Lời xưng tội lúc nửa đêm
Lời xưng tội lúc nửa đêm
Vũ Thư Hiên
Gửi những người còn say máu. Tặng những người không để mất đi tính Thiện.
Khi linh mục
già dò dẫm từng bước qua được
những bậc thềm khấp khểnh của nhà
kẻ liệt thì trời đã khuya lắm.
Mấy vệt sáng vàng vọt của đèn
dầu lọt qua khe cửa làm cho nó chìm
thêm trong bóng tối mịt mùng. Trong
đêm tối ông chỉ có thể cảm
được chứ không thấy được
rằng nơi ông tới là một thôn
nhỏ đìu hiu với những mái tranh
thấp thoáng dưới tán lá rừng
rậm rạp.
Linh mục vươn người
vặn mình cho đỡ mỏi, mấy đốt
sống kêu lục cục. Chủ nhà dựng
chiếc Honda dưới thềm, bước vội
lên đỡ ông :
- Trình cha, xin cha
cẩn thận chỗ bậu cửa.
Linh mục
ừ hữ gật đầu. Ông mệt lử
sau hai chục cấy số ngồi ôm eo vượt
con đường hết đèo lại suối
lổn nhổn đá và rễ cây.
Không hiểu sao người ta lại cứ
phải tìm ông, trong khi cách đây
vài thôn có một xứ đạo
khác, tuy không lớn, với một linh mục
trẻ?
Linh mục có quyền khước
từ cuộc viếng kẻ liệt mà không
bị ai trách cứ. Ông đã quá
già. “Cha lẫn rồi”, cả xứ
đạo ồn lên sau một lần ông
đứng trên toà giảng lẩm bẩm
hồi lâu những câu không ai hiểu,
mặc cho đàn chiên ngẩn ngơ phía
dưới.
Cha bận thông công với
Đức Chúa Giê Su, bõ già giải
thích, nhưng chẳng ai tin. Bõ cũng già,
có dễ còn già hơn cả cha. Bề
trên vội cử một linh mục khác về
thay chân ông. Cha trẻ này mới được
truyền chức. Mọi việc bây giờ cha
phó làm hết. Nói theo cách thế
tục, Toà giám cho cha xứ về hưu.
Sau tiếng mở then hấp tấp, một
người đàn bà rũ rượi,
cây tọa đăng giơ cao trên đầu,
hiện ra trong khung cửa.
- Con xin phép lạy
cha.
Bà ta lùi lại một bước
và lễ độ khuỵu một chân
xuống khi nhìn thấy mái tóc bạc
phơ, gương mặt đầy nếp nhăn
hằn sâu như những nét khắc trên
gỗ và đôi mắt mờ đục
của cha xứ.
”Lạy Chúa tôi,
liệu một cha già thế kia có còn
làm được phép xức dầu cho
kẻ chết nữa không?”, cái nhìn
của bà ta nói.
Sau lưng bà ta là
mấy đứa trẻ mới lớn cao lộc
ngộc. Chúng giương mắt nhìn linh
mục, lí nhí chào ông. Chủ nhà
kéo một cái ghế ba nan xiêu vẹo
ra khỏi cái bàn đen đủi không
cùng bộ với nó.
- Xin cha ngồi
ngơi…
Linh mục để mặc cho chủ
nhà đỡ ông ngồi xuống.
- Thưa
cha dùng gì ạ? Trà hay cà phê?
-
Vẽ, – ông xua tay – Ta nghỉ một
lát rồi làm việc. Ta không khát.
- Xin cha cứ tự nhiên ạ. Đường
thì xa, lại xóc nữa. – ông chủ
nhà phàn nàn - Đến con đây
còn mệt nữa là…
Linh mục
nhìn quanh. Bóng tối che khuất số đồ
đạc hiếm hoi trong gian phòng nhỏ.
Không khí có mùi ẩm mốc, mùi
của cái nghèo.
- Việc sửa soạn
cho kẻ liệt dọn mình về với Chúa
là việc trọng. - linh mục nói - Chớ
chia trí cho việc khác.
Chủ nhà
đưa mắt cho vợ. Người vợ bối
rối nhìn lại chồng. Họ có vẻ
băn khoăn.
- Đội ơn cha đã
hạ cố đến với chúng con. –
chủ nhà cúi mặt nói – E hèm…,
chúng con sở dĩ phiền đến cha tuổi
cao sức yếu, phải đi lại đêm
hôm cực nhọc thế này là vì…,
hèm…
Linh mục bảo:
- Có chuyện
gì khó ông cứ cho ta hay. Đừng
ngại.
Người vợ đỡ lời
chồng, thẽ thọt:
- Chẳng giấu gì
cha, chả là thế vầy: con có ông
chú ruột…
- Người sắp sinh
thì… - người chồng tiếp –
Dạ, trình cha, người cứ một hai
đòi gặp cha…
- Hừm.
- Có
điều chú con… – người vợ
nói - Người trước kia cũng là
con chiên bổn đạo ta đấy ạ.
Quê chúng con chả toàn tòng, thưa
cha.
- Tức là?
- Thưa cha, - người
chồng cúi mặt - hiềm nỗi chú
con… người trót nghe theo kẻ vô
thần nên đã bỏ đạo...
Linh
mục nhắm mắt lại. Cả ba nín
lặng.
- Chuyện ấy thường. –
linh mục thấy cần phải nói một
điều gì đó để phá đi
bầu không khí nặng nề, và cũng
là để an ủi vợ chồng chủ
nhà - Thời Lucifer, người bỏ đạo
không ít… Ông ấy còn tỉnh
trí chứ?
Không thể làm lễ
xức dầu cho kẻ ngoại đạo, cha xứ
nghĩ. Oái oăm thật. Nếu người
liệt đã hôn mê, ta có thể
ban phước lành cho ông ta, cái đó
thì không sao, được, Chúa lòng
lành chẳng hẹp với ai.
Người
vợ thấy cha xứ hiền, không quở
trách, trở nên bạo dạn hơn:
-
Trình cha, còn, người còn tỉnh
trí ạ – bà ta nhanh nhảu đáp
với nụ cười như mếu - Ơn trên,
người đã nghe chúng con, người
xin giở lại đạo rồi...
Linh mục
nói:
- Cũng lại chuyện thường
thôi. Người bỏ vẫn bỏ. Người
theo vẫn theo. Người giở lại đạo
vẫn giở lại… Ông ấy đâu?
Ông nhìn quanh.
Người vợ bối
rối:
- Trình cha, chúng con chưa kịp
thưa với cha: chú con quên ráo kinh
bổn rồi. Nói ra thật xấu hổ, cơ
mà chúng con cứ trình thật thế
vậy…
- Chuyện ấy không quan trọng.
– linh mục chống tay đứng lên -
Hãy đưa ta đến với ông ấy.
Ta biết phải làm gì.
Chủ nhà
cầm cây tọa đăng, đi trước.
Linh mục theo sau. Họ đi qua gian trong, nơi
mấy đứa con trai đã nằm lại
chỗ của chúng. Cánh cửa kêu kèn
kẹt mở ra một khoảng trời tối với
những ngôi sao bất động.
Trong ánh
đèn linh mục nhìn thấy mấy quả
cà tím loáng sáng trên những
luống rau. Hai bên lối đi nhiều cỏ
may đến nỗi ông phải cẩn thận
vén áo chùng lên tận đầu
gối. Có mùi lá tre mục, mùi
sương đêm tinh khiết. Mùa thu mát,
nhưng ẩm ướt. Thời tiết trước
khi vào đông bao giờ cũng vậy.
Mình ở vùng này đã bao lâu
rồi? - ông bâng khuâng tự hỏi -
dễ đến ba mươi năm chứ không
kém.
- Chú con không chịu ở trên
nhà với chúng con, người kêu ồn
– chủ nhà phân trần - Người
đòi nằm một mình cho tĩnh. Chứ
chúng con không muốn thế…
- Người
già thường khó tính. – linh mục
nói
Mình cũng thế, ông nghĩ.
Ông biết gần đây chính ông
cũng trở nên khó tính khó nết.
Ông khảnh ăn, không chịu được
mùi hôi và mọi sự bề bộn,
động một tí là bẳn gắt.
Hẳn ông cũng làm phiền các thầy
hầu cận và bõ già không ít.
Có điều họ chẳng nói ra thôi.
Đôi lúc tỉnh ra, ông thấy mình
hành mọi người một cách thậm
vô lý, nhưng đáp lại họ chỉ
nhẫn nhục im lặng. Những lúc tỉnh
ra ấy ông giận mình lắm. Ông tự
hỏi: họ buộc phải chịu đựng
ông vì trách nhiệm được
giao phó? Hay chỉ vì lòng tôn kính
với bảy chức thánh của ông, vì
lòng biết ơn sự tận tụy nhiều
năm của ông ở xứ đạo của
họ?
Chủ nhà đẩy cửa vào
ngôi nhà nhỏ cô độc ở cuối
vườn. Gọi nó là lều thì
đúng hơn, bởi vì nó rất
hẹp và tuềnh toàng. Ánh toạ
đăng soi tỏ cái giường tre, trên
đó một thân hình còm nhom nhô
lên dưới tấm chăn dạ rách,
của còn lại từ một thời chinh
chiến.
Linh mục tưởng người nằm
đấy chết rồi, dưới ánh đèn
vàng vọt trên gương mặt xương
xẩu, khắc khổ của ông ta hầu như
không còn dấu hiệu của sự sống.
Chủ nhà cúi xuống nghe ngóng,
rồi quay mặt lại:
- Người ngủ.
Để con đánh thức.
Ông ta nắm
lấy vai người bệnh, lay khẽ:
- Chú
ơi, chú! Cha đến.
Linh mục chắp
hai tay trước bụng, kiên nhẫn đợi.
Trong yên lặng, một con tắc kè
bỗng kêu to ở đầu hồi làm
ông giật mình.
Người bệnh khẽ
rên một tiếng. Ông ta gượng mở
mắt:
- Cha hử?
- Vâng, thưa chú,
người đã đến ạ.
Linh mục
đặt tay lên vai chủ nhà :
- Ông
cứ lên đi, mặc chúng tôi.
-
Nước! - người bệnh thều thào.
Chủ
nhà cầm lấy phích nước trên
cái bàn làm bằng một mảnh ván
mộc kê trên đôi mễ xiên xẹo,
rót chầm chậm vào cái chén
sứt sẹo. Đoạn, mang đến bên
giường, nâng đầu người bệnh,
cho ông ta uống từng ngụm nhỏ. Mái
tóc thưa và bơ phờ của người
bệnh run rẩy khe khẽ cùng với nhịp
chuyển động của yết hầu.
Linh
mục chăm chú nhìn người bệnh,ân
hận đã không đem theo một cậu
giúp việc để đỡ đần ông
trong những trường hợp này. Nhưng
ông sực nhớ: cái xe Honda ọp ẹp
của chủ nhà chỉ có thể chở
hai người.
Chủ nhà lễ phép đi
giật lùi ra khỏi lều, khép cửa
lại.
Người bệnh khó nhọc rút
một tay ra khỏi chăn. Những ngón tay
gày, cong queo vẫy linh mục lại gần
hơn.
Linh mục đến bên giường,
chăm chú nhìn vào khuôn mặt
vàng nhợt và cứng đơ như
được nặn bằng sáp. Cất giọng
trịnh trọng, như ông vẫn thường
làm trong nhưng trường hợp tương
tự, ông nói câu thuộc lòng:
-
Ta đã đến với con, hỡi con chiên
lạc bầy muốn trở về trong lòng
Chúa!
Linh mục bỗng giật mình. Ông
nhận thấy giọng ông vang vang trong túp
lều yên lặng hoàn toàn không có
hồn, như thể nó phát ra từ máy
ghi âm. Tự nhiên ông thấy mình
bối rối. Vì tia sáng phát ra từ
mắt người bệnh, cái tia sáng đi
cùng với nụ cười thoảng qua, hóm
hình, hay bởi chính giọng không hồn
của mình, ông không rõ?
–
Con hãy nhận lấy tên thánh của
con trước khi dọn mình xưng tội
cùng Chúa – linh mục giơ cây
thánh giá đeo trước ngực hướng
về mặt người bệnh - Nhân danh Chúa
trên Lời… ta đặt tên thánh
cho con là Đôminicô để ghi lại
giờ khắc con giở lại đạo trên
đất đai của dòng Đa Minh.
Trong
khi linh mục cố tập trung tư tưởng
để làm phận sự trước cái
nhìn chòng chọc của người bệnh
thì người ấy lại vẫy ông:
- Này, linh mục…
Linh mục cúi
xuống, lắng nghe tiếng thều thào từ
đôi môi khô héo:
- Con muốn
nói gì? Ta nghe đây.
- Xin cảm ơn
ông đã đến với tôi - người
bệnh nói – Cảm ơn.
Linh mục
sững người, ông thấy có điều
khác thường khi người bệnh không
gọi ông bằng “cha” xưng “con”.
Người bệnh hiểu tâm trạng của
linh mục.
- Ông đừng bực mình.
Cách xưng hô không làm nên con
người, cũng như cái áo không
làm nên thày tu…
- Hừ. Không
sao, tôi không câu nệ…
- Cảm
ơn ông. Ông đã đến với
tôi, thế là tốt lắm rồi. Ông
khỏi cần làm lễ.
- Hử?
- Vâng,
ông khỏi cần làm lễ. Nó vô
ích.
- ???
- Là vì tôi có
tin ở Chúa của ông đâu.
Người
bệnh cố diễn đạt ý mình
cho mạch lạc, với giọng khao khao của
thanh quản bị tổn thương.
- Vậy
ông cho mời tôi đến đây làm
gì? – linh mục lắp bắp.
Người
bệnh nhìn quanh rồi đặt ngón tay
trỏ lên miệng.
- Cái gì vậy?
– linh mục lo lắng nhìn quanh.
- Ông
chớ nói to. Các cháu tôi nghe tiếng.
Tôi không muốn chúng nghe câu chuyện
giữa chúng ta.
- À! Tôi hiểu –
linh mục gật đầu, rồi vào giọng
với người bệnh như một đồng
loã, ông thì thào - Được,
tôi sẽ nói khẽ.
Người bệnh
động đậy mấy ngón tay.
- Phiền
ông đỡ tôi ngồi lên.
Linh mục
vòng tay ra sau gáy người bệnh, đặt
ông ta dựa lưng vào vách. Làm
xong việc đó, ông thở dốc.
-
Thế. Tốt rồi. Khi ngồi tôi dễ thở
hơn, nói cũng dễ hơn.
- Không
cần làm lễ hử? Thật vậy sao:
không cần?
Người bệnh ái ngại
quan sát linh mục bằng cặp mắt mệt
mỏi:
- Ông cũng già quá, linh mục
ạ. Ông ngồi xuống đây với
tôi.
Linh mục ngồi ghé xuống mép
phản.
- Sang năm tôi vừa đúng
tám mươi hai.
- Nhiều quá rồi.
- người bệnh thở dài - Linh mục
đừng giận, nhưng sau lưng các cháu
tôi, tôi phải nói thẳng với ông
điều tôi nghĩ. Tôi không thích
dối trá.
- Hừm… Tôi hiểu. –
linh mục nói, giọng nhẹ nhàng, cố
chứng tỏ ông không phật ý - Ông
muốn chiều lòng các cháu?
- Đúng
thế, ông ạ. Các cháu tin ở
Chúa. Tôi thì không. Chúng sốt
sắng muốn tôi giở lại đạo.
-
Họ cũng nói với tôi như vậy.
- Chiều các cháu, tôi mới bảo
chúng: chú chỉ chịu xưng tội
chịu lễ với cha ít nhất cũng phải
ngang tuổi chú. Hì hì…, tôi
biết trong vùng này chỉ có một
mình cha…
- Ông muốn chính tôi
đến với ông?
- Cái đó có
nguyên uỷ của nó, tôi sẽ nói
vì sao. Tôi chỉ e ông không đến
được. Tôi chờ ông. Nghe nói
ông không còn làm mục vụ nữa.
-
Nhưng tôi đã đến.
- Cảm ơn
ông. Tôi muốn trước khi chết tôi
có dịp tâm sự với người
cùng một thế hệ. Các cháu tôi
yêu tôi, nhưng chúng không hiểu
tôi bao nhiêu. Tôi rất muốn được
nói chuyện với người ít nhất
cũng đã sống trên trái đất
này bằng số năm mà tôi đã
sống. Chỉ người đó mới hiểu
được những lời tâm sự của
tôi, kẻ sắp qua đời…
- Vậy
là ông đã có người mà
ông cần để đóng vở kịch
của ông. Còn để tâm sự, tôi
e rằng ông chọn lầm người. Một
linh mục thì có gì để tâm
sự với một người thế tục cơ
chứ?
Linh mục nhắp chân, toan đứng
dậy. Người bệnh nắm lấy tay ông,
giữ lại. Nắm chắc. Như một cái
kìm.
- Nghe tôi đây này, thật
mà, ông lầm người rồi. –
linh mục gỡ tay ra, nhưng không được
- Việc của linh mục là giảng đạo,
nghe con chiên xưng tội và nhân danh
Chúa giải tội cho họ. Còn tâm
sự thì không. Việc đó không
phải của linh mục.
- Sao lại thế? –
người bệnh chống tay cố gắng để
ngồi thẳng dậy, nhưng không được
- Nghe lời tâm sự của kẻ sắp chết
để hiểu người thế gian cũng là
một việc nên làm lắm chứ…
Linh
mục thở dài:
- Được, nếu
ông muốn thế thì tôi sẽ ngồi
đây với ông thêm một lát.
Đôi môi khô héo của người
bệnh nhếch một nụ cười:
- Cảm
ơn ông.
- Có gì mà ơn với
huệ. – linh mục phẩy tay - Tôi cho phép
ông nói dối các cháu ông rằng
ông đã được làm lễ xức
dầu. Chúa cũng sẽ tha cho ông tội
nói dối ấy, bởi vì nó vô
hại… Xong, ông để tôi đi.
-
Ông đừng đi. – người bệnh
vật nài - Ông sẽ ở lại với
tôi cho đến lúc tôi đi khỏi
đây nhá? Đi khỏi thế gian ấy
mà. Tôi biết: ông là người
tốt. Một linh mục chân chính thì
phải ở lại trước lời thỉnh
cầu trước giờ lâm tử của một
kẻ ngoại đạo, cho dù kẻ đó
là tín đồ của Mahomet, của Thích
ca Mầu ni, của chư thần Ấn giáo.
Hoặc là kẻ vô thần chẳng tin ở
cái gì hết.
- Ông tự tin quá
đấy, nhưng trong chuyện này, ông
có lý – linh mục nói - Tôi sẽ
ở lại. Bao lâu cũng được. Tôi
đã hết bận công kia việc nọ
rồi.
Đôi môi khô héo của
người bệnh nở một nụ cười
rất hiền.
- Cảm ơn ông. “Điểu
chi tương tử kỳ thanh tắc ai, nhân
chi tương tử kỳ ngôn tắc thiện”,
con chim gần chết thì tiếng kêu ai
oán, người ta gần chết thì nói
lời lành, ông có nhớ câu ấy
không? Chẳng lẽ lúc này tôi lại
nói với ông những điều xấu
xa hay ác độc?
Ông ta nói phải,
linh mục nghĩ. Ai rồi cũng sẽ qua cái
cầu ấy. Không biết rồi mình có
cần gặp ai đó trong giờ lâm tử
để trút bầu tâm sự không?
Có lẽ mình cũng cần đấy,
nhưng mình sẽ không nói ra, nói
cho đúng, mình không dám nói
ra. Xấu hổ lắm. Chẳng ai muốn bày
ra chỗ yếu đuối của mình.
Như
đọc được ý nghĩ của linh
mục, bàn tay xương xẩu của người
bệnh bóp nhẹ cổ tay ông. Linh mục
mỉm cười. Ông thấy trong lòng vui
vui. Ông nhớ đến một người
bạn trong thời thơ ấu, với cái
bóp tay đồng loã khi hai đứa trèo
vào vườn người ta hái trộm
khế ngọt.
- Ông sẵn sàng nghe tôi
nói chứ, linh mục?
- Ông cứ nói
đi, tôi đã ở lại thì tôi
sẽ nghe ông.
Người bệnh im lặng
một lát, có vẻ ông ta muốn sắp
xếp lại những ý nghĩ lộn xộn
trong đầu trước khi nói ra. Đêm
yên tĩnh lạ thường. Nghe rõ những
giọt sương nặng từ mái lá
rơi xuống lộp độp.
- Tôi xin lỗi
đã làm ông buồn.
- Không,
tôi không buồn. Có gì mà
buồn?
- Tôi không tin có Chúa, bởi
vì nếu có Chúa thì tại sao
trái đất của chúng ta lại như
thế này? Chúa có quyền lực vô
biên cơ mà. Tại sao Chúa lại
sinh ra đau khổ bên cạnh hạnh phúc?
Người nghèo bên cạnh người
giầu? Người xấu bên cạnh người
tồt? Và sự đểu cáng làm
đau đớn những tâm hồn thánh
thiện?
- Chúa đặt ra những thử
thách cho con người để nó khẳng
định mình, tự hoàn thiện mình
– ông nói - Chỉ có một nơi
ngự trị toàn sự tốt lành, ấy
là Thiên đàng, nước Chúa.
- Nhưng nó ở xa lắm. Mãi đời
sau kia - người bệnh cười méo mó
- Đạo Phật cũng có một cái
tương tự là niết bàn –
nirvana. Linh mục có bao giờ nghĩ về sự
vô lý này không? Với quyền lực
vô biên, tại sao Chúa không dựng
nước thiên đàng ở ngay đây,
trên mặt đất nhày nhụa mà
chúng ta đang sống? Phải, tại nơi
mà hàng triệu sinh mạng chết trong
những cuộc chiến tranh chẳng ích lợi
gì cho họ, hoặc sống quằn quại
dưới gót sắt của những bạo
chúa, hoặc đi ra pháp trường bởi
những lời xúi giục của đám
chính trị gia lưu manh? Tại nơi có
những giống nòi tự xưng thượng
đẳng để đẩy những giống
nòi khác vào chỗ diệt vong, nơi
có hằng hà sa số nhà tù để
giam đến chết những con người lương
thiện thích sống bằng suy nghĩ của
mình chứ không thích sống để
nghe lệnh của kẻ cai trị?
Linh mục
thấy mệt. Chẳng lẽ con người này
lại dùng những phút cuối cùng
của đời mình vào cái việc
bàn luận chính trị chán ngắt?
Như
đoán được linh mục nghĩ gì,
người bệnh lắc đầu :
- Tôi
hiểu, ông chán. Ông chẳng lạ gì
điều tôi vừa nói. Ông biết
quá đi ấy chứ. Nhưng tôi dám
chắc chẳng bao giờ ông trả lời
được câu hỏi đó, bởi vì
ở các chủng viện người ta cũng
chẳng bao giờ dám động đến
nó. Các ông, những linh mục, các
ông chỉ là những ông thủ từ,
làm việc canh đền, nói thế xin
ông đừng giận. Trong đầu các
ông chỉ có kiến thức của những
con vẹt. Trước những câu hỏi như
thế các ông thủ từ của mọi
thứ đền lập tức chạy vội đến
chỗ ẩn náu tiện lợi gọi là
đức tin, và thế là xong. Tin và
đừng có bàn cãi. Amen!
- Lạy
Chúa tôi lòng lành chẳng cùng!
Trước khi chết ông muốn phỉ báng
đạo Chúa hử? Có phải vì ý
muốn đó mà ông mời tôi tới
đây? - linh mục tuyệt vọng kêu lên
– Ông nghĩ tôi là ai? Kẻ thù
của ông chăng? Kẻ gây ra đau khổ
cho ông chăng?
Đến lượt người
bệnh thở dài. Đó là tiếng
thở dài chán ngán. Như luồng
hơi cuối cùng trong bễ lò rèn
trôi ra khi người phụ rèn dừng
tay.
- Linh mục ạ, vậy mà nhìn ông
tôi nghĩ học vấn và tuổi đời
đã làm cho ông tỉnh táo nhiều
hơn cơ đấy, và ông sẽ là
người đối thoại tốt trong đêm
chót cuộc đời tôi. Tại sao ông
lại lảng tránh những câu hỏi tự
chúng nảy ra trong đầu chúng ta, chứ
không phải chỉ trong đầu tôi? Sau
bằng ấy năm ta sống? Chao ôi, linh mục
ơi linh mục! Tôi chẳng còn dịp
nào khác đâu. Tôi cũng chẳng
còn ai để nói ra những gì chất
chứa trong lòng. Tôi đâu có định
gây sự với ông. Bây giờ tôi
chỉ còn có ông để mà tâm
sự thôi. Tôi xin thề rằng tôi
không hề có thù riêng với Chúa
của ông.
- Thế thì ông báng
bổ đạo Chúa làm gì? –
linh mục bực bội, nhưng ông lại
nghe thấy giọng mình rền rĩ - Sự
xúc phạm tới Chúa của tôi chính
là sự xúc phạm tới tôi, bởi
vì tôi, phần xác cùng là phần
hồn, đều thuộc về Chúa.
Ông
phản bác người bệnh, nhưng lại
cảm thấy những lời phản bác ấy
là để cho chính ông. Cứ mỗi
phút trôi qua ông lại thấy gần
hơn với con người khốn khổ sắp
lìa bỏ cõi đời. Ông tự
phân tích tình cảm của mình và
hiểu rằng cái làm ông không thể
chối bỏ cuộc gặp gỡ này, bây
giờ đã trở thành cuộc đối
thoại, chính là vì ngay từ phút
đầu tiên ông đã cảm thấy
rằng con người này thực sự cởi
mở cõi lòng với ông, một người
hoàn toàn xa lạ, nhưng tin cậy ông
trước khi ông tin cậy ông ta. Ngay cả
những con chiên ngoan đạo khi xưng tội
với ông thường không có sự
cởi mở thực tâm từ đáy lòng
như thế.
Người bệnh lẩm bẩm
điều gì, linh mục nghe không rõ.
Để nghe rõ hơn ông phải ghé
sát vào mặt ông ta.
- Cuộc đời
bao giờ cũng rối rắm hơn ta tưởng.
– người bệnh nói khẽ, đôi
môi mấp máy, rõ ràng không chỉ
để nói với linh mục - Hình như
để cho cuộc sống dễ chịu hơn,
hoặc để giải thích cuộc đời
một cách giản đơn hơn, con người
nào cũng cần đến Chúa…
-
Giê-su, lạy Chúa tôi, ông lại
báng bổ nữa rồi, chẳng lẽ ông
chỉ nhìn thấy nơi Chúa một vật
dụng tiện lợi? - linh mục thất vọng
kêu lên.
- Không phải Chúa Trời
hay Chúa Giê-su đâu, linh mục. –
người bệnh nói, linh mục nghe trong
giọng nói của ông ta có tiếng
cười – Tôi nói về một Chúa
chung chung cơ, Chúa với tư cách niềm
tin ấy, Chúa không phải của riêng
đạo nào, với tư cách Đấng
tối cao ở khắp mọi nơi, thông biết
mọi sự.
- Hừm.
- Nếu Chúa không
có sẵn, linh mục ạ, thì chính
con người cần có Chúa sẽ tự
mình tạo ra Chúa, cho nhu cầu của nó
= người bệnh nói, như thể đã
lấy lại được giọng bình
thường - Khi đã có Chúa trong
tay, bất kể là Chúa nào - Chúa
tìm thấy, Chúa tạo ra, Chúa vay
mượn, Chúa mua sắm, Chúa nhập
cảng, tức thì nó lấy ngay Chúa
mà nó sở hữu, Chúa của riêng
nó, của phe phái nó tròng vào
cổ đồng loại, coi đó là ưu
thế của nó trên đồng loại,
để được cảm thấy mình
cao sang hơn đồng loại, chung cuộc là
để thống trị đồng loại…
Linh mục im lặng. Ông biết nói gì
với những lời lảm nhảm ấy. Điều
làm ông ngạc nhiên là bên trong
những lời đầy báng bổ của
người bệnh, có cái gì đó
rất thật thà, khẳng định. Và
không phải không có lý.
- Linh
mục, ông vẫn còn ngồi bên tôi
đấy chứ? – người bệnh lặng
đi một lúc, bỗng kêu lên, thảng
thốt.
- Tôi đây - linh mục vội
vã nói khi người bệnh làm một
cử chỉ cố gắng để chồm dậy
– tôi vẫn ngồi ngay bên cạnh ông
đây mà.
Người bệnh thở ra
một hơi dài.
- Vậy mà tôi
thấy ông bị trôi ra xa đến nỗi
tôi muốn với tới mà không
được.
Linh mục đụng mấy
ngón tay lên mí mắt nhắm nghiền
của người bệnh. Cặp mắt mở
ra, nhìn mà không thấy. Linh mục nghĩ
có lẽ ông ta đang bước vào
giai đoạn hấp hối.
Nhưng rồi
người bệnh lại bừng tỉnh, cặp
mắt lại trở nên có thần.
-
Linh mục có gặp một người chết
sống lại bao giờ không?
- Không, ông
ạ.
- Tôi đã gặp hai người
rồi đấy, họ chết hẳn rồi,
cũng tin chắc như thế, nhưng rồi họ
sống lại. Tôi hỏi họ thấy gì
ở phút họ qua đời thì họ
nói….
- Họ nói sao?
- Họ kể
rằng lúc họ trút hơi thở cuối
cùng, họ biết hết. Lúc đó,
trí óc họ minh mẫn lạ thường,
như thể chưa bao giờ họ minh mẫn
như thế.
- Rất có thể.
- Họ
còn kể rằng người họ nhẹ
như một sợi bông vậy, và họ
rơi vào một bầu trời xanh kỳ lạ,
mầu xanh trong cuộc đời họ chưa
từng gặp. Cả hai người hỏi mà
tôi hỏi đều kể giống nhau.
-
Người Thiên Chúa giáo chẳng tin
điều đó. – linh mục nói,
bất giác rùng mình - từ trái
đất mà đi chỉ có hai con đường:
một là bị quỷ dữ kéo xuống
địa ngục, hai là được các
thánh thiên thần rước lên thiên
đàng.
- Ông lại nói như sách
rồi, linh mục ơi. - đôi môi khô
héo của người bệnh đụng đậy,
như thế ông ta cười - Ông chớ
tin ở Kinh Thánh. Đến cả Chúa
Ki-Tô không phải bao giờ cũng thực
thà. Trong Kinh tuần giảng bảy ngày
có kể chuyện để hạ nhục bọn
lái buôn thành Giê- ru-sa- lem, Chúa
đã giả vờ không rửa tay trước
khi ngồi vào bàn tiệc để cho
chúng có cớ cười nhạo ông,
tạo ra dịp mắng chúng về chuyện
sơn hào hải vị bày ra trên bàn
tiệc chẳng phải do chúng làm ra, bằng
chính những bàn tay sạch sẽ đã
được rửa trước khi ăn. Giả
vờ, thưa linh mục, cũng là một
dạng dối trá, tuy có nhẹ hơn.
Xin ông đừng giả vờ bác tôi,
khi trong lòng ông, ông lắng nghe tôi,
bởi vì ông hiểu tôi đang nói
thật và điều tôi nói đáng
để nghe.
Linh mục giật mình. Người
bệnh như nhìn thấy ông trần
truồng đứng trước ông ta và
ông cảm thấy hổ thẹn.
- Ông
cũng đã nhìn thấy màu xanh ấy
rồi chăng?
- Đúng, tôi đã
thấy nó. Mới vài phút trước
đây thôi. Đó là một màu
xanh hết sức lạ lùng, màu xanh trời,
thiên thanh, chứ không phải xanh nước
biển, trong vắt và sâu vô cùng
tận. Nó đẹp vô cùng quyến
rũ, đẹp đến nỗi không sao dứt
ra nổi, tưởng chừng cứ nhìn thêm
vào nó một lát thôi là ta sẽ
trôi tuột vào trong đó, vào cõi
mà vô thức bảo ta rằng chính đó
là cõi vĩnh hằng.
Linh mục bối
rối im lặng:
- Ông nằm yên một
lát chăng? Nói nhiều, ông mệt
đấy.
- Ồ không, không sao, tôi
đã mệt cả cuộc đời rồi,
có mệt thêm một chút cũng chẳng
hại gì…- người bệnh khẽ
lắc đầu, hoặc linh mục cảm thấy
thế - tôi mệt vì bị dối trá,
tôi mệt vì tôi dối trá người
khác… Tôi còn mệt cả vì
tôi tự dối mình nữa, linh mục ạ.
Con người nào mà không giăng cho
mình sợi tơ nhện dối trá để
cho chính mình sa vào? Sự dối trá
êm ái ấy mấy ai thoát khỏi? Êm
ái và tiện lợi.
- Cuộc sống
nào chẳng do Chúa cho ta.
- Một sợi
tóc rơi xuống cũng không ngoài ý
Chúa, phải thế không? Như vậy
thì, thưa linh mục, ta tồn tại làm
gì? Tồn tại không phải để
làm cái gì khác ngoài sự
thực hiện ý Chúa hay sao? Nếu chỉ
để làm như thế thì Chúa
của ta thật trái tính trái nết.
Và cái sự thực hiện mù quáng
của ta mới vô duyên làm sao!
Linh
mục cảm thấy sức lực rời bỏ
ông. Tại tuổi già, tại chuyến đi
xa mệt nhọc, hay tại chính những lời
lảm nhảm này. Tranh luận để làm
gì khi mỗi con người nhìn chân
lý từ một phía, như những anh mù
sờ con voi, anh nói giống cái cột,
anh nói giống cái quạt?
Hai người
im lặng một lúc lâu.
Linh mục nghe
rõ tiếng khò khè trong cuống họng
của người bệnh và tiếng đập
đôi lúc đứt quãng trong huyết
quản mình. Trái tim ông sắp hết
hạn làm việc mà Chúa ban cho nó
rồi. Khoảng hai năm nay nó bắt đầu
làm việc ì ạch, đập năm bảy
nhịp rồi ngừng một nhịp, sau đó
lại tiếp tục đập. Bao giờ nó
sẽ ngừng hẳn không đập nữa?
Và trong phút đó ta có nhìn
thấy màu xanh tuyệt đẹp mà người
này vừa nói tới không?
Con tắc
kè đầu hồi lại lên tiếng
rất gần. Nó kêu lúc đầu
dõng dạc, từng tiếng phân minh, rồi
nhanh dần và nhỏ dần như ngán
ngẩm không buồn kêu nữa.
- Ông
ngủ đấy ư? – linh mục hỏi.
-
Không, tôi suy nghĩ.
- Ông nghĩ gì?
Người bệnh mỉm cười, mắt
nhắm nghiền.
- Tôi nghĩ không biết
có nên xưng tội với linh mục
không?
Linh mục vuốt ve bàn tay khô
xác của người bệnh.
- Đừng
cưỡng bức mình làm cái việc
mà mình không muốn. Cái đó
chẳng có lợi cho ai.
- Nhưng nếu
tôi lại rất muốn?
- Tôi sẵn
sàng nghe ông, bởi vì tôi đã
ở lại đây, bên cạnh ông, như
ông đòi hỏi.
Đầu người
bệnh gục xuống ngực, không cất
lên nữa. Mái tóc bạc xõa xuống
che lấp cả vẻ ủ rũ ấy làm
động lòng linh mục. Ý nghĩ về
cái chết tràn ngập tâm hồn
ông.
- Tôi đã sống trên tám
mươi năm trên thế gian. Tôi đã
phạm phải vô vàn tội lỗi và
hằng hà sa số sai lầm. Nhưng điều
tôi muốn nói với linh mục lại
liên quan tới một con chiên của Chúa,
do đó tôi mới muốn xưng tội
với ông, hay là với Chúa của
ông thì cũng thế, bởi vì tôi
coi mình đã làm thiệt hại cho
Chúa mặc dầu theo thuyểt tiền định
của chính đạo Chúa thì mọi
việc xảy ra đều do một ý Chúa.
Tôi thấy ân hận vì việc mình
làm, có nghĩa là trong việc đó
tôi có tội...
Linh mục đặt tay
lên đầu người bệnh:
- Tôi
xin nghe ông, ông bạn già ạ.
- Sao
linh mục lại gọi tôi như thế?
-
Ông không phải con chiên của Chúa,
nhưng ông là một con người thật
thà.
- Cảm ơn linh mục.
- Nào,
ông nói đi, nói đi cho nhẹ
lòng.
Người bệnh tử từ ngẩng
đầu lên. Linh mục nhìn thấy trước
mắt mình đôi mắt không có
hồn đang rõi ra xa.
- Khoảng năm chục
năm trước – khi tôi còn trẻ,
tôi đã giết một người.
-
Giết người, đối với bất cứ
tôn giáo nào cũng đều là
trọng tội.
- Nói cho đúng, trong
cuộc đời tôi, tôi đã giết
nhiều người, nhưng tôi không thấy
ân hận bởi vì nếu tôi không
giểt họ nhanh hơn họ giết tôi thì
tôi cũng chẳng còn. Nhưng người
mà tôi nói lại là người
khác hẳn.
Người bệnh ngừng
nói để lấy hơi. Mà cũng có
thể ông ta chọn lời.
- Hồi đó
tôi chỉ huy một trung đội trinh sát.
Chúng tôi đi qua một làng mà
năm trước giáo dân vừa nổi
loạn. Họ đã giết một số bộ
đội.
- Lạy Chúa tôi! - linh mục
kêu lên, làm dấu thánh.
- Đám
nổi loạn mà tôi nói tới đã
bị dẹp, tình hình đã bình
ổn, một năm rồi mà. Tôi nghĩ
rằng đi qua đó chẳng có gì
đáng lo ngại. Đến giữa làng
mới biết là mình nhầm. Chuông
nhà thờ bỗng nổi lên lanh lảnh,
trống thúc dồn dập, tiếng người
hò la dậy đất, rồi hàng loạt
giáo dân xông ra. Một số trong bọn
họ nổ súng vào chúng tôi. Thế
là chúng tôi nổ súng bắn
trả…
- Giê-su!
- Tôi bỡ ngỡ,
tôi bàng hoàng, nhưng tôi còn
đủ tỉnh táo để hạ lệnh
cho bộ đội chúc nòng xuống mà
bắn. Tôi không muốn gây ra chết
chóc...
- Có phải ở Nam Định
không?
- Vâng, ở đấy. Trên
đường truy kích những tên cầm
súng bắn chúng tôi - tôi gặp
một thanh niên nằm ngửa, mắt mở
to. Anh ta đã chết, đạn xuyên qua
bụng phá ra hông thành một lỗ
toác hoác.
Linh mục nín thở theo
dõi câu chuyện.
- Tôi dừng lại,
vuốt mắt cho anh ta. Tại sao tôi lại
làm như thế, tôi không hiểu. Tôi
đã dự nhiều trận đánh, đã
thấy nhiều xác chết trong đủ mọi
kiểu chết…
Người bệnh dừng
lại trong hồi tưởng.
- Tôi dừng
lại vì vẻ thánh thiện trên
gương mặt trong sáng của người
chết. Anh ta đẹp quá. Mà cái
đẹp sinh ra để làm gì nếu
không phải để tạo ra niềm vui, để
dành cho tình yêu? Lẽ ra anh ta phải
sống, để ôm ấp trong tay một người
con gái đẹp, xứng đáng với
anh ta. Để rồi cô gái là vợ
anh sẽ sinh cho anh nhưng đứa trẻ đẹp
như bố mẹ chúng. Vậy mà anh ta
đã chết…
Linh mục nuốt nước
bọt. Họng ông bỗng khô khốc.
-
Ông đã có ý nghĩ của Chúa.
– linh mục nói – Người có
ý nghĩ của Chúa là người
có lòng lành.
- Có thể chính
tôi đã giết anh ta. Trong chiến trận
nói chung chẳng ai biết kẻ nào phía
bên kia đã chết vì viên đạn
của mình… Khi những người sẵn
sàng tử vì đạo kia xông lại,
tôi đã bắn, và không phải
chỉ một băng đạn. Họ hung hăng
quá, tôi nghĩ họ đã nốc
rượu vào khi xung trận…
Người
bệnh lặng đi trong cơn xúc động,
cái đầu nặng nề lại gục
xuống, mái tóc bơ phờ lại che
khuất gương mặt mà linh mục rất
muốn được thấy trong lúc này.
Linh mục bối rối, ông muốn nói
điểu gì, nhưng không cất nổi
lời.
Người chết ngẩng mặt lên.
Nhưng đôi mắt đã đục
chẳng còn thấy gì ở phía
trước.
Hai người im lặng một
lúc lâu.
- Rồi sau thì sao? –
linh mục run run hỏi.
Người bệnh thở
dài:
- Đoạn kết ông đã
biết nó thế nào.
Linh mục rùng
mình.
- Vâng, tôi biết. – ông
xúc động nói – Ông đã
nhận ra tôi.
- Vâng, đến vùng
này tôi đã gặp ông, đã
nhận ra ông.
- Ông đã giết em
tôi?
- Tôi không biết người ấy
là ai. Tôi cũng không dám nói
chắc rằng tôi đã giết. Tôi
chỉ nói được rằng rất có
thể chính tôi đã bắn chết
anh ấy. Xác chết nằm trên đường
đi của rất nhiều viên đạn do
chúng tôi bắn ra. Cũng có thể
anh ấy chết vì viên đạn của
người nào khác, nhưng tôi thì
lúc ấy lại cứ đinh ninh chính
mình đã làm điều đó…
-
Sao hôm ấy ông lại ngăn không cho
những người lính của ông bắn
chết tôi khi tôi vác dao lăn xả
vào chém ông? Vết thương ở
vai chắc còn đấy. Tôi nhớ, máu
chảy ra xối xả, vọt đẫm mặt
tôi…
- Còn cái sẹo, linh mục
ạ. Nó đây.
Người bệnh đưa
tay lên để vạch áo, nhưng cánh
tay vừa giơ lên đã thõng xuống.
Linh mục nhích lại gần giúp ông
ta. Khi linh mục trật vai áo của người
bệnh ra ông nhìn thấy một vết
sẹo thâm xì sâu hoắm.
Người
bệnh nhìn ra phía trước, xuyên
qua linh mục, xuyên qua bức vách, tới
một nơi nào rất xa.
- Bây giờ
thì tôi hiểu vì sao ông không
mời linh mục nào khác mà cứ
đòi gặp chính tôi. – linh mục
buồn bã nói, kéo cổ áo cho
người bệnh để che đi vết sẹo
– Ông muốn biết tôi bây giờ
thế nào…
- Cái quả đã
xứng với cái cây. – người
bệnh nói – Tôi chẳng than phiền.
- Hạt thiện gieo xuống đâu thì
cây thiện mọc lên ở đó. Tôi
hằng cầu nguyện cho ông. Nếu không
có ông gạt nòng súng ra thì
viên đạn của người lính đã
kết liễu đời tôi…
- Tôi
không nghĩ tới làm ơn. Tính thiện
còn trong tôi đã làm việc đó.
Linh mục đặt tay lên vai người
bệnh:
- Ông không có vợ con sao? Ở
đây tôi chỉ thấy những người
cháu.
- Có chứ. Rồi tôi cũng
có một gia đình. Tôi có vợ,
có hai đứa con. Nhưng chiến tranh đã
xoá sạch dấu vết cái gia đình
ấy. Như thể bằng một nhát
chổi…
Con tắc kè lại kêu lên
một hồi, tiếng của nó vang động
trong rừng đêm.
- Mấy giờ rồi,
thưa linh mục?
- Có lẽ đã gần
hai giờ sáng. Tôi không mang đồng
hồ. Từ lâu, thời giờ đối với
tôi chẳng còn ý nghĩa.
- Ông
ở lại với tôi đến cùng
nhé?
- Tôi sẽ ở lại với
ông.
Người bệnh ngẩng đầu
lên, hướng cái nhìn mà không
thấy vào mặt linh mục. Linh mục bối
rối đảo mắt qua nơi khác.
- Tôi
đã xưng tội. Bây giờ ông hãy
nhân danh Chúa của ông mà tha tội
cho tôi đi.
Linh mục ngập ngừng, rồi
làm dấu thánh trên đầu người
bệnh, lẩm bẩm một câu la-tinh.
-
Chúng ta đều có tội trong điều
răn thứ nhất…
- Chớ giết
người! – người bệnh nói.
-
Tôi muốn nói với ông: tôi cũng
có tội. Như ông. – linh mục cố
gắng đẩy câu nói nặng nhọc
ra khỏi miệng – Hôm đó tôi
đã bắn về phía các ông.
Cho đến khi súng của tôi hết đạn.
Tôi nhìn thấy rõ ràng một
người lính ngã xuống trước
họng súng của tôi. Viên đạn
bắn trúng anh ta có thể không phải
là của tôi, tôi cũng không dám
nói chắc, nhưng cũng như ông, tôi
cứ nghĩ viên đạn là của tôi.
Lúc đó tôi còn trẻ. Có
lẽ trẻ hơn ông. Lúc đó
chúng tôi nhìn các ông như kẻ
thù. Chúng tôi đã quên lời
dạy của Chúa: “Hãy thương
yêu người ta như mình vậy”.
Chính tôi là một trong những người
được bề trên sai trói chín
anh bộ đội vào đám xú vẹt
năm trước đó. Trong số chín
người ấy có một anh bộ đội
rất trẻ. Khi tôi trói anh ta, anh ta nhìn
tôi và thật ngạc nhiên, tôi
không thấy trong đôi mắt ấy có
một chút oán giận, một chút
căm thù. Chỉ có sự ngỡ ngàng,
bối rối, như trước một điều
khó hiểu. Tôi đứng gần đấy
cho đến khi nước triều lên chậm
chạp, bắt đầu vượt qua đầu
gối họ, lên tới bụng họ, rồi
tới ngực họ. Cả chín người
đều im lặng. Tôi chờ anh thanh niên
kia van xin tha chết, nhưng anh ta im lặng. Tôi
không chịu nổi cái nhìn ấy hơn
nữa, tôi không còn sức để
chịu đựng hơn nữa, tôi vội
vàng nới dây trói cho anh ta và hấp
tấp bỏ đi vài phút trước
khi nước lên tới cằm họ…
Linh mục quỳ xuống trong một dáng
điệu trịnh trọng.
- Tôi cũng
đang xưng tội với ông đây.
Chính cái gạt tay cho nòng súng
chĩa vào tôi hôm đó đã
làm cho tính Thiện trong tôi bừng
tỉnh. Ông đã cắt đứt sợi
dây của cái ác luân phiên. Từ
đó tôi nguyện suốt đời làm
tôi tớ Chúa, ghé vai vác cây
thập ác nặng nề của ý Chúa
cứu rỗi loài người…
Người
bệnh ngồi im lặng như nhập định.
Linh
mục ngước mắt lên, hai tay chắp
trước ngực.
- Nhân danh Cha và con,
và thánh thần, kẻ tôi tớ Chúa
xin Chúa lòng lành tha mọi tội lỗi
cho những đứa con dốc lòng chừa
cải…
- A-men!
Cầu nguyện xong, linh
mục ngồi lên giường, đối diện
với người bệnh, nắm lấy hai bàn
tay lạnh giá của ông ta. Người
bệnh hiểu cái nắm bàn tay gần
gũi và thân thiết ấy:
- Xin vĩnh
biệt linh mục. Ông có thể đi được
rồi đấy. Ý nguyện của tôi
đã thành. Từ khi biết linh mục ở
đây, tôi rất mong được gặp
lại…
- Chúng ta đã gặp nhau.
– linh mục bóp mạnh bàn tay khô
xác – Tôi mừng gặp lại ông,
ân nhân của tôi.
- Ân nhân gì?
Vĩnh biệt ông, linh mục!
- Khoan hãy
nói lời vĩnh biệt. – linh mục
thảng thốt kêu lên – Bây giờ
tôi không muốn đi đâu hết.
Tôi muốn ngồi lại với ông.
-
Chúng ta còn có chuyện gì để
nói nữa đâu? Những gì cần
nói, tôi đã nói hết rồi.
Linh mục một lần nữa bóp chặt
hai bàn tay người bệnh.
- Bây giờ
đến lượt tôi muốn hỏi ông.
- ông nói, hổn hển vì quyết
định của mình – Chúa của
ông là ai?
- Tôi không có Chúa.
-
Ông có Chúa của ông. Như chúng
tôi có Chúa của chúng tôi.
-
Không, tôi không có Chúa. Nói
cách khác, tôi từng có một thứ
như thế…
- Ông là người
cộng sản, phải không?
- Ông muốn
nói một đảng viên cộng sản?
-
Vâng.
- Trong ý nghĩa ấy thì không.
Bây giờ thì không.
Người bệnh
cười to theo cách của ông ta, há
miệng không thành tiếng và đôi
vai gày rung rung.
Khi hai vợ chồng người cháu hé tấm liếp nhìn vào căn lều, họ thấy linh mục và người sắp chêt ngồi ôm nhau trên giường, người nọ gục vào vai người kia, hai đôi vai gày thỉnh thoảng giật lên khe khẽ trong ánh sáng nhợt nhạt của cây tọa đăng đã cạn dầu.
Vũ Thư Hiên
1988
Các thao tác trên Tài liệu