Nguyễn Gia Trí và tranh sơn mài
Nguyễn
Gia Trí, người họa sĩ đã
nhìn ra
cái khả năng kỳ diệu của
sơn mài
Đinh Cường
Bí
quyết của nghệ thuật là không cố
ý làm gì cả. Để cái mờ,
giữ cái bóng.
Sơn dầu khác với
sơn mài là không có cái bóng.
(Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về
sáng tạo, họa sĩ Nguyễn Xuân Việt
ghi lại, nhà xuất bản Văn Học
1988)
Tìm hiểu văn hóa của một đất nước không thể không nghiên cứu đến những tác phẩm hội họa, Nguyễn Gia Trí là một trong những tên tuổi hàng đầu của hội họa Việt Nam hiện đại. Ông sinh năm 1908 tại một làng quê nghèo bên sông Hồng, thuộc Tràng An, Thường Tín, Hà Đông (Bắc Việt), trong một gia đình làm nghề thêu phẩm phục triều đình. Nguyễn Gia Trí pháp danh Thiện Trân do tuổi già yếu sức sau khi bị liệt thân thể do xuất huyết não, đã mất lúc 22 giờ 30 ngày 20 tháng 6 năm1993, tại nhà riêng số 493 Nguyễn Kiệm, Quận Phú Nhuận, Sài Gòn, thọ 85 tuổi. Sau đám tang có lẽ không muốn thấy những kỷ niệm nhắc nhở đến người chồng thương yêu của mình, bà Trí đã bán căn nhà sau này và dọn đến đường Trương Minh Ký. Ông ra đi mới đó mà đã gần hai mươi năm …Ông tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Đông Dương ( École des Beaux- Arts de l’ Indochine) khoá 7, năm 1931 cùng khóa với Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn …đúng ra ông vào học khóa 5 nhưng bỏ dở, ông Giám Đốc Victor Tardieu đi tìm khuyên ông trở lại học, và ông đã trở thành một họa sĩ bậc thầy về tranh sơn mài. Bức sơn mài lớn "Cảnh Thiên Thai" được viên Toàn Quyền Decoux đặt làm để treo trong Dinh Toàn Quyền Đông Dương tại Hà Nội, nghe nói đến nay vẫn còn treo nguyên chỗ cũ, hiện là Phủ Chủ Tịch, Hà Nội. Nguyễn Gia Trí không phải người Công Giáo nhưng ông đã để lại những tác phẩm về Công Giáo thật giá trị tại một vài nhà thờ ở Sài Gòn.
"Đêm Thánh", tranh Giáng sinh của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí (1941)
hiện được lưu trữ tại nhà thờ Dòng Mai Khôi, Sài Gòn
Từ những năm đầu của thập niên 30, khi còn là sinh viên, ông đã tìm tòi, sáng tạo để đưa sơn mài ra khỏi những công thức cổ truyền. "Nguyễn Gia Trí thể hiện một góc bờ Cửa Tùng với nền trời đỏ, nước đỏ, màu của sơn cánh gián pha son tươi, trên bờ cát có rặng phi lao nền đen rắc bạc tả khóm lá và chính giữa bố cục có một chiếc thuyền gỗ úp sấp phơi bụng có đắp nổi và rắc vàng pa-tin (patiner)... Áp dụng các sắc độ khác nhau của vàng bạc vụn rắc lên sơn, của bột sơn pha đậm nhạt, Nguyễn Gia Trí đã thể hiện một bộ bình phông cỡ trung bình "Cảnh Làng Quê" trên nền sơn đen tuyền với ngọn cau cận cảnh thể hiện các gam vàng vụn rắc pa-tin. Ở trên nền trời xa có những ngọn tre bay theo chiều gió và trên đường làng qua một cái cổng chống bằng tre có ba thiếu nữ gánh gạo đi như chạy tà áo phất phới bay..." (Phạm Đức Cường - Kỹ Thuật Sơn Mài, trang 12-13 nhà xb Văn Hóa 1992).
Cùng thời kỳ đó,
các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Nguyễn
Tường Lân, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng
Tích Chù cũng cho ra đời tranh vỏ
trứng trên nền đỏ tuyền. Mỗi
tác giả đều tìm tòi một
kỹ thuật cho riêng mình. Nhưng những
tác phẩm sơn mài của Nguyễn Gia
Trí trưng bày tại Triển lãm Mỹ
thuật của Trường Mỹ thuật Đông
Dương năm 1939 đã gây một sự
bất ngờ lớn trước công chúng
vì tranh sơn mài khó thành công
bởi dễ lẫn lộn giữa mỹ nghệ
và hội họa. Tô Ngọc Vân (bút
hiệu Tô Tử) nhận định về
tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí như
sau : "Đến cuộc thí nghiệm
của Nguyễn Gia Trí, lối Sơn Ta không
còn là một mỹ nghệ nữa. Ở
óc, ở tâm hồn người làm ra
nó đã được nâng lên mỹ
thuật thượng đẳng. Nghệ thuật
của Nguyễn Gia Trí là ý tưởng
tình cảm của Nguyễn Gia Trí đúc
lại, một nét, một vết, một màu
đều ở tay nghệ sĩ mà ra. Đứng
trước những tác phẩm ấy người
ta cảm thấy tất cả cái băn khoăn
yêu muốn khoái lạc - thứ nhất là
khoái lạc của Nguyễn Gia Trí."
Cũng như sơn dầu, tranh sơn mài
cũng phải nói lên được cảm
xúc, trí tưởng mạnh mẽ bằng
một kỹ thuật độc đáo riêng,
không ước lệ, mà bằng tiếng
nói mãnh liệt của sáng tạo. Tô
Tử viết tiếp : "Trên những
màu hồng nhợt biến hóa, những
sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ
trứng như đổi cả thể chất
thành quý vật, vài nét bạc,
vài nét vàng sáng rọi, rung lên,
rít lên như tiếng kêu sung sướng
của xác thịt khi vào cực lạc.
Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn
như ta có thể yêu một người
đàn bà. Lúc âu yếm bằng
những nét vuốt ve mềm mại, lúc
dữ dội bằng năm bảy nét quẹt
mạnh, dập tung, cào cấu. Vạn vật
đối với nghệ sĩ chỉ đáng
yêu có sắc và hình." (Tô
Tử- Nguyễn Gia Trí và Sơn Ta, báo
Ngày Nay 146 - 21 tháng 1, 1939)
Từ 1940 trở
đi, tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí
được bố cục bởi cảnh và
những thiếu nữ diễm lệ, đài
các của Hà Nội thời đó,
những thiếu nữ tân thời trong truyện
của các bạn văn ông trong nhóm
Tự Lực Văn Đoàn . Sau đó ông
cộng tác với nhóm nàv, viết và
vẽ cho hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay…
Năm 1942, hội Quảng Trị (Huế) có
xuất bản "Tập Văn Họa Kỷ
Niệm Nguyễn Du", Nguyễn Gia Trí đã
đóng góp một họa bản sinh động
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh".
Tập thơ văn này được in trên
giấy quý, với lời ghi : tiền thu
được dùng về việc sửa mộ
và dựng đài kỷ niệm tác
giả Đoạn Trường Tân Thanh tại
làng Tiên Điền.
Tại “
Salon Unique 1943” dân chúng Hà Nội
đã hãnh diện với những tác
phẩm hội họa của các họa sĩ
Việt Nam, nổi bật là những tác
phẩm sơn mài của Nguyễn Gia Trí,
gây được tiếng vang lớn. Theo Tô
Ngọc Vân : " Danh từ sơn mài
(laque) là một danh từ mới đặt
sau này để chỉ một kỹ thuật
trước kia gọi là Sơn Ta nhưng đã
biến hoá hẳn do nghệ thuật mài
sơn. Kỹ thuật Sơn Ta cũng tương
tự như sơn Tàu, có từ đời
nhà Hán.[1] Sử dụng cùng với
Sơn Ta một nguyên liệu là sơn
sống. Chất sơn sống này, ở nước
ta, miền Phú Thọ sản xuất rất
nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng
Nhật. Từ năm 1931 trở về trước,
công dụng Sơn Ta cũng như Sơn Tàu
ở Tàu và Sơn Nhật ở Nhật
là phủ lên đồ vật làm nó
tôn vẻ lộng lẫy, lên những vật
dùng thường như cái khay, cái
tráp , đôi guốc…, đồ thờ
như hương án dài, bát đĩa…,
đồ trang trí như câu đối,
hoành phi, bình phong…, màu sắc đại
để có : son, đen, nâu cánh
gián, vàng bạc theo cổ truyền. Nói
rõ ra, Sơn Ta chỉ có công dụng
trang trí, địa vị là ở trong
trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ
thuật sơn có tế nhị hơn cả,
nhưng chưa một nước nào nghĩ
đến tìm tòi, sử dụng nguyên
liệu sơn một cách khác cổ
truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn
để tìm một con đường nào
tăng phẩm giá mỹ thuật sơn bằng
cách phát minh thêm khả năng của
nó …
Song từ 1931 trở đi, nhờ
sự tìm tòi thiết tha của một số
họa sĩ có tài bỏ sơn dầu để
chuyển hẳn về sơn mài, Sơn Ta đã
vượt được ra ngoài nơi cầm
hãm, ngang nhiên trên đường bao la
của hội họa, cứ phương trời
xa lạ mà tiến. Từ cái tráp,
chiếc guốc, nó vượt lên bức
họa lồng khung quý giá, từ một
phương tiện phụ thuộc làm tôn
vẽ đồ vật, nó trở nên một
phương tiện độc đáo diễn
đạt nổi tâm hồn người nghệ
sĩ, một phương tiện lấn át cả
Sơn Dầu. Quên dĩ vãng Sơn Ta đổi
tên nhũn nhặn là Sơn Mài."
( Thuyết trình đọc trước Hội
Nghị Văn Hóa Toàn Quốc năm 1948).
Nguyễn Gia Trí với năng lực sáng tạo dồi dào, là một trong những họa sĩ có tài đã từ bỏ sơn dầu để định hình cho mình một bút pháp và phong cách riêng trong nghệ thuật sơn mài. Ông cũng là người cùng hoạt động trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn “…Cũng trong thời kỳ này ( 1933) anh Tam ( nhà văn Nhất Linh ) lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn cùng Khái Hưng, Hồ Trọng Hiếu ( Tú Mỡ ), Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí, sau có thêm Nguyễn Cát Tường tức họa sĩ Le Mur…”( Nguyễn Thị Thế - Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, trang 117 ). Theo Trương Bảo Sơn, một đồng chí trong Việt Nam Quốc Dân Đảng thì “Khoảng cuối thập niên 30, anh cùng Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Văn Luyện, Khái HưngTrần Khánh Dư, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Đảng này đã bị Pháp khủng bố, Nguyễn Tường Tam đã phải chạy sang Trung Hoa, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt đày lên Sơn La, một nơi nổi tiếng nước độc. Bọn thực dân và tay sai đã tra tấn, hành hạ anh khiến anh mang bệnh phổi và run tay. Chúng còn dùng một vòng sắt đóng đai lên đầu anh, gây thương tích nặng.” ( Tiếc Thương Nguyễn Gia Trí, Trương Bảo Sơn- Tạp chí Nắng Mới số 24 tháng 9-1993). Sau này ông còn bị đưa vào an trí tại Thủ Dầu Một.”Nếu không bị Tây cầm chân một nơi, chắc tôi đã không đủ kiên nhẫn ngồi một chỗ để mà làm việc này“ (Nhã Ca Hồi Ký, trang 508, nhà xb Thương Yêu 1991). Ông cũng từng lưu lạc qua Hồng Kông, đã vẽ nhiều tranh phong cảnh bến tàu Hồng Kông bằng sơn dầu rất đẹp. Ông rời Hồng Kông năm 1952 về Sài Gòn, lập gia đình năm sau đó và sống cho đến ngày mất.
Thời kỳ trước 1954, ông sáng tác nhiều tranh sơn mài cỡ nhỏ, đáng kể nhất : Khỏa thân, Về chợ, Bên Hồ Gươm, Bờ Hồ Hoàn Kiếm, Thiếu Nữ Và Hoa Phù Dung, Bên Hoa Phù Dung, Chùa Thầy, Đèn Trung Thu, Thiếu Nữ Bên Hồ Sen, Vườn Xuân, Ai Mua Rươi Ra Mua... Tranh ông được nhiều người Pháp sưu tập thời đó, kể cả nhiều tranh gần như chưa vẽ xong, hoặc những phác thảo có ký tên tác giả. Sau 1954 tới 1975, nhiều tranh quý của ông được nhiều người sưu tập, thường nằm trong những biệt thự sang trọng, bộ tranh sưu tập của bác sĩ Bùi Kiến Tín (chú họ nhà thơ Bùi Giáng) treo trong hãng dầu cù là Macphsu trên đường Trương Minh Giảng là một trong những bộ tranh quý. Những năm 1980, Việt kiều về nước săn tìm mua tranh Nguyễn Gia Trí, một thời gian sau có lệnh cấm của chính quyền, tranh Nguyễn Gia Trí được liệt vào hàng tài sản quốc gia (nhưng nhờ hối lộ vẫn đem đi được bằng nhiều cách). Thời kỳ "cởi trói, đổi mới" những năm 1989, Bộ Văn Hóa Thông Tin (trong cuốn Văn Hoá Việt Nam) chính thức công nhận ông là một trong mười họa sĩ đương đại có công xây dựng nền nghệ thuật tạo hình hiện đại Việt Nam. Năm 1991, ông được mời ra Hà Nội dự lễ kỷ niệm 65 năm thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, sau đó, UBND thành phố HCM đã mua bộ tranh "Vườn Xuân Trung Nam Bắc" của ông với giá 600 triệu đồng VN (tương đương 100.000 dollars) để trưng bày trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Thành phố. Bộ tranh được Thái Tuấn ghi lại : "Trong những ngày tháng mà đời sống miền Nam bị xáo trộn, sự giao thiệp và đi lại của anh còn hạn chế hơn nữa. Kể từ đó anh không còn nghĩ đến việc sáng tác. Nơi xưởng sơn mài của anh, vật liệu ngổn ngang, những bức họa đang làm dở được che lại. Tôi đã trông thấy trên tường một bức sơn mài lớn, khoảng 12 thước vuông, vẽ gần xong. Anh cho biết bức ấy của một nhà doanh nghiệp đặt anh, song lúc đó ông ta đã đi Pháp, anh rất bận tâm về việc giải quyết bức họa. Tôi bàn với anh, liên lạc với người đặt vẽ, và giúp anh chụp lại bức họa bằng một cuốn phim màu. Sau đó được anh cho biết người đặt tranh đã nhường quyền sở hữu bức họa cho anh. Khi tôi rời khỏi đất nước ( Thái Tuấn đi Pháp năm 1985), bức hoạ vẫn còn trong tình trạng chưa hoàn tất” (Họa Sĩ Nguyễn Gia Trí – Thái Tuấn, Thế Kỷ 21 số 23 tháng 3.1991).
Nguyễn Gia Trí, “Vườn xuân Trung Nam Bắc”. 1970-1990. Sơn mài. Bảo tàng Mỹ thuật Tp.HCM
Với một họa sĩ cả đời cống hiến cho nghệ thuật như Nguyễn Gia Trí, không màng tiền tài danh vọng. "Ngay cả trong thời gian khó khăn nhất, tôi cũng có thể thành triệu phú, nhưng tôi quý trọng tự do hơn tiền bạc. Để sống tự do và lương thiện, để được sáng tạo nghệ thuật, tôi có thể chỉ sống đạm bạc qua ngày mà vẫn vui lòng". Đó là tâm sự của ông với bạn là nhà thơ Đoàn Phú Tứ ( Họa sĩ Nguyễn Gia Trí và sơn mài -Bùi Quang Ngọc, Tạp Chí Mỹ Thuật tháng 12, 1991).
Bây giờ thì người họa sĩ bậc thầy, hiền đức và phẩm cách đã nằm yên nghỉ tại nghĩa trang miền Vĩnh Nghiêm, Tân Phước Hiệp, Hóc Môn, ngoại ô Sài Gòn. Hình ảnh ông ghi mãi trong tôi : một vóc dáng nhỏ nhắn trong một đầu óc thâm sâu, khoáng đạt, mãnh liệt. Những kỷ niệm rất quý là lần gặp ông trong bộ bà ba lụa màu mỡ gà đến thăm anh Thái Tuấn trong con hẻm Bến Tắm Ngựa, Thái Tuấn có vẽ bức tranh sơn dầu lớn : Nguyễn Gia Trí ngồi dưới giàn hoa... thanh thoát lạ thường, bức tranh sau đó bán cho họa sĩ Nguyễn Văn Trung, không biết anh Trung có mang theo qua California, và lần cùng anh Thanh Tâm Tuyền ghé thăm ông tại căn nhà 38/6i hẻm Công Lý, ông ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế mây rộng, anh đã làm bài thơ đầy cảm xúc, đầy ấn tượng khi vừa đi tù về :
Quanh
co
đường hẻm
giữa sáng Chủ
Nhật
đến gặp bất ngờ một
Thiền Sư
Ngồi im lắng nghe và ngắm
Sét
đánh bao giờ
hằn dấu sẹo
trắng nửa sọ trái
Chiếc đầu
nghiêng cúi
Đôi tai dài vểnh
đón nghe
lời trên môi buột
thốt
Đôi mày tối rậm
lấp
lánh ánh trắng những ngày tới
Và
những ngón tay tự run rẩy
Buông
tiếng cười ròn tan
như nắng
đùa trên dàn hoa giấy
lẫn
trong tiếng xe cộ trẩy hội ồn phố
xa
Chiều
mưa tầm tã
Mùa mưa đến
sớm hơn mọi năm
Trời thâm xám
sũng gió
như manh áo rạn lấm
lem sơn
Khoác thân mảnh khảnh người
gặp thăm
Ngày
tối rữa
trong mưa thoắt im .
(chân
dung họa sĩ NGT ngày về thăm - thanh tâm
tuyền - Thơ Ở Đâu Xa, Trầm Phục
Khắc xuất bản,
cơ sở Văn phát
hành 1990, trang 73-74)
Trong bức
thư cuối cùng của Van Gogh gởi cho em
trai, đề ngày 27 tháng 7-1890, Van Gogh viết
đôi lời tuyệt bút : "...Về
tác phẩm của chính đời mình,
anh đang đánh cả một ván đời
mình cho nó, và cả thần trí
của anh gần như sụp đổ, nửa
chừng đứt đoạn rụng rơi..." Họa
sĩ Nguyễn Gia Trí không nửa chừng
đứt đoạn rụng rơi mà ông
đã đánh cả ván đời
mình cho những tác phẩm sơn mài
mang gam màu Nguyễn Gia Trí, không thể
lẫn lộn. Những tác phẩm đã
nằm im trong một không gian và thời
gian vĩnh cửu. Đâu đó trong các
Viện Bảo Tàng, trong những nhà sưu
tập khắp nơi, kể cả hàng trăm
bức ghi chép (sketch) trên giấy báo.
Ông không có môn đệ nào.
Ông đi trên đường nghệ thuật
một mình. Nghệ thuật với ông là
một định mệnh... Trưa nay nóng
gắt, những dòng chữ viết về ông
không đầy đủ. Bây giờ còn
lại cụ bà, tuổi già sức yếu
nằm một chỗ từ hơn nửa năm
nay và người con trai nuôi. Chúng ta
có thể làm gì được thiết
thực hơn như in một tập sách có
giá trị, chưa nói đến điều
ước mơ là có được một
Bảo Tàng về Nguyễn Gia Trí để
tưởng nhớ và ghi ơn một họa
sĩ có công lớn trong lịch sử hội
họa Việt Nam, người đã nhìn
ra cái khả năng kỳ diệu của sơn
mài.
Virginia,7.1993-xem
lại 6.2012
Đinh Cường
Kỷ niệm 19 năm ngày giỗ, 20 tháng 6 năm 1993 - 20 tháng 6 năm 2012
[1] Theo góp
ý của Đặng Tiến :
Nói
về tranh sơn mài, người ta thường
trích dẫn bài tham luận của Tô
Ngọc Vân, cho rằng có từ nhà
Hán ( 206 trước- 220 sau TL). Cần thêm
rằng, thời Hán đã có công
xưởng sản xuất sản phẩm phủ
sơn mài.
Tại Viện Bảo Tàng
Kansas City có trưng bày một cái tráp
tròn có nắp, cao 9 cm, đường kính
20 cm bằng gỗ phủ sơn mài, toàn
bích, đào thấy tại Tchang Cha, Trung
Quốc, được xếp vào thế kỷ
thứ 3 trước TL Ngoài ra còn có
một mảng đàn cầm bị vỡ,
tranh sơn mài rất đẹp, tượng
trưng cảnh săn bắn, tìm thấy ở
một ngôi mộ ở Hồ Nam, thuộc thế
kỷ thứ 4 trước TL.
Bảo Tàng
Hồ Bắc có trưng bày một quan tài
thời Chiến Quốc, được niên
định 433 trước TL, 46X46X184cm, phủ sơn
mài, trang trí hình rồng phượng.
Như vậy kỹ thuật sơn mài phải
có trước thời Hán từ lâu,
có lẽ từ cuối đời Thương.
Alix Aymé, chuyên gia và tác gia về
tranh sơn mài, thời Mỹ Thuật Đông
Dương, còn nhắc là sơn mài
du nhập Việt Nam từ thời Lê Nhân
Tông, 1443.
Các thao tác trên Tài liệu