Ông ấy là ông TA
Ông ấy là ông TA
Lê Minh Hà
Ông ấy làm quen với tôi bằng một câu hỏi còn tệ hơn hỏi tuổi. Ông ấy hỏi tật. “Bạn bị hen à?”. Không biết nếu nghe hỏi thế thì phụ nữ nói chung sẽ thế nào? Tôi không nghe, tôi đọc, một câu hỏi chưa từng ai hỏi, và không trả lời. Nào tôi có biết ông ta là ai. Fb (từ viết tắt đã trở thành quen thuộc của Facebook – chú thích của người đánh máy) như một bãi biển, nơi người nhát như tôi thường không có ý định bắt quen làm thân cùng ai, do không tài nào quen được với khái niệm bạn xã hội, dù chả hiểu sao lại khoái mấy chữ bạn giang hồ.
Fb là nơi tôi giang hồ vặt. Và tôi gặp lại ông ta. Cái ông tên là TA ấy. Ở một truyện ngắn. Một ông già, hình như cũng đã thất thập, xơi ngay cô giúp việc chưa tới đôi mươi trước bàn thờ Phật bà vợ già vẫn ngày ngày ngồi tụng kinh gõ mõ. Một truyện khác: cô gái điếm đêm đêm hóng lên một khung cửa sổ nơi có một tay bụng phệ hóng xuống, chỉ mong có một người đến mua mình, chỉ mong được đi cùng một người khác trước cặp mắt không biết nó ra thế nào của tay đàn ông ấy, người mà cô đã từng yêu, chắc là mê mụ, nên nỗi tỉnh táo mụ mẫm với khao khát trả thù thế này. Những câu chuyện của những ẩn ức dồn nén, từng chi tiết hình ảnh thì Việt đặc, mà từng li ti cảm xúc lại cho thấy một tiếp biến chữ nghĩa của phương tây. Kể đời văn có vài mươi truyện như vậy đem in thành một tập là nên chuyện trong giới giời đày phải viết đấy. Này anh TA, anh còn nhớ mấy truyện này không? Nếu, thì chắc ông ấy sẽ nhớ đấy không phải là lí do thật sự để có một tình thân giữa chúng tôi, tôi muốn tin như thế, ngay từ khi chưa từng gặp mặt.
Mà vì những gì tôi đọc sau đó, của ông TA đó.
Hình như đó là tập hợp những bài ông góp mặt với báo chí nhiều năm? Khi tôi gặp chữ của ông, tôi không biết điều này. Chỉ đơn giản là gặp, rồi thấy.
Thấy lại một thành phố của tuổi nhỏ những năm chiến tranh nhiều lần xa vẫn mong về. Thấy lại một tuổi trẻ tự bức bách mình bởi bao nhiêu ao ước và thất vọng. Thấy lại một kiểu người giữa lòng phố. Hôm qua. Hôm nay. Hoang mang và thiết tha.
Hà Nội không phải chỉ là phố, Hà Nội của thời tôi, còn ngõ, còn xóm, còn những khu tập thể được xây lên như là biểu tượng của một thời nhắm mắt lại mà hân hoan hát “Làn gió thơm hương đêm về quanh khu nhà tôi mới cất xong chiều qua… Ôi xinh đẹp Tổ Quốc của ta…” Nhốn nháo quẩn quanh trong đó là rất nhiều kiểu người, cuộc đời, cách sống. Nhưng có phải là thành phố này hôm nay vẫn được người ta nhắc nhớ, đôi khi với cả niềm phẫn nộ bỉ báng vì nó không còn giống nó như nhiều đời đã thế là bởi cái vị hào hoa thấm trong một lối sống của một kiểu người không? Và chỉ người ở đó mới cảm ra không?
Những trang viết nhiều khi rất ngắn, không kể chuyện gì cao cả bi hùng éo le thời thượng, chỉ như một cái vẫy tay rất nhẹ mời người đọc dừng ở một cảm giác, một nghĩ ngợi, để mà tự mình đi xa hơn tới một diễn trình lớn lao. Là lối sống trong một phức thể không gian thời gian vừa đầy biến động vừa tù đọng, gần là thủ đô, xa là những làng những thành phố, xa nữa là đất nước.
Tôi rất khoái
vì không bị ngợp đi trong những
kiến giải mà một người làm
nghề kiến tạo không gian rất dễ
ụp vào đầu mình. Nói thật,
cứ có một nghề khác mà viết
thì bao giờ chẳng có cái gì
khác với bọn chỉ biết độc
có mỗi trò xóc chữ. Nhưng cái
có thể khác ấy rất dễ trở
thành loè đời và ở bình
diện này tác giả có nhiều cơ
hội để trở thành kẻ thông
minh nhất trong những kẻ ngốc và là
kẻ ngốc nhất giữa những kẻ thông
minh. Nội lực của chữ như thế
không bắt đầu từ những kiến
thức phổ thông ở từng cấp học,
từng ngành nghề, mà nằm trong nội
lực của người viết. Cái gì
làm nên nội lực này, thật khó
nói. Nhưng cảm? Phải, tôi đã
cảm ra qua chữ của ông TA. Khi ông ấy
viết về phố, về những ngôi nhà,
về chuối về cau, về rừng về biển,
thật ra ông ấy viết về ông ấy
đấy. Đọc, cảm như thấy một
lớp người dường như cũ từ
khi mới sinh ra từ lòng phố. Qua cách
họ trìu mến một bậc cầu thang,
một vật dụng, một cách nhấm nháp
nêm nếm, một gì đấy, thấy
như hồn phố được nâng niu. Họ
đích thị là cậu ấm của một
Hà Nội tàn phai vì cách mạng,
chắc không hình dung mình được
sinh ra không phải là để ngăn nhịp
điệu tàn phai đó, mà ngăn
thế quái nào được, nếu
không nói là còn bị đột
bị dập vì thời thế, nhưng đúng
là họ sống như thể để níu
giữ lại hồn phố theo một cách
riêng, của những người cảm ra cái
lịch ở đất này bằng chính
nếp nhà mình.
Một đô thị
thật sự là một đô thị cần
có gì? Nhà và người. Theo một
kiểu nào đó, chắc vậy. Nhưng
người thành thị là người
nào? Ngày dọc ngang trên phố, đêm
nằm mơ gió vườn trước vườn
sau trâu dộng sừng vào gióng chuồng
thở phì phò chó cấm cảu sủa
trăng và gà lục sục giục nhau
lên giọng? Có thể. Nhưng cũng có
thể là một kiểu người khác,
không ngần ngại với gốc rễ nhà
quê của mình bởi đã hoàn
toàn thoải mái giữa lòng phố,
với một cung cách sống hoàn toàn
khác. Mọi đô thị đều cần
cho mình một tầng lớp thị dân
thật sự, và nó chỉ thật sự
không nhem nhuốc khi biên độ sống
của giới trung lưu trí thức của
tầng lớp ấy mở rộng. Với Hà
Nội, mà người ta muốn nghĩ như
là nơi tụ tán của hào hoa, lịch
lãm, thực tế đã vậy ở một
thời nào đó, chưa xa lắm đâu
nhưng hình như khó có cơ hội
quay về.
Lối sống của giới đấy
thật ra không dễ bắt chước. Hào
hoa chứ không hào nhoáng hoa hoè hoa
sói, lịch lãm, là không tan hòa
mà lại dễ giao hòa trong những chằng
chịt các mối giao tình, và tuyệt
nhiên không có gì chung với cái
hách dịch trưởng giả, cũng là
một sắc thái rất Hà Nội, ở
một cơ cảnh khác. Bao nhiêu lâu
nay, khi nghĩ về người ở người
đi tự cái đất
thần kinh này,
tôi tin rằng những yêu và ghét
ngay cả khi chính mắt thấy tai nghe mà
người ta vẫn nói đều bắt đầu
từ sách vở, mà cụ thể gần
là từ
thuở Tự lực văn đoàn, và cả
từ một chút mặc cảm không đâu,
còn không cần thiết nữa. Người
lịch đất này có muốn buông
chữ lịch cũng không nổi, khó nói
lắm, chỉ có thể cảm ra trong cái
kiểu cầu kì đến độ giản
dị tận cùng, trong cái kiểu sống
nhiệt thành mà bình thản, lắm
lúc tưởng bâng quơ, nhưng đó
là một bâng quơ có sự định
hướng tự động của ý thức.
Phải vì ý thức ấy mà họ
cảm ra được hoan
lạc
giữa một thời loạn
lạc.
Hoan lạc, trong một status ông ấy đã
viết thế. Hoan
lạc,
không phải là sung
sướng
nhé, giả dụ ông ấy bảo là
sướng và thi vị hoá cái thành
phố hệt một ngôi làng nằm rìa
thị xã của tôi hôm qua và hôm
nay, tôi sẽ cãi nhau với ông ấy.
Tôi
thấy điều đó khi đọc những
tưởng ơ hờ mà quá chừng mẫn
cảm của ông TA.
Khi ông ấy
giảng cho người đọc hiểu về
mối tương tác giữa con người
với không gian sống, cụ thể là
kiến trúc của một ngôi nhà, một
thành phố, hay là trật tự trước
cau sau chuối ở chốn quê xưa. “Một
nửa ngôi nhà là của mùa thu.”
Ông
TA bảo, đọc xong, “à
ra thế”.
Tính chất con người, đạt tới
một độ nào đó mới đòi
hỏi và mới tạo ra được những
độc đáo trong hình thức kiến
trúc. À ra thế! Nhưng ngược lại,
những độc đáo trong kiến trúc
(ở một cực khác là những biến
dị quái đản trong kiến tạo không
gian) cũng làm thay đổi tính chất
con người. Ông TA ông ấy dùng chữ
tính chất, không phải là phẩm
cách hay từ gì từa tựa thế, rất
trung tính. Bài học này thấm qua
những vu vơ ông ấy viết. Từ chuyện
hai ông hàng xóm cũng gọi là
thuộc giới tinh hoa chửi nhau vì ông
giáo kiến trúc nhà có toilett riêng
rồi nhưng lại thích bê chim đến
hót ở cái ngách cả số nhà
vứt đồ tầm tầm góp phần xác
lập sở hữu tập thể mà ông
giáo âm nhạc rất không may ở
ngay sát cứ phải thưởng thức bằng
mũi. Từ cái mùi rất phi nghệ
thuật ở cái ngách ông ấy gọi
là khu phi quân sự, ông TA nhìn ra
mùi
lịch sử,
khai thối đủ vành. Khỉ thế, tưởng
ông ấy vu vơ cho vui, ông ấy lại
bắt người ta nghĩ. Lưu Quang Vũ từng
cho chúng ta một hình dung về Hà Nội
thời còn vườn
trong phố,
cũ kĩ và sang cả hơn, thời còn
vườn
trong mỗi số nhà, ông
TA cho người đọc hình dung mới về
một Hà Nội khác, oằn mình
sống, với “xóm
phố trong nhà”,
một trăm phần trăm nhờ Cách mạng.
Nhọc nhằn mà không mất vẻ thư
thả, qua cách sống hết mình kĩ
lưỡng của một kiểu người, dọc
ngang bốn trời rồi có lúc về im
lìm ngồi cà phê vỉa hè này
ngắm qua vỉa hè kia, rồi nghĩ ra bao
nhiêu điều bắt người ta ngẫm.
Hay là ngắm sự ngược đời gái
quê nhuộm tóc cho đen lại để
về quê ăn tết, rồi âm thầm
thương phận người chẳng dễ gì
mà sống cho lành. Như thể người
lẩn thẩn.
Tôi chưa có
được cái khả năng lẩn thẩn
ấy, nhưng mà chung tật với ông.
Vì thế và vì một đôi ba
điều nữa mà chúng tôi phải
bỏ Hà Nội ra đi, nhờ thế mà
biết thêm vô khối sự, cũng là
biết thêm mình. Nhưng tôi không
biết gì về ông cả. Cũng nghĩ
không cần. Chữ! Đủ rồi! Nó
cho người ta hiểu về nhau ngay cả ở
những điều muốn giấu.
Tôi thấy mình gần với ông. Rất. Ở những nỗi niềm kia. Nhưng dù sao thì năm ngoái mùa thu. Dễ gì đâu cho những kẻ phương trời.
Tới tận lúc ấy tôi vẫn quen gọi ông là ông TA. Trên FB ông có tên là Duong Ta. Bạn bè có khi đùa gọi ông là Dê. Mãi tôi mới biết vì sao.
Tôi không dám đùa thế. Tôi biết tên ông TA ấy rồi. Tạ Mỹ Dương. Hóa ra, tôi có chung với ông ấy thêm một con đường, là căn phố nhỏ Hà Nội một cách đặc biệt có ngôi nhà tuổi thiếu thời ông, nơi bao nhiêu năm bé con chiều nào tôi cũng phải rồng rắn xếp hàng chờ vào giờ học ở ngôi trường đầu kia phố. Và ngoài ra còn bao nhiêu quanh quẩn vu vơ nữa về những nơi từng qua, về một nơi chốn loay hoay vẫn phải trở về. “Ờ, Hà Nội phố cũ rong rêu, Hà Nội nhà cửa đời mới vừa đẹp vừa dởm rít. Hà Nội sương mù giăng mắc, Hà Nội ngai ngái hương cuối mùa, Hà Nội gió mùa và hanh khô. Hà Nội được đón tiếp quá nhiệt tình khi là khách và Hà Nội cau có hay gây sự, Hà Nội nói khéo và Hà Nội dễ bị nghe chửi. Hà Nội với không khí nhiều mùi vị, đậm đà mặn ngọt chua cay. Hà Nội lờ đờ buồn ngủ, Hà Nội rống lên tự sướng. Hà Nội với “niềm tin và hy vọng”, và còn gì thêm nữa để đủ là một Hà Nội đúng nhất bên cạnh rong rêu?”
Cần một kiểu người
mà người đời bảo là lẩn
thẩn, hình như vậy.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên giới thiệu sách của KTS Tạ Mỹ Dương (phải), ngày 7.10.2016 tại Hà Nội
Berlin 31.1 2016
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu