Thơ
thường
quán
Của một rách nát
cũ
Đèo ải bíu bám,
trì dựa
Chìm lậm rừng lam lang,
quạ mỏ gõ hoãi
Lệch bìa, lá
trắng trích
Trên mái nhà tuyết
tùng
Bao la là bao nhiêu hỡi U Tịch?
Chiều tối tận, một lổ hổng
chuyến xe đèn quét
Mắt trừng
của đỏ lửa, của đi cùng độ
âm, tầm tầm tốc độ
Của
chưa tới, của phủ phục nhà quán
lạc đường
Của một rách
nát cũ
Nằm trong một chăn mền
hình hài cọp, báo, những đầu
nai
Thu
hoạch
Sắc
vang, khu trũng thu hoạch, mùa vàng
Dionysus
Địa mạc Bacchae mặc niệm
lưỡi lời
Tận thu, lật trở thân
thể, trái khô quíu đỏ, cố
xứ
Ngựa hở vó gió, bể muối
đắm dạt, câu cú di lụy
Chạy
từ triền đói này qua vực khát
tới
Tâm tiễn không bắn kịp
Đàn thú lang bạt xứ gọi vô
tận xứ
Nhìn vào những mái
nhà
Lửa sau vách kiếng
Biết
chẳng bao giờ về ngồi
Hồ rừng
Bi Tráng Hy Lạp bên kia địa giới
Đứng
ngậm trong đêm tối tuyết run
Trước
một xác nai lỡ
Một vệt băng,
trầy.
Buổi chiều [tự do]
"Hãy nhớ ta!", Napoleon nói, chiếc
nón nỉ cong mép màu lục trong tay,
lời nhắn vừa nói , toan tính đào
thoát qua Mỹ Châu đã gạt qua,
người tùy viên đã nhận lấy
khẩu súng săn.
Những con heo rừng bây giờ tự do trong rừng. Những quân
đoàn tự do dưới sâu những
cánh đồng cỏ. Người viết sử có một buổi chiều tự do thôi
không cần viết tiếp một nửa
chữ.
Chiếc ly thủy tinh cắt, chiếc
đầu ngòi viết anh vũ ngửi một
chút gió.
A ! Biển. Biển cả.
thường
quán
1.
2013
|