Phố vẫn gió
Phố vẫn gió
(trích tiểu thuyết sắp xuất bản)
Lê Minh Hà
Ông Ký ngày xưa khôn ngoan không cho vợ bỏ tiền lên tầng cho con cái ở xểnh xang hơn không thể ngờ sau khi ông mất các con ông sẽ tức tối, các cháu ông sẽ tị hiềm nhau. Chỉ vì chật chội và vì cảm giác không công bằng.
Một căn nhà phố cổ Hà Nội (ảnh Wikipedia)
Có vẻ như nhà Thái Hằng thiệt thòi nhất. Nhà nó ở căn phòng ngoài gác hai cửa sổ nhìn xuống sân sau và cửa ra vào đâm thẳng ra cầu thang lộ thiên. Khá rộng nhưng không có một chút riêng tư nào. Nhà thằng Bảo sáu người ra vào đều phải qua nhà Thái Hằng. Lại còn người trong nhà, bà nó, cô chú nó lên xuống thăm nom. Lại còn khách khứa nhà Bảo. Ban ngày ban mặt mẹ con Thái Hằng có mệt mỏi thì chỉ có cách kéo tấm ri đô hình thước thợ quây kín cái giường đôi, che mắt người nhưng không ngăn được tiếng động. Bố nó và em nó thì không cần thế, mùa hè cứ quần đùi áo ba lỗ nằm lăn trên sàn nhà mặc người người qua lại lo mà tránh. Sau này, cứ nghe cái câu tự nhiên như người Hà Nội là không hiểu sao tôi lại hình dung lập tức tới hình thù bố nó nằm cong như dấu hỏi giữa sàn nhà.
Chẳng phải ông bà Thái Hằng con yêu con ghét gì. Chỉ vì bố mẹ nó cái lúc ông bà chia phòng lại đang ở rất xa Hà Nội. Tận trên Tây Bắc. “Đường lên Tây Bắc xa xôi nếp nhà sàn thấp thoáng….” “Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa suối sâu đèo cao…” Cứ như lời mẹ Thái Hằng thỉnh thoảng ôn cố tri tân thì hồi bố mẹ nó đi Tây Bắc miền sơn cước này vẫn y sì đúc cảnh và người như trong những bài hát thời kháng chiến. Đủ chuyện, từ chuyện đổi gà tới chuyện mua cá đồng hạng, to nhỏ như nhau kêu đắt kêu rẻ thì người bán bảo sao chúng mày không đi chợ sớm ai đi chợ sớm thì lấy được cá to. Mẹ Thái Hằng kể rồi cười như không còn nhớ nữa những hắt hiu và bơ vơ cái ngày cầm quyết định của tổ chức rời phố lên mạn ngược. Có một thời thật kì quái. Người ở tứ phương học hành xong thì được phân công công tác tại Hà Nội. Mà chắc gì họ muốn. Tự dưng bị nhấc ra khỏi đất quê, trụ lại ở cái nơi cái gì cũng đắt đỏ hơn, nhà cửa buổi đầu không có, người thì trí thức gầm cầu thang người trí thức nằm bàn trước khi chính thức làm chủ một căn phòng cơ quan chia. Trong khi đó dân Hà Nội cầm tấm bằng đại học lại bị đưa đi lên rừng xuống bể. Bố mẹ Thái Hằng là một trong những người Hà Nội đi xa ấy. Bố nó để không phải đi Tây Bắc đã ép mình lấy mẹ nó, giáo viên cấp hai, hi vọng được theo vợ ở lại Hà Nội. Thường thì cán bộ giáo viên học trung học cao đẳng là do địa phương quản lí, như mẹ nó sẽ do sở Giáo dục Hà Nội phân công công tác, lấy chồng là có cơ hợp lý hóa gia đình. Ai ngờ người ta đưa cả hai vợ chồng giáo học tây tiến. Hồi mới quen nhau, nghe tên chị em nhà nó toàn Thái, Thái Hoàn, Thái Hằng, thằng em đẻ năm Mỹ chơi B52 ở miền Bắc tên là Thái Bình, tôi lại tưởng bố mẹ nó gửi khát khao gì của đời mình vào con cái. Hóa ra tên đệm của cả ba chị em nó chỉ là nhắc nhớ thời bố mẹ nó dạy học tận khu tự trị Thái Mèo. Thái Hoàn là Thái Mèo hoàn Thái Mèo, hết hạn công tác miền núi mà không cách nào chuyển về dạy ở Hà Nội cho gần gụi gia đình. Thái Hằng – Thái Mèo vĩnh viễn, là nỗi tuyệt vọng vì nghĩ mình đi khai hóa miền tây rồi sẽ phải mãi mãi ở đó mà hướng về Hà Nội. Mãi thì rồi nỗi nhớ cũng thành quen, nữa là nơi đất ở. Thằng Thái Bình đẻ giữa Hà Nội sau khi bố mẹ nó chuyển được công tác, mẹ nó định đặt là Thái Hoài cho có trước có sau với cái nơi đã từng đêm nằm năm ở nhưng nghe có vẻ nữ tính quá nên lại thôi, rồi nhân thể hiệp định Paris được kí kết, đại gia đình lại được sống bình thường nên bà nó bảo gọi là Bình. Nghe nó kể sự tích tên chị em nhà nó chả biết nên cười hay mếu.
Đến cái ngày bố mẹ nó đưa con cái về lại Thủ đô thì mọi người trong nhà đã an cư cả rồi. Nhà Bảo chị gái đã về nhà chồng, bố mẹ nó trấn phòng lớn, phòng nhỏ phần nó, phòng ngoài vốn là phòng khách, theo lệnh bà nó giờ phải chia chác lại với nhà Thái Hằng. Mẹ Bảo phận dâu cả, cải tạo công thương nghiệp hãi mà nín lòng theo chồng trao lại nhà làm nơi ở cho cả đại gia đình, vẫn hậm hực từ hồi hoả bình lập lại, nay khôn ngoan thưa trước với bà nó rằng thì là mà, ý cuối là để chú thím với các cháu ở phòng ngoài cho rộng rãi. Chính ra thì mỗi nhà nên ở một phòng nhìn xuống phố và phòng ngoài làm phòng khách cho tất cả. Nhưng nghe lời bàn rất có vẻ đủ lý đủ tình, lại nhớ ở đồng rừng mênh mông rút lại cũng vẫn phải chui vào một mái nhà, ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu, bố Thái Hằng gật. Thế nên thành chuyện. Sau đôi ba ngày cả đại gia đình quấn quýt với nhau, rồi ai về nhà nấy, phòng mình, với nghề mình, đồng lương của mình, nếp sống của mình. Cái bếp ngày xưa thường chỉ có bà Thái Hằng vào ra chỉ bảo người ở thì nay biến thành bếp chung cho bốn gia đình. Nhà cái Thái Hằng ăn ngủ trong tiếng chân đi giọng nói ánh mắt của toàn thể gia đình thằng Bảo và khách khứa của nhà đó. Chán đời nhất là 20.11. Cả hai nhà đều lắm khách. Khách của nhà Thái Hằng luôn phải mất tự nhiên khi kính biếu chút gì cho ông thầy bà thầy bố mẹ Thái Hằng. Những đụng chạm chân cẳng nơi vòi nước, những nhòm nhỏ vào bát canh đĩa cá đĩa thịt của nhà nhau bắt đầu giữa hai gia đình trên gác, đúng hơn là giữa hai bà con dâu rồi lan ra giữa bầy con. Nói thật, nghe hai bà chị em dâu mẹ Bảo với mẹ Thái Hằng đánh võ mồm với nhau bằng ngôn ngữ của nhà gia giáo vô cùng thú vị. Chỉ hơi choáng khi họ lẩm bẩm văng tứ tung một mình. Nhưng đến lúc họ cất cao giọng đối đáp và độc thoại cốt cho cả nhà kia nghe thì tiếng lầm bầm trở thành cực kì có lí, thành một bản phối hợp với tai người thường tích cực hơn những giai điệu cổ điển lúc vọng từ phòng chú Thái Hằng lên lúc vẳng từ phòng thằng Bảo ra. Cứ thử hình dung mà xem: một giọng nữ cao giảng giải đạo đức theo kiểu ai nghe thì nghe như truyền giáo trên nền một giọng nữ khác trầm trầm đúng một tông đồ điên đồ khùng điên điên khùng khùng điên…Hay phết. Những cuộc cãi cọ kiểu này có khi chính là tiền thân rap của Việt Nam.
Ở khu tập thể nhà tôi sống thì khác. Chỉ cần một nhà ra giọng là lập tức bão nổi lên rồi khắp sân. Cái kiểu chửi nhau cho chính mình nghe ở nhà Thái Hằng trở thành vô cùng nhàm tẻ nếu so sánh với những cuộc đụng độ ở khu tôi. Trong khi mẹ nó với mẹ thằng Bảo cãi nhau một cách công khai và có giáo dục ở trên gác, hai ông bố và mấy anh chị em của hai nhà toàn im lặng, việc ai nấy làm, tự tách mình, bằng mọi cách để mình như không tồn tại. Ông chú độc thân và bà cô goá chồng chẳng biết có nghe thấy hết không, nhưng không bao giờ can thiệp. Có mỗi một lần đâu như hai bà lên giọng thế nào đó, bà cái Thái Hằng rời cái sập ở phòng ngoài tầng dưới đi vào, vịn cầu thang nói vóng lên. Thái Hằng kể cho tôi nghe dọc đường đi học về. “Bà tao nói đúng một câu nhá. Một câu. “Các chị đã định nói to thì to hẳn tôi nghe với. Chứ tiếng được tiếng mất tôi già cả nghe không thấu hết.” Bố tao với bố thằng Bảo lần đâu tiên ra giọng với hai bà. “Nghe mợ nói chưa”. Mẹ tao với mẹ thằng Bảo tắt đài lập tức.” Vừa kể Thái Hằng vừa cười phì phì. Nó vốn đanh đá, cứ nghe mẹ bị bà bác mát mẻ hàng ngày nó điên lắm. Nhưng đáo để như nó hay mềm tính như chị Thái Hoàn nhà nó thì cũng thế mà thôi, đố dám mở miệng chen ngang cuộc cãi vã. Ở khu tôi ý à, chỉ cần một bà bắt nạt con một bà hay bọn ranh cà nhau ở vòi nước công cộng xem. Dại mặt ngay. Vì nhiều đứa trẻ cùng lứa với tôi rất can đảm, chửi lại ngay lập tức, bà bà tôi tôi mày tao chí tớ ngay lập tức. Rồi mẹ nó sẽ nhào ra, rồi con cái hai nhà giáp lá cà. Huỵch. Ối. Tổ sư cha con đĩ đánh con bà tiên sư bố con đĩ con tụt quần bà. Chát. Một cái xô lăng ra, nước bắn tung toé. Này con con bà chúng mày này. Choang. Xoảng. Quần áo đang giặt dở bay phần phật trong tay bọn trẻ rồi cùng hạ xuống cống. Vòng người xung quanh lúc tiến gần lúc giãn rộng tuỳ theo cường độ xung đột giữa hai phe. Choang choang. Xoảng xoảng. Huỵch. Bốp. Tiếng cười như phá làm nền cho cuộc thét gào. Chỉ tới khi hai ông chủ hai nhà từ quán chè chén đầu cổng khu tập thể hộc tốc chạy về túm tóc vợ bạt tai con thì cơn cuồng nộ được nuôi dưỡng bởi sự hể hả thỏa thuê của những người chứng kiến mới xẹp. Khi mà đời sống dẫu đã hết đạn bom của Mỹ nhưng từ cái loa truyền thanh nói có giờ lại vang vang toàn chiến ca “đoàn quân lại đi đi về biên giới cũng từ biên giới về…”, những cuộc đánh nhau chửi nhau đó thật sự là nghệ thuật giải trí đỉnh cao cho dân tình trong khu tập thể, không so sánh được với buổi phát thanh ca nhạc theo yêu cầu thính giả sáng chủ nhật nhưng cũng tương đương với chương trình dân ca và chèo lúc giữa trưa hay chương trình tiếng thơ đêm thứ bảy lúc đã buồn ngủ díp cả mắt. Nên sau đó sẽ có những bình luận kiểu “cái Phương oắt xà lai mà đánh nhanh đánh gọn mẹ nó chửi nhạt bà gì vợ ông Khoả chửi hay hơn y như bà già nhà quê mất gà.” Bà chửi nhạt chỉ mấy chiều sau lên một cơn đau bụng khủng khiếp rồi chết vì viêm tụy và bà vợ ông Khoả sẽ là người ôm người ốm ngồi trên một cái xích lô tã tới bệnh viện trong khi bố nó cuống cuồng guồng cái xe đạp cởi truồng không phanh không chuông theo sau. Cũng chính bà vợ ông Khoả từ bệnh viện về bệu bạo báo tin cho chị em cái Phương rằng mẹ chúng nó chết rồi rồi lục chạn lấy đôi đũa sạch đẹp vớ con dao gọt thành đôi đũa bông cắm trên bàn thờ người chết mà hàng xóm vừa lập giúp. Ầm ĩ nhưng không ấm áp sau đó như thế này là những cuộc cãi nhau trong số nhà của Béo, giữa con riêng của bác Thiều Như và con riêng của bác Khánh. Nó bùng nổ bất ngờ tới nỗi lần đầu tiên tôi không kịp quay đầu xe tránh mặt. Dù không mê anh Phan để cưa không đổ thì ẩy cho đổ, tôi cũng không hề muốn chứng kiến một chuyện mà sau đó anh ấy sẽ phải xấu hổ dù không có lỗi. Nói chung trí thức thường thế. Họ luôn thấy mất mặt vì không kiểm soát được mình, khiến họ giống như những người họ gần gũi yêu mến nể nang nhưng không thực lòng kính trọng. Trong số nhà của Béo, nơi tập trung toàn những người có chữ nghĩa vai vế của xã hội, chỉ có duy nhất một người nói tục. Là bác Nắng cần vụ của gia đình bác Thiều Như. Chửi thằng cháu đích tôn tha từ quê ra Hà Nội đã đành, bác ấy hay văng tục còn vì tật nói nhịu. Cứ vui là văng. Cả với ông chủ bà chủ. Bác Thiều Như nghễnh ngãng coi như không nghe không thấy không đỏ mặt. Còn bác Khánh thì rất lạ, nghe bà giúp việc đi chợ mua được thứ ưng ý về cơm nước vui vẻ kể lể với mình, bác vẫn hoàn toàn nghiêm trang, chỉ đôi mắt vẫn như cười, vẫn như mọi lúc.
Một khu tập thể Hà Nội (ảnh Internet)
Bác Nắng và thằng cháu đích tôn cần phải chuyển về khu tập thể của tôi. Với khả năng nói tục trình cao thế, đảm bảo bác sẽ được yêu mến kính trọng và bác sẽ vô cùng thoả mãn. Thằng Khương cũng vậy. Nó sẽ có bạn, có môi trường cạnh tranh tự nhiên, tha hồ đi rông, đánh đấm. Tôi tin là hai bà cháu sẽ thoải mái hơn ở với gia đình bác Thiều Như dù mọi căn phòng ở khu tập thể đều không đẹp bằng căn phòng hai bà cháu bác ở, chỉ tám mét thôi nhưng là phòng trong biệt thự, bếp núc riêng, đường gờ bờ tường khung cửa thuộc về một đẳng cấp kiến trúc khác. Nhưng nếu như thế, nếu bác Nắng và thằng Khương trở thành hàng xóm nhà tôi thay vì nhà Béo thì sẽ không có chuyện sau này cư dân ở đó vừa ghen tị vừa ngại, nói toẹt ra là sợ thằng Khương. Rồi sẽ đến một ngày Khương trở thành ông chủ nhớn trong số nhà toàn những vai vế thiên hạ ấy. Nhưng đấy là khá lâu sau khi bác Nắng bán lại cho chủ cũ căn phòng nhỏ cửa thông ra gầm cầu thang hai bà cháu từng ở để họ toàn quyền với cả tầng dưới ngôi biệt thự mà chia nhau cho dễ. Sau không biết bao lần gây chiến và đàm phán căng thẳng, vì nó lan rộng, chi phối cả những thành phần không liên quan trong gia đình bác Thiều Như và bác Khánh.
Một cặp vợ chồng thật kì. Vì đã nghễnh ngãng, bác Thiều Như chẳng mấy khi câu nọ câu kia với hàng xóm. Đến chơi với Béo, tôi luôn thấy một bà già dật dờ dưới sân. Thời gian đã xoá đi nhiều điều và trong kí ức tôi bác Thiều Như luôn hiện hình với kiểu chắp tay sau đít đầy quan dạng, tóc rụng gần hết vẫn chia đôi tết thành hai bím như đuôi chuột rồi cuộn chung kẹp hờ thành cái vòng sau gáy. Trừ đôi ba ngày nóng phát rồ, lúc nào bác Thiều Như cũng mặc một bộ đồ vải mỏng màu sáng và khoác hờ một cái áo len. Trước khi đất nước thống nhất, trước khi những thứ vải mỏng tang đẹp thôi là đẹp nhưng giặt đôi ba lần là rách như vải kate được buôn từ Nam ra Bắc, làm gì có chuyện đàn bà mặc đồ bộ ở Hà Nội, thế nên nhìn một bà già đi guốc mộc mặc quần trắng lờ vờ dưới sân, thấy là lạ. Bà áo len xù xù ngay cả lúc thiên hạ vẫn phong phanh nhưng nom không thấy ngốt. Bà toát ra một vẻ lạnh lẽo làm giảm nhiệt tất cả khiến không mấy ai dám to tiếng lúc ở quanh quanh đó, dù là bà nghễnh ngãng. Béo kể tôi mới biết bà già này làm to thế, là thủ trưởng của cả bố Béo một thời. Chắc cái vẻ quan dạng của bà và vẻ biết điều của hàng xóm là quán tính cư xử từ thời nảo thời nào.
Bác Khánh biết điều với bà vợ hay ngược lại, tôi không biết. Chỉ thấy hai bác chẳng bao giờ nói chuyện với nhau trước mặt mọi người. Luôn luôn chỉ có một người ríu rít cùng hai ông bà, là chị Phương con chung của bác Thiều Như và bác Khánh. Chị lúc đó mười bảy tuổi, sắp thi đại học. Rồi sau này chị sẽ đóng một vai trò quan trọng trong gia đình: thiết lập một khu phi quân sự ở tầng dưới, nơi mà anh chị của chị đều lăm le chiếm lĩnh khi có thể. Y như hai bờ sông Bến Hải của cả đất nước một thời. Nhưng lúc này thì ở bà luôn có một vẻ nửa tỉnh nửa điếc, bảo an nhiên cũng được, mà bảo ơ hờ cũng được. Thật thì bác được quyền cư xử thế. Lúc đó cái bìa Tôn Đản mà bác Thiều Như và bố Béo có to chuyện lắm. Nó đảm bảo cho người ta quyền sống, sau này thì tôi biết, y như ở một nước phương tây phát triển, có khi còn hơn vì biên độ miễn phí của nó. Chủ nghĩa xã hội mà các nước như nước mình xây dựng hơn nửa thế kỉ nay sẽ không thành một cái gì xa vời, khó tưởng tượng nếu ta so sánh nó với chủ nghĩa tư bản.
Bà Thái Hằng trạc tuổi
bác Thiều Như nhưng khác hẳn bác
ấy. Ở bà có cái tinh tường
của một bà chủ chứ không phải
là bà thủ trưởng cao cấp ở
một cơ quan nào. Mà vẻ ngoài bà
cũng khác. Không bao giờ tôi thấy
bà Thái Hằng mặc một cái áo
kiểu nữ cán bộ, cắt dáng đuồn
đuỗn, cổ cài khuy kín mít và
hai bên vạt là hai cái túi to đùng.
Bà già ngồi ở nhà nhưng ăn
chơi hiếm thấy. Áo cánh phin nõn
hay lụa tơ tằm bà toàn tự cắt,
mẹ Thái Hằng xung phong may nhưng bà
chê đường may bằng máy nhìn
cứng và bà tự khâu tay, gấu áo
khâu giấu mũi không thấy cả điểm
kim dũi. Mùa đông bà mặc áo
bông trần, gấm đã mất đi độ
óng ánh nhưng vẫn thật mặt. Quần
lụa hay láng buông chùng kín gót.
Mái tóc bà dợn sóng, búi lộn
ơ hờ. Không có cái chiều đông
đi chợ với Thái Hằng ra tới cửa
bị bà gọi giật dặn mua cho bà
quả chấp thì tôi không biết bà
điệu một cách kĩ càng thế.
“Mày tưởng bà tao mua chấp gội
đầu à? Gội đầu thì bảo
người ta cắt cho một miếng thôi
chứ mấy. Bà tao tích chấp để
uốn tóc đấy?” “?” Mắt
tôi chữ A thay cho dấu hỏi chỉ gõ
được ở đây. “Mày tưởng
nhà tao nhiều người tóc quăn là
thừa hưởng bà tao à? Từ ông
tao đấy. Bà tao tóc thẳng, tóc
người ta bảo là tóc mây, sợi
to. Nhưng tóc bà tao luôn dợn sóng
là vì bà dùng chấp làm cho
cứng mái lại, bà bảo từ hồi
trẻ bà đã chải thế. Buồn
cười. Cứ bảo tóc quăn thì
khổ mà đàn bà con gái ai cũng
phải làm cho tóc quăn quăn mới
yên.”
Xoắn tít thì chẳng đẹp.
Đàn bà không đẹp mèng ra
cũng khổ cái khổ đàn bà
xấu thì không có quà như đàn
bà văn sĩ nào giật tít đấy.
Tóc bà Thái Hằng chỉ dợn sóng.
Kiểu tóc đó làm cho bà Thái
Hằng có một vẻ đẹp vừa thân
thiện vừa xa cách. Nó là vẻ
đẹp mà chỉ những phụ nữ
trung lưu sinh ra và lớn lên ở Hà
Nội từ trước hoà bình lập
lại năm 54 mới có được và
cũng chỉ họ mới có thể biểu
hiện ra tự nhiên như thế qua tất
cả những gian nan thăng trầm của thành
phố này ở cái thời cả nước
hết giục nhau đi khai phá miền tây
lại thúc xẻ dọc Trường Sơn.
Thật là khó phân tích được
vẻ đẹp đó. Nhưng dễ dàng
cảm ra. Nó ẩn hiện ở bông hoa
thêu rơi bên tà áo, ở cách
chải tóc, ở dăm ba phân dài hơn
của ống quần dăm ba phân ngắn hơn
của ống tay áo, ở cách nhặt mớ
rau, cách bày con cá rán, cách làm
một nồi thịt kho tàu, cách lo cơm
nước hàng ngày ngay trong thời bao cấp
nhọc nhằn vẫn phải đủ miếng
mặn miếng nhạt tuỳ thời tiết,
cách cầm đũa và miếng cơm,
cách đi đứng nói năng. Bà
Thái Hằng có đầy đủ những
nét vẻ ấy, làm tôi bị quyến
rũ, cũng làm tôi sờ sợ. Bác
Thiều Như và những người đàn
bà già trẻ trong khu tôi chưa bao giờ
làm tôi có cảm giác này. Trừ
một người thế nào cũng sẽ
chiếm một đoạn trong ghi chép này
của tôi mà lúc trẻ con tôi đẩy
bà tụt luôn vào đám các
bà các cô hàng xóm sống với
nhau vừa thân thiết vừa chán ghét.
Nói chung, quan hệ dân cư trong một khu
tập thể của một cơ quan luôn luôn
như thế. Nó là một cái làng
mới được lập bởi một cơ
chế mới, mà người làng vừa
muốn thành người ở phố thật
vừa không muốn từ bỏ những thói
quen ăn ở mình mang theo từ cái làng
riêng tít mù tắp của mình. Nó
xa lạ với cách sống của bà con
hàng phố, cũng khác với cách vô
số cư dân sống ở những khu cao
tầng thành quả của ngành xây
dựng thời bao cấp về sau như Nguyễn
Công Trứ, Kim Liên, Giảng Võ, Trung
Tự, Thành Công. Ở đó, người
ta thành hàng xóm nhưng không nhất
thiết là đồng nghiệp. Đỡ
được bao nhiêu thời gian để
vừa gây sự vừa chiều lòng nhau
vì những chuyện đã đang và
sẽ xảy ra tại nơi làm việc như
ở khu tập thể của tôi. Nhưng phải
rất nhiều năm sau, lớn lên, rời
nơi ấy mãi mãi tôi mới hiểu
ra điều ấy. Chắc không ít người
như vậy. Nếu mà ngay từ buổi đầu
chúng tôi đã khôn như bây
giờ tôi đang thì làm sao chúng
tôi có thể có cùng nhau bao niềm
vui con trẻ như thế, vô tư lự cả
lúc ục nhau, đồng thuận làm
những điều ngu ngốc chỉ được
tha thứ nhờ còn được coi là
ôn con.
Loa phường (ảnh Đỗ Quang Nghĩa)
So với bọn trẻ con bây
giờ thì chúng tôi lúc còn bị
gọi là ôn con là nhãi ranh ngây
ngô hơn rất nhiều. Làm sao chúng
tôi hình dung được đến một
ngày nhà nhà chật cứng thiết
bị điện và điện tử, trẻ
con thờ ơ bấm chuyển kênh ti vi rồi
xoay qua chơi game trên đủ kiểu máy
móc xinh xẻo như đồ chơi đắt
ngang với một gia tài thời ông bà
chúng ngày xưa và tệ nhất là
những thứ đồ đấy liên tục
lên đời còn bọn trẻ sẽ chỉ
hào hứng coi như mình được
đổi đời nếu có máy mới.
Làm sao chúng tôi hình dung được
là trẻ con quyền to thế. Niềm vui của
chúng tôi khi bé nhiều khi bắt đầu
từ chuyện người lớn quên không
thực thi quyền của mình. Thường
xuyên và đơn giản, chúng tôi
vui với cái xe đạp một đứa
được ông bố dễ tính cho mượn
một lúc buổi trưa cuối tuần, khi
ông ăn xong ợ xong vỗ bụng lên
giường đánh một giấc khò
xuỳ đến xế chiều, không cần
biết thùng gạo vơi dần làm vợ
cứ từng lúc lại thấy nỗi lo cắn
cho bụng dạ nhói một cái. Một
cái kẹo Hải Hà, một hòn bi
cái, một con quay tự xoáy, một mẩu
bút chì ngoại mòn còn bằng
ngón tay cũng đủ để hối lộ
đứa đang vênh váo với cái
xe đạp bố cho mượn với điều
kiện lau phải sạch bóng từng cái
nan hoa. Đứa nào hối lộ thành
công sẽ run run nhận lấy ghi đông
xe từ tay bạn, trèo lên đạp một
vòng, đít nhấp nha nhấp nhổm
không với được tới cái yên
xe. Còn cả lũ à à chạy theo,
mong chờ lòng tốt bất thần khai mở
ở đứa bạn. Chỉ có một đứa
bao giờ cũng đứng ở góc sân
nhìn theo thèm thuồng. Thằng Xuân. Nó
biết thừa là chẳng bao giờ đến
lượt. Tội tại bố mẹ nó. Ba
nó, ông Sở, dân miền Nam tập kết
có một cái xe đạp nam màu xanh
ngọc lúc nào cũng bóng loáng,
đầy đủ chuông phanh và cả
đèn. Mẹ nó mói đâu ra mấy
cái cành hoa nhựa xanh xanh đỏ đỏ
buộc loằng ngoằng trước tay lái
xe, lại còn trang bị thêm cho ông
chồng một cái radio chạy pin chẳng
biết cũ hay mới, bọc ngoài một
cái túi vải tự khâu theo kiểu
xà cột. Cứ nghe thấy tin chiến sự
hay dân ca và nhạc cổ truyền rõ
tiếng dần ngoài cầu thang là cả
tầng biết ông Sở đang nâng niu bê
cái xe lên gác. Nhìn mẹ nó
hôm nào có việc đi đâu lệch
người trên cái xe của chồng, bên
hông lủng lẳng cái túi vải đựng
âm thanh lúc nào cũng rè rè,
cực tức mắt. Không bao giờ ba thằng
Xuân cho nó mượn xe mặc dù tuần
nào nó cũng phải cùng mẹ đánh
bóng mấy cái nan hoa. Cái mốt ba mẹ
nó theo đuổi hồi ở nơi sơ tán
chúng tôi thấy đầy. Ban đêm
mùa hè ngồi trên dốc bến hóng
mấy cái thuyền gọi cá dưới
sông mà thấy đường đê
loang loáng ánh đèn, rồi tiếng
đài xa xa gần gần to to nhỏ nhỏ,
biết ngay ông cán bộ xã đang đi
đâu có việc. Cho đến ngày
thống nhất đất nước, cả nhà
nó về Nam, ba mẹ thằng Xuân vẫn
trung thành với cái mốt buồn cười
ấy. Ít ngày sau, đôi ba người
từ trong Nam ra thăm lại khu tập thể kể
chuyện ba nó không đưa vợ con vào
Sài Gòn mà về quê, nhà nó
quay ra làm ruộng, mẹ nó phải gánh
gồng còn ba nó thì làm công
tác ở xã, tự dưng tôi cứ
nghĩ không biết ba mẹ nó có thay
đổi theo bà con trong đó không
hay vẫn một mình một mốt. Tự
dưng tôi thương thương thằng
Xuân, cái tình thương mà ngày
xưa vì ghét bố mẹ nó chúng
tôi chưa bao giờ biết là có để
dành cho nó. Tôi sẽ càng thương
nó khi tôi biết về con đường
ba nó đã đi từ Nam ra Bắc và
ngược lại, sau hai mốt năm trời,
trọn vẹn một cuộc chiến tranh. Hóa
ra nhà thằng Xuân họ hàng với
nhà cái Tố Linh lớp trưởng lớp
tôi. Ba Tố Linh, sẽ là đại sứ
ở một nước Đông Âu mới
là ông Sở thật. Ba nó nhà khá,
từ Tam Kì vào Huế học rồi về
quê tham gia kháng chiến. Lúc có tên
trong danh sách tập kết, ông nội Tố
Linh sợ con xa nhà thì khổ nên ba nó
cũng chần chừ. Ba thằng Xuân ở giữ
trâu cho nhà nội Tố Linh, khoẻ và
chăm, hiền và cục, chữ nghĩa nhờ
kháng chiến được gần đầy
lá mít. Ông nội Tố Linh thương,
cho đội tên con trai đi tập kết.
Thế là thành ông Sở. Chuyện
bỗng dưng buồn cười muốn khóc
là ba Tố Linh chần chừ chán lại
muốn đi, lấy tên mới là Khanh
xuống tàu tập kết. Lúc thôi
chức vụ phó vụ trưởng gì
đó ở bộ Ngoại giao chuẩn bị
đưa vợ con đi làm chân đại
sứ ở một nước khác, biết
nhà tôi ở đó, ba Tố Linh hỉ
hả kể chuyện ông từ Sở biến
thành Khanh. Nghe, tôi vừa thương thằng
Xuân lúc đó đã về quê
gánh gồng theo ba mẹ, vừa ghen tị rồi
đâm ghét ghét cả ba cả con cái
Tố Linh. Khi đó, trước mặt chúng
tôi là một kì thi đại học
trượt nhiều hơn đỗ, vì Hà
Nội và nói chung cả nước lúc
bấy giờ đâu có nhiều trường
đại học từ quốc gia lan ra hàng
tỉnh như bây giờ, thật khó để
chống lại nhu cầu vừa làm thân
vừa tị hiềm với một đứa bạn
số phận tuyệt vời như số phận
Tố Linh: con một, đời sống gia đình
chẳng có gì giống với đời
sống gia đình công nhân viên chức
lèng tèng và cái chính là
nó sẽ học đại học ở nước
ngoài không cần cắm cổ học cho
kì đỗ như chúng tôi.
Chú Sở vì nhớ mùi đất đai trâu bò hay vì muốn vẻ vang ở quê nhà trong một tư thế mới mà lại quyết định mang vợ con về làng ngay trong năm 1975 thay vì làm người nhà nước nhận chức nhận nhà ở một thành phố nào đó trong Nam, hồi đó thì ngon xơi lắm với người đi tập kết trở về bất kể trình độ lùn tới đâu? Cả khu tập thể xì xào và bao nhiêu cảm thương dồn hết vào mẹ con thằng Xuân khi mẹ con nó ra Bắc thăm bên ngoại rồi tiện thể tạt về thăm hàng xóm láng giềng. Mẹ nó gầy sắt, đen đủi trong bộ quần áo màu lòng tôm vải nom mỏng mà cứng cứng. Thằng Xuân mười bốn tuổi, cao ngòng nhưng mắt nó tối và rụt rè còn hơn cả ngày xưa. Quà mẹ con nó mang ra là mấy miếng đường phổi ăn thơm thơm là lạ. Xuân chẳng nói gì và cả lũ chúng tôi đâm bối rối, tụt hết hứng hỏi chuyện nó về miền Nam vừa giải phóng, miền đất mà phải rất lâu sau người ta mới có thể vào ra bình thường không cần giấy giới thiệu của cơ quan hay công an phường. Tôi chỉ thôi thương Xuân từ dăm năm trở lại đây, khi biết nó đã trở thành chánh văn phòng tỉnh ủy tỉnh quê nó, đâu như vừa chòi lên phó chủ tịch tỉnh kiêm phó hay bí thư gì đó tỉnh ủy. Dù gì thì cũng con dân tập kết, học dốt nhưng về làng ba mẹ nó ốp học nốt phổ thông, rồi thì làm công tác Đoàn, loay hoay thế nào cái thời chúng tôi lệch người xin chuyển nơi công tác từ nông thôn về thành thị, xong rồi chỉ còn sức đi làm ở cơ quan rồi về nhà làm bố mẹ tử tế của từ một cho tới hai con thì thằng Xuân còn ra Hà Nội học trường Đảng cao cấp mới khiếp. Làm bí thư huyện đoàn, rồi phó chủ tịch huyện, rồi bí thư tỉnh đoàn, rồi gác cửa cuối cùng của tỉnh ủy, rồi phó chủ phó bí, oách phết. Và cái chính là nó không thể nghèo. Những như tôi bò qua xứ người làm công dân nước tư bản thì khoản đất đai nhà cửa xe cộ tiền bạc cũng ăn nhằm gì với người như nó ở nhà. Ở cái vị trí đội bằng đầu đạp bằng đít khinh khỉnh ngó ngang này chắc nó phải khôn phải thạo đời lắm lắm. Nhưng cái ngày tôi gặp lại nó sau khi anh em nó theo ba mẹ về quê thì Xuân đã mất hết chất Hà Nội trông còn cả tẩm hơn cả mấy đứa trẻ nhà quê vùng sâu vùng xa. Nên cũng không biết thằng Xuân đã đi được xe đạp chưa. Hồi còn ở khu tập thể, chẳng đứa nào cho nó tập xe ké. Xe nhà thì ba mẹ nó giữ y như nông dân giữ đất. Khác mọi nhà, đi đâu về là ba mẹ nó bê tọt xe vào phòng, không bao giờ dựng ở hành lang chung. Thế nên cái lúc chúng tôi ưa rồng rắn lên mây qua mọi tầng tìm cách tháo van xe các nhà, không bao giờ chúng tôi có cơ hội làm cho lốp xe nhà nó xịt.
Cái trò đó giúp bọn trẻ
con trong khu tập thể đi qua bao nhiêu buổi
trưa buồn chán, chẳng còn biết
làm gì ngoài mong ước có một
hai hào kéo nhau lên Hàng Vôi hay
Tràng Tiền ăn kem que bất kể mùa
nóng hay mùa lạnh. Ăn kem mùa nóng
ngon, nhưng kem ngon nhất phải là vào
những ngày hanh hao. Lạ thế. Khi mà
hành lang vắng thông thống gió rải
đồng lang thang từ ngoại ô vào
phố và gió lúc đó chưa
nặng mùi nhà vệ sinh thiếu nước
nằm ở hai đầu hành lang. Heo may. Mùa
thu. Đôi ba đóa sen còn sót lại
trên đầm, mùi hoa, mùi lá sen
rạc dần đi từ ngoại ô theo heo may
vào phố không biết sao làm cho lòng
dạ con trẻ cứ nao nao, và sau này,
khi lớn lên tôi còn luôn cảm
giác như ân hận, về một điều
gì đó mãi vẫn chần chừ
chưa kịp làm. Điều gì đó
cứ len lỏi bên cạnh rất nhiều
điều có hình thù rõ ràng
mà ta ngại ngần rồi buông đó,
nhưng nếu việc qua rồi thì chặc
lưỡi là xong nỗi tiếc. Một trong
những sự làm tôi tiếc nuối ấy
tôi im im không bao giờ hé miệng với
Thái Hằng dù kiểu gì thì nó
cũng biết. Đấy là chuyện tôi
để ông chú nó đứng góc
phố chờ tôi mấy tiếng đồng
hồ. Một lần duy nhất.
Rồi hai nhăm năm sau chúng tôi mới
gặp lại nhau.
Phố Trần Xuân Soạn, Hà Nội (ảnh Đỗ Quang Nghĩa)
Chú Thái Hằng thật ra hơn bọn tôi có bảy tám tuổi gì đó. Nhưng ở cái tuổi còn đang học phổ thông thì một người đã xong đại học ra đi làm với bọn tôi là già rồi. Con gái tôi còn gọi là chị, con trai tôn vinh là chú cho an toàn. Đừng nói đó còn là chú của bạn.
Tôi gặp chú Khôi lúc mười bốn tuổi, vừa vào cấp ba, ngồi cùng bàn với Thái Hằng và biết nhà nó cách nhà mình có mấy vòng quay bánh xe đạp. Lần đầu tới nhà nó, đi qua phòng ngoài bà nó là người tôi chạm mặt đầu tiên, người thứ hai tôi thấy chính là chú Khôi. Ông chú hai mốt tuổi đang chờ phân công công tác mà có hẳn một phòng riêng tầng dưới, cửa sổ nhìn ra phố và thông với phòng bà nội nó trấn ngự. Để con trai út tự do, bà đóng chặt cửa giữa hai phòng, gọi người đục tường làm một cái cửa ra sân nằm chênh chếch cầu thang lộ thiên thông lên phòng nhà Thái Hằng. Lần nào tới nhà bạn tôi cũng phải kín đáo nhìn đống guốc dép rất mốt để bừa bãi trước thềm phòng chú nó. Vào ra nơi đấy là những con gái con trai trẻ trung bạn phổ thông bạn đại học của chú Khôi.
Ông chú học tiếng Anh ở đại học ngoại ngữ, hoàn toàn không thời thượng so với tiếng Nga chia động từ toàn ôm em ốp ép đã đi hết đà phổ cập ở các trường phổ thông ngoài Bắc. Nhưng có vẻ dân tiếng Anh khác dân tiếng Nga nhiều. Thiếu cái tự tin có thể thành phởn chí của dân tiếng Nga vốn nhiều cơ hội xuất ngoại sang liên bang xô viết gồm vô khối các nước cộng hoả hơn ta ở chỗ tiếng Nga không còn là ngoại ngữ mà là tiếng chính thống, dân tiếng Anh trầm hơn, nhưng câu chuyện của họ nghe chừng tân tiến hơn. Nhạc họ nghe không phải là Triệu triệu bông hồng đang đổ lên thành phố xơ xác thời hậu chiến một niềm tin sũng sĩnh vào tình yêu và ao ước cháy bỏng có Ái Vân hay ít nhất là quần đỏ áo trắng Ái Vân mặc tung tăng trên sân khấu Nhà Hát Lớn. Giữa thành phố nhọc nhằn và đồng bóng trong những thứ cảm xúc trên mây như thế, thứ nhạc mà chú Thái Hằng cùng bạn bè nghe chiều chiều trong căn phòng dưới gác nhà nó khuấy động theo một kiểu khác. Demis Roussos xao xuyến và vẫy gọi. Da diết Bee Gees. Thắt gan thắt ruột Simon & Garfunkel. Và …
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu