Tình Thủ đô
Tình Thủ
đô
Một kiệt
tác đời hồ như quên hẳn
Dương Tường
Là do cô nhà thơ trẻ Dạ Thảo Phương tự dưng bàn sang chuyện cầu Long Biên, cái tháp Eiffel nằm ngang vắt qua sông Hồng ấy. Ấy thế là quẫy lên từ sâu thẳm ký ức tôi những câu đầy hào khí: “Qua cầu Long Biên/ Sông bóng người đi/ Vai cao rộng/ Mặc núi rừng Việt Bắc...” trong bài thơ “Tình Thủ đô” của Hữu Loan.
Bài thơ mà cách đây nửa thế kỷ, bọn tôi, mấy gã lính văn nghệ tuổi ngoài hai mươi, thường say sưa cùng nhau tấu lên giữa rừng sâu Việt Bắc hay Trung Thượng Lào mà nước mắt giàn giụa. Tôi bảo Thảo Phương: “Có một bài thơ về Hà Nội kháng chiến mà chú coi là một kiệt tác bị lãng quên, nghĩa là chưa từng được đưa vào bất cứ tuyển tập thơ Việt Nam nào từ trước tới nay. Cháu có muốn nghe không?” và tôi cao hứng đọc luôn. Nhưng đến câu: “Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa...” thì tôi bỗng khựng lại, không sao nhớ tiếp được. “Chao, trí nhớ suy yếu cùng với tuổi già dạo này luôn chơi mình những vố thật khăm!” - tôi bực bội nghĩ thầm.
Đêm ấy, tôi trằn trọc mãi, đào bới ký ức, và nhớ thêm được nhiều đoạn khác nhưng vẫn không nối lại được mạch ở chỗ bị khựng lại lúc chiều. Ngày xưa, bọn tôi – Tất Vinh, Vũ Như, Mạc Lân và tôi - thường đọc với nhau theo kiểu đồng ca hoặc “hát đuổi”, người nọ nối người kia, câu trước gọi câu tiếp theo... Giá lúc này, tụ lại cùng nhau “đồng ca hát đuổi”, chắc thể nào cũng nhớ ra hết. Tất Vinh mất đã hơn hai mươi năm, Vũ Như cũng đi từ lâu, chỉ còn Mạc Lân...
Sáng sớm hôm sau, tôi gọi điện cho Mạc Lân. Từ đầu dây đằng kia, một giọng thều thào: “Tường đấy hở? Tao mệt lắm. Mấy hôm nay ngất hoài. Tao bây giờ sống thêm ngày nào là ăn gian của trời đất ngày ấy”. Tôi lưỡng lự một chút, e vấn đề đặt ra không đúng lúc, nhưng rồi quyết định cứ hỏi: “Mày (bọn tôi bây giờ đều đã ngoài bảy mươi, thậm chí ngót tám mươi, nhưng vẫn không thể nào thay đổi cách xưng hô mày - tao thuở xưa) còn nhớ bài “Tình Thủ đô” cua Hữu Loan không?” – “Nhớ chứ, sao lại không!” Giọng nói ở đầu dây đằng kia bỗng trở nên tỉnh táo, linh hoạt. Và Lân đọc luôn trong máy: “Trên những chuyến xe bò/ Đi về đường Chèm - Vẽ...”. Lân đọc mỗi lúc một bốc, ờ, vẫn cái giọng sang sảng ngày xưa. Thế là chúng tôi lại “hát đuổi” với nhau một lúc, trước khi tôi hẹn vào thăm Lân ngay trong buổi sáng hôm ấy để chụm đầu với nhau ôn lại từng khổ, từng câu cho đến hết bài.
Thật cảm động và kỳ diệu đến mức khó tin, lòng yêu thơ, như một thứ thần dược, đã làm cho Mạc Lân như khoẻ hẳn lên. Mạc Lân, một người với cả nửa tá bệnh hiểm nghèo đóng trụ sở thường trực trong phủ tạng - tim, gan, thận, phổi, thần kinh...- suốt hơn hai mươi năm nay chống chọi với cái chết luôn rình rập, tháng nào cũng dăm bảy lần ngất, có đận trên 20 lần một tháng. Nhưng lúc này, anh như một người khác. Giọng vang vang, mắt anh long lanh như mỗi lần nhắc đến những bài thơ và người thơ anh yêu. “Không thể để một bài thơ như thế này mất đi”, chúng tôi bảo nhau thế. Mấy ngày liền, tôi đi xe ôm vào Cầu Giấy làm việc với Lân. Có đêm, rất khuya rồi Lân còn gọi điện ra: anh vừa nhớ ra cái đoạn mà hồi chiều chúng tôi bị vấp và chững lại.
Cuối cùng, chúng tôi cũng hoàn tất công việc “phục chế” bài thơ.
Được viết vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước – chắc chắn là sau chiến dịch biên giới (1950) và trước chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) - với một xu hướng cách tân rõ rệt, trường ca Tình Thủ đô là một trong số những bài thơ tự do hiếm hoi trong Kháng chiến chống Pháp thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của dòng Thơ mới (1939 - 1945). Tiết tấu hoạt, gân guốc, câu ngắn (thường chỉ hai, ba âm tiết), sắc gọn như mũi chông, hình tượng bất ngờ cắm phập vào cảm quan: “Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa... Nắng loá tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối...”, những điểm chấm phá gợi cảm như tranh Seurat: “Mắt em biếc/ Một chiều xưa/ Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu/ Tháp Rùa...”. Ngoài giá trị nghệ thuật cao – chuyện này còn phải bàn dài dài khi có dịp - bài thơ còn đặc biệt thân thiết với thế hệ chúng tôi bởi lẽ nói cách nào đó, nó là một phần của cái quá khứ mà bọn tôi vẫn coi là thời hoàng kim của cách mạng. Cùng với những câu thơ, khổ thơ được hồi nhớ, những kỷ niệm cũng trỗi dậy, chúng tôi như sống lại cả một thuở xa xưa. Bài thơ gắn liền với tuổi trẻ của chúng tôi, những gã trai Hà Nội đã bỏ lại “cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng” (Ngày về - Chính Hữu) để theo Cụ Hồ đi kháng chiến chống Pháp. Bởi thế, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua mà nó vẫn sống trong lòng bọn tôi, từng câu từng chữ vẫn tươi sắc hồng cầu trong huyết quản - ký ức bọn tôi. Nói cách khác, nó đã thành một mảnh hồn của chúng tôi.
Nghĩ rằng thế hệ trẻ hiện nay, dù không từng sống “những ngày thủ đô/ như ộc máu triền miên” ấy, vẫn có thể cảm nhận ở những mức độ khác nhau những gì được chuyển tải trong “Tình Thủ đô”, chúng tôi quyết tâm ghi lại để chờ dịp công bố rộng rãi. Tôi những muốn nhân dịp này vào Thanh Hoá thăm anh Hữu Loan để anh duyệt lại bản ghi cho thật chính xác trước khi công bố, nhưng thật tiếc là không có điều kiện. Với lại, dạo xưa, tuy rất quý mến anh nhưng tôi không có dịp gần anh nhiều, chỉ đôi lần trò chuyện sơ sơ, chẳng biết anh có còn nhớ tôi không. Dù sao nếu bản ghi này tới được anh, cũng mong anh bổ chính cho những chỗ còn sót hoặc chưa chính xác, và nhất là, nhận ở đây tấm lòng của những kẻ đã suốt nửa thế kỷ mang trong tim mình bài thơ của anh mà đời hồ như đã quên hẳn.
Nguồn: Trong tập Chỉ tại con chích choè, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội 2009. Tác giả gửi cho Diễn Đàn khi được tin nhà thơ Hữu Loan từ trần.
tình thủ đô
Hữu Loan
Trên
những chuyến xe bò
Đi
về đường Trèm Vẽ
Việt
Bắc âm u
Đường
dài Thanh Nghệ
Người
Thủ đô tản cư
Đoàn
xe đi
Chở
nặng tâm tư
Một
góc nhà
Một
hè phố
Mắt
em biếc
Một
chiều xưa
Quan
Thánh
Cổ
Ngư
Bạch
Mai
Bóng
liễu Tháp Rùa
Một
thằng bạn
Một
thằng con
ở
lại
*
Khấp
khểnh xe đi
Vấp
vào đêm tối
Thủ
đô
Ngày
mùa thu
Thủ
đô
Cờ
bốc lửa
phố
dài
Cờ
bốc lửa
công
trường Nhà Hát lớn.
Thủ
đô
Ngày
Tổng Khởi Nghĩa
Ngày
Thủ đô chờ đón
Đoàn
Giải phóng quân về
Qua
cầu Long Biên
Sông
bóng người đi
Vai
cao rộng
Mặc
núi rừng Việt Bắc
Ai
về Thủ đô
Khăn
thầm nước mắt
Quốc
ca mình
Đoàn
lính Việt đầu tiên
-
Có người làng đi
Trong
đoàn lính trẻ.
Thủ
đô
Tuần
Lễ Vàng
Hà
Nội dãy dọc toà ngang
Quên
giai cấp
Trong
căm thù dân tộc
Thủ
đô
Ngày
Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ
đô
Ngày
Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những
ngày Thủ đô
Như
ộc máu triền miên
Máu
những người Tây giết
Chảy
về từ lịch sử
Tiếng
hát
Vùng
lên
Xích
xiềng rơi vỡ.
Thủ
đô
Ngày
Tàu trắng
Quốc
dân đảng
Và
thực dân
Nghênh
ngang phố chật
Bắt
cóc
Tống
tiền
Khiêu
khích
Bắn
người
Đám
ma đi
Cờ
đỏ phủ quan tài
Phố
Ôn Như Hầu
Những
người bị giết
Xác
quăng đầy hố
Đoàn
Giải phóng quân đi
Như
gại dao trên đường nhựa.
Thủ
đô
Quân
lệnh đêm
Lựu
đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình
sau mái ngói
Nắng
loé tường vôi
Chữ
cào xương nhức nhối:
THANH
NIÊN SỐNG CHẾT VỚI THỦ ĐÔ!
Mắt
em thiếu nhi
Hồ
trăng Trung Thu:
Các
anh hãy giữ non sông
Cho
chúng em!
Bàn
tay lớn
Nhận
lòng tin bé nhỏ.
Cụ
Hồ hỏi anh em bộ đội:
– Các
chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy
ngày?
Một
rừng nắm tay
Thét
tiếng:
– Thề
với Bác!
*
Lửa
cháy Thủ đô
Chân
trời hấp hối
Xác
thằng bạn
Xác
thằng con
Trên
hè phố Thủ đô
Giặc
khởi hấn rồi!
Đường
tản cư khuya
Lửa
toé sắt bánh xe bò
Một
Quyết tử quân hy sinh
Là
một đoàn giặc chết
Một
Quyết tử quân hy sinh
Và
bắt đầu từ đó
Những
ngày đêm Thủ đô
Tàn
sát
Khu
Đồng Xuân
Lính
Trung đoàn Thủ Đô
Đâm
giặc trên bàn thịt
Như
chọc tiết bò
Đuổi
giặc
Vật
lăn trên nóc chợ
Hai
tháng giết nhau
Một
đêm thủ đô
Có
đoàn Quyết tử
Cắt
máu tay ăn thề
Ngõ
vắng Thủ đô
Những
đơn vị rút đi
Góc
phố Thủ đô
Bóng
những người ở lại
ánh
hoàng hôn lên
Liệm
tròn huyết thệ
Người
Quyết tử quân
cuối
cùng.
*
Những
người dân Thủ đô
Về
với giặc ở chung
Phải
đốt cờ đỏ sao vàng
Thức
đêm may cờ ba sắc
Và
những sớm mai
Tay
xót xa
Đem
treo cờ giặc trước nhà
Ai
về Hà Nội
Thấy
Hà Nội xa hoa
Thấy
hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng
Hà Nội
Giặc
xây thêm ngục tù
Xe
Phòng Nhì
Chở
từ ngoại ô
Từng
đoàn người xiềng tay
Về
qua phố tối.
Ai
về Hà Nội
Thấy
Hà Nội xa hoa
Thấy
hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng
Hà Nội Ngã-Tư-Sở
Hà
Nội Khâm-Thiên
Đèn
khuya chảy vàng
Những
hộp đêm
Mọc
theo tiếng giày đinh
Của
đoàn Tây mũ đỏ
Tiếng
xe tăng viễn chinh
Chiều
đi bụi phố
Và
giữa trưa Hà Nội yên lành
Hồi
còi rú thất thanh
Kêu
như người tắc họng
Một
xác Việt gian
Ngã
tư
nắng
đọng
Lũ
lượt kéo nhau về Hà Nội
Từng
đoàn thiêu thân
Mang
trong mình định mệnh
Mủ
đờm nhớt lạnh
Và
uế khí hôi tanh
Sợ
ánh sáng và gió lành
Tôi
thành thép
Cánh
tay người Kháng Chiến
Từ
vùng tự do
Có
người vào nội thành
Ném
chứng thư Việt Minh
Trên
dòng sông
Chào
thằng bạn chiến khu
Mà
phục tấm lòng.
Đêm
Thủ đô
Rét
đến
Trong
chăn bông
Nghe
lạnh chiến khu Vũ
Cơm
gia đình
Đũa
bát nhớ người đi.
Và
những sớm mai
Từng
đoàn phi cơ giặc
Chở
tóc tang đầy trong thân sắt
Ra
những miền quê xanh
Tiếng
bom dội về
Chuyển
Hà Nội mênh mông
Tìm
người Hà Nội
Rung
lên như đất chuyển
– Những
người Thủ đô tản cư
– Những
đồng bào kháng chiến.
Những
em mùa thu
Đi
trong đoàn thiếu nhi
Lớn
lên
Tìm
đường chiến khu Việt Bắc.
Những
người ngày xưa
Ghét
Việt Minh
Bắt
đầu chờ đợi
Bao
giờ Việt Minh
Mới
đánh vào Hà Nội
Cho
ánh sáng xa hoa
Vỡ
rơi thành bóng tối
Trên
xác người máu me
Ngổn
ngang gạch ngói?
Đến
bao giờ Việt Minh
Mới
đánh vào Hà Nội?
Những
người bắt sống Le Page
và
Charton
Những
chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những
binh đoàn biên giới
Đang
chuyển về Trung Du
Như
đi từng dãy núi
Kẹp
vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt
vời xa
Cô
gái Hà Nội tản cư
Đẹp
trong màu áo vải quê mùa
Sẽ
còn những ai
Trong
đoàn quân trở lại
Ngày
thủ đô chiến thắng tưng bừng?
*
Em
về Thủ đô
Chân
phố cũ
Ngập
ngừng
Khoảng
cuối 1950 - đầu 1951
(Dương
Tường & Mạc Lân ghi lại theo trí
nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem
lại)
Các thao tác trên Tài liệu