mang những tên khêu gợi : Viễn Trình, Đồng Yên, Hiền Lương, Vĩnh Trị,… Nhưng có một tên được ông đặc biệt luôn nhắc tới vì thắm đậm hương vị đồng quê là làng Mỹ Lý, một làng tuồng như chỉ có trong trí tưởng tượng của tác giả. Đối chiếu với Mỹ Lý của Thanh Tịnh, tôi xin khoe trình làng ngoại của tôi, tình thương cũng thắm thiết không kém : làng Mỹ Cang. Đây quê mẹ ấp ủ tình thương, Đây xóm làng bao nỗi vấn vương. Đây đã vui những năm trẻ dại, Những ngày sống rực nắng trong vườn (VQY). Làng rất nhỏ đến nỗi chúng tôi thường khiêm tốn gọi là thôn Mỹ nếu không là mộc mạc Làng Hói. Nép mình giữa một cánh hói nhỏ và bờ sông Ô Lâu, bốn mươi cây số phía bắc thành Huế, ở một khuỷu sông hằng năm bị lở lần nên sau mấy chục năm tha hương, khi tôi đưa vợ con về thăm làng cũ thì con đường trước nhà cụ mạ tôi không còn nữa. Anh đưa em về thăm thôn Mỹ, Ngắm hàng cau soi bóng Ô Lâu. Tìm Bến Đình cây đa Nghĩa Trủng, Lên Phường Trung nhẹ bước qua cầu…(VQY). Cái nhà xinh xắn hai ông bà bỏ công suốt đời nâng niu xây cất không chịu đựng được sức tàn phá của chiến tranh, nay nhường chỗ cho một vạc sắn gầy guộc không hồn. Làng nghèo nhỏ có đình nhưng không có chùa, không có trường học, chỉ có một miếu nhỏ, một ngôi chợ sớm được dời ra ở giao điểm các làng Phú Xuân, Phước Tích, Mỹ Xuyên, Mỹ Cang, cũng trên bờ sông Ô Lâu, nhìn qua bên kia Hải Lăng, Quảng Trị. Làng Hói là một xóm quê nhà tranh vách đất, có đặc điểm không có đồng ruộng phì nhiêu, ngành nghề phong phú nhưng lại tự hào là nơi cư ngụ cùa cụ Hồ Oai, nay được thờ trong nhà thờ họ Hồ. Vị nầy là Quyền chưởng vệ Long võ quân có thành tích bảo vệ được vua Tự Đức trong kỳ nổi loạn Chày vôi của hai anh em Đoàn Trưng, Đoàn Trực. Ông ngoại tôi là cháu đích tôn của cụ Hồ Oai.
Nghĩa Trủng
Bến Đình
Cụ, mạ và chị tôi tôi không có khả năng hướng dẫn tôi học hành, từ nhỏ tôi phải theo các anh tôi vào Huế học, nhưng mỗi kỳ nghỉ lễ Phục sinh, Giáng sinh hay nghỉ hè, chúng tôi lại về đây sáng học ôn, chiều thỏa thích vui chơi. Nhà có vườn trái đủ thứ, mặc sức hái ăn. Trước nhà có sông mát mặc sức bơi tắm. Cạnh đình làng có sân rộng, chiều chiều mặc sức chơi bóng với những thanh niên trong làng. Trên truông Phò Trạch gần làng, sim nhuộm tím đồi, nắng vàng êm dịu, chim chóc không thiếu, mặc sức chạy bắn với chiếc ná cao su, túi đầy sỏi sạn. Kỷ niệm êm đềm thích thú nhất là những đêm hè, trời nóng, chúng tôi đánh trần nằm ngủ trên hiên trước nhà. Chuyện trò náo nức, lắm đêm không ngủ được. Thế rồi không biết từ đâu lại, một giọng hò mái nhì trữ tình vang dội trong không trung, đến gần rồi lại lan xa. Em về ngược gió xô mưa, Thuận buồm xuôi gió biệt mong xa chừng. Em về anh cũng muốn về theo, Lên truông cát trắng lội đèo đá dăm (Hò Huế). Lúc đầu chúng tôi chỉ biết nằm nghe, dần dần cố ý trông chờ. Chúng tôi âm thầm chia sẻ nỗi buồn nồng nàn của cô lái đò cô đơn. Nhưng cô chỉ thỉnh thoảng mới chèo ngang trước nhà vài đêm một lần. Rồi một hôm, hết còn giọng hò mang lại lời thổn thức của cô lái đò. Chúng tôi trằn trọc thao thức chờ đợi, có khi tưởng như nghe tiếng sóng vỗ rì rào vào mạn thuyền, tiếng mái chèo xào xạt khua mặt nước, nhưng giọng hò thì tuyệt không. Thế rồi, hết hè, chúng tôi đành lòng trở vô Huế, tạm quên cô lái đò đã vô tình cống hiến chúng tôi những đêm hè rạo rực dưới vòm trời sao trăng sáng, trở lại với những vui buồn của thời Tôi đi học : những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường, những kỷ niệm đi bẩy chim giữa cánh đồng lúa,...(TT)
Nhà thờ họ Hồ
Hơn một nửa thế kỷ sau, định cư trên đất Pháp tuyết rét, mỗi lần đi dạo dọc con sông Seine đài các chảy ngang thành Paris phồn hoa, tôi lại nhớ đến Quê Mẹ, trong đầu óc tôi luôn còn văng vẳng điệu hò tha thiết những đêm hè trên sông Ô Lâu thôn dã của một thời xưa..
Biết
đâu là cầu ô
thước,
Mênh mông nguyện ước,
dưới nước trên trời.
Đêm
khuya ngót tạnh mù khơi,
Khúc sông
quạnh vắng, có người sầu riêng.
(Hò Huế)
Xô thành cuối năm 2011
Võ Quang Yến
Bài đã
đăng trên Tạp chí Sông Hương,
chủ đề
« Tôi đi học » trong ký
ức học trò xưa, tháng 12.2011
(Bản tác giả gửi, có sửa chữa và bổ sung)
Các thao tác trên Tài liệu