Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Trường ca Chân đất

Trường ca Chân đất

- Thanh Thảo — published 13/01/2015 00:35, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:20


Trường ca Chân đất


Thanh Thảo



thanhthao Trường ca Chân đất là trường ca thứ mười của Thanh Thảo, xuất bản năm 2012, được giải thưởng Hội Nhà văn năm ấy (đây là lần thứ hai ông được giải thưởng này, lần trước, năm 1979, là cho tập Dấu chân qua trảng cỏ). Trong bài giới thiệu trên báo Thanh Niên ngày 7.11.2012, gọi Thanh Thảo là "người hiền của làng thơ Việt Nam", nhà thơ Nguyễn Việt Chiến viết :

Cái nguồn mạch trường ca dồi dào và sâu lắng của Thanh Thảo có thể cũng đã bắt nguồn từ mạch sống trường tồn của dãy Trường Lũy quê hương ông.
Nếu không sinh ra ở miền đất nghèo khó mà quật khởi ấy, không được nuôi dưỡng bởi nhân dân hào hùng và đau thương ấy thì làm sao Thanh Thảo có viết được những trường ca làm nên tên tuổi của ông như: Những người đi tới biển, Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông ru-bích, Đêm trên cát, Metro… Lần này, Thanh Thảo đã hướng chúng ta vào một hệ quy chiếu thi ngữ mới với cấu trúc của các chương như các “Chân…Thơ” thật độc đáo găm vào tri giác người đọc, từ Chân tre tới Chân ruộng, từ Chân mưa đến Chân núi, từ Chân cò, Chân tháp, Chân mây tới Chân sóng, Chân lũy. Và, từ những đường nét kiến trúc đặc biệt ấy, ông dựng nên ngôi nhà trường ca Chân đất theo giọng điệu riêng mà Thanh Thảo dành cho tập thơ này: uyên thâm mà phóng túng, dân dã mà hiện đại, tối giản mà sâu sắc, bình dị mà đa dạng.

Dưới đây, Diễn Đàn trân trọng giới thiệu hai chương trong bản trường ca: Chân thápChân sóng.





CHÂN THÁP



vài cái xoong móp méo
áo rách toạc
mấy trăm năm một điệu hành khốn khổ
phương nam cuốc bộ
phương nam xe đò
phương nam đất hứa
phương nam cùng đồ
mặt căng bình thản
 
những dòng sông mất tích
những đám mây trượt ngã
những hàng cây tắt nến trong đêm
tôi đi về nhà mình
thèm một ngọn lửa màu rơm
một ổ chó ấm hơi chờ đợi
và tôi gặp
 
một chàng trai sáu trăm năm trước
một cô gái sáu trăm năm trước
vật vã trên bãi sông Trà
gió mơn man da thịt
mùi bắp non mùi rong rêu mùi bùn mùi nước sông ngai ngái
đằm đằm trai gái hoang sơ
những cú xoay mình
những tiếng rên bất chợt
tôi nghe từ sáu trăm năm trước
một giai điệu quen
một bài hát không lời
sáu trăm năm hay sáu nghìn năm
mùi ân ái trong đêm vẫn thế
cái mùi quen quen như thể
nó làm nên
Quảng Ngãi
 
tôi kính dâng lên tổ tiên mình
chiếc bát mẻ nằm lặng bên chân Tháp
cái bát người con trai Việt
lăn lóc tìm cặp mông người con gái Chàm
như tìm nơi trú ngụ
lăn lóc tìm mênh mang
vó ngựa
lăn lóc tìm ấm êm
bếp lửa
lăn lóc tìm đức tin
chân Tháp hình cặp mông cô gái
 
phương nam hề, mệt lả!
phương nam hề, tái tê!
 
trong xách: ba chai mắm
trong túi: sót hai đồng
trong tay: nghề câu mực
trong đầu: hy vọng sắt
 
phương nam hề, cơ nghiệp!
phương nam hề, oan nghiệt!
 
mặt căng bình thản
 
tìm thì gặp
bãi sông Trà
lều lợp lá cào don xúc tép
vợ vợ chồng chồng
bống bống bang bang
cơm bạc cơm vàng
nước nước non non
cắm sào ở đâu quê hương ở đó
xin ba lạy cúi về làng xóm cũ
ngẩng đầu lên thấy Thạch Bích tà dương
thấy đất Cù Trâu thấy bờ xe nước
những ống trúm nhốt giùm ta ký ức
những con đò lơ lửng phía vầng mây
ăn tô don mùi nước sông đọng lại
 
dội từ thăm thẳm hang xưa ấy
một tiếng” ngà ơ” gọi ta về
ta như con dế thèm đám cỏ
gặm hết thời gian bỗng tái tê
 
sương treo anh ánh mờ nỗi nhớ
bầy trẻ hò reo phủ Cù Trâu
có con dế dũi đào cun cút
tìm chút tuổi thơ đến bạc đầu
 
nơi ấy vẫy vùng bao chú Cuội
đất sét nặn lên cả thánh thần
bụng rỗng tay không mà bắt giặc
nước lã vã nên hồ rượu tăm
 
Cao Chu thần ơi, sao Người chọn sông Trà
cho kiệt tác “ Trà giang thu nguyệt” ?
phải vì Người hoá thân lưu lạc
khói sóng hai trăm năm
hết Bùi Nhị Minh Trọng lái thuyền lại tới Bùi Huệ chở Người tuần du
trên xe chó kéo ?
hết miên man sông Trà lại lòng vòng đảo Bé
mỗi dốc cao xe chó kéo như lùi
khách bộ hành nước mắt tuôn rơi(*)
 
vì sao quê hương tôi
lại khiến người dưng rơi nước mắt ?
 
tôi hỏi bác Năm Trì, bác rầu rầu nét mặt:
“ có lẽ quê mình buồn quá con ơi
nhưng khi quá vui người ta cũng khóc”
 
dường như Quảng Ngãi tôi thường quá
một cái gì
 
buông câu giữa muôn trùng đói rách
mong giật được một ngày sáng tươi
quê hương bỏ thì thương vương thì tội
em thèm làm việc lắm anh ơi!
 
trong đêm xe nảy xóc
mắt lặng nhìn về sau
đầu dúi lên phía trước
mười ngón tay khát khao
 
phương nam hề, đơn độc!
phương nam hề, xoáy lốc!
 
mặt căng bình thản
 
mỳ gõ thâu đêm Sài Gòn hoa lệ
trứng cút thâu đêm Sài Gòn mưa xé
bánh xèo thâu đêm liu riu ngọn lửa
xích lô thâu đêm từng vòng cô đơn
 
đất quê tôi hai lần thất lạc
người quê tôi hai lần lưu dân
 
vì sao muốn khóc ?
 
có một hạt cỏ may cư trú lênh đênh
ngày ấy xanh lá trúc
có một chiếc xe đò đi về mông mênh
đỏ đen phận người câu mực
phương nam
phương nam
dòng chảy mấy trăm năm
 
mặt căng bình thản
_______
(*) câu thơ Cao Bá Quát trong bài “ Sa hành đoản ca”


CHÂN SÓNG



Cánh chim rơi rớt tả tơi
Đại dương rộng lớn là nơi trú nhờ

(thơ của một người đánh cá xa bờ)
 
lên tám tuổi lần đầu nhìn thấy biển
lần đầu đi biển
ói mật xanh mật vàng
biển mênh mang
tôi nhỏ bé
những thủy thủ tàu Ba Lan dồi tôi như quả bóng nhẹ
họ cười mà tôi khóc
 
chỉ thế thôi
 
nhiều năm sau tôi không nhìn thấy biển
dù có “vượt trên đỉnh cao Trường Sơn”
cũng không nhìn thấy biển
suốt thời ấy biển với chúng tôi là tận cùng
cuộc chiến
một là được trở về với biển
hai là không bao giờ
 
chỉ thế thôi
 
con nào biết mẹ bạc đầu vì biển
mỗi làn sóng như một dải khăn tang
con nào biết mẹ đau vì biển
đau vì thiếu biển
đau vì thừa biển
đau vì biển thiếu con mình
đau vì biển thừa hy sinh
 
những mộ gió những hình nhân phơ phất
những hải trình dài suốt mấy trăm năm
những Bãi Cát Vàng san hô mê hoặc
những phận người bó chiếu giữa mông mênh
 
chỉ thế thôi nhưng mẹ ơi còn biển
là còn những chuyến đi không hẹn ngày về
nhưng mẹ ơi còn con trai trong bụng
là mẹ đẻ hết ra cho chúng giong khơi
 
người quê tôi không quen lời bay bướm
giọng nói nặng dây buồm
con trai biết bơi từ trong bụng mẹ
biết lắc thúng từ khi chưa biết chu vi hình tròn
biết tính cá bằng khoang
ăn sóng và nói gió
lặn sâu mấy chục sải
ngậm vật vờ ống thở
bơi bên cạnh hải sâm
như một chiếc tàu ngầm
tỉ tê cùng đáy biển
như một người bạn thân
 
lặn biển Hoàng Sa liệt nửa người
giờ ngồi xe chó kéo
người bé trên đảo Bé
mỗi khi nhìn thấy biển mắt rực cháy
“biển ơi biển ơi biển ơi”
thế thôi
 
lặng im như đá mồ côi
họ dạy anh tình yêu
không lời
anh yêu biển mà đứng trên bờ
anh yêu nước mà không biết bơi
 
Mai Phụng Lưu
mỗi bận xuống thuyền lại trực chỉ Hoàng Sa
như có ai dẫn
nỗi nhớ là hải bàn
mãi quay về một hướng
mỗi lần bị bắt mỗi lần bị đánh
lại tay trắng trở về dành dụm ra khơi
không thể sống thiếu Hoàng Sa
không thể sống thiếu biển
 
anh yêu biển mà đứng trên bờ
anh yêu nước mà không biết bơi
làm sao anh hiểu ?
có những người lính đảo
trần lưng trước mưa đạn quân thù
“chỉ được xáp lá cà bằng lê”
nhưng với khoảng cách này là không thể
đành chỉ được chết vì đảo
đành cho lãng quên vùi mấy mươi năm
 
Gạc Ma Gạc Ma
hãy kể cho con cháu anh điều này:
có những người lính đảo
đã chết theo vòng tròn
tay họ giăng ra và siết chặt tay nhau
như một tràng hoa biển
 
không quỉ ma nào xé nổi
tràng hoa biển ấy
 
hãy kể cho con cháu anh
rằng từ Hoàng Sa từ Gạc Ma
những tràng hoa biển ấy
dạt trôi
về ôm chặt Mẹ
 
chân sóng
bắt đầu từ đó





Các thao tác trên Tài liệu

được sắp xếp dưới: Xuân Ất Mùi
Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us