Ba
Mươi Bốn,
Em,
Cái
Có Thể,
Và
Nhà Nghiên Cứu Phong Hoá [*]
Của Một
Vùng Đất,
lỡ
dấu tình em vào năm tháng
một
cánh chim bay
mỏi
mắt trông
đường
trần thăm thẳm
chân
chưa chán
xương
lỏng áo mòn vẫn cứ đi
tôi
ngồi giữa trời cao đất rộng
thấy
mây bay hiểu cuộc phù sinh,
nhà
nghiên cứu phong hoá tiếp tôi và
em như những khách quí, tôi hơi
bàng hoàng khi bước vào căn
phòng ấy, bởi những nỗi niềm của
nhà chép sử bằng đất là
còn tác động tâm trí tôi,
bấy giờ là tôi cảm thấy có
cả uyên ương gãy cánh, có
cả lác đác mưa ngâu, và cả
những vị thần tài hớn hở (là
rất nhiều vị, chứ chẳng phải là
một) ở nơi phòng làm việc của
nhà nghiên cứu phong hoá của một
vùng đất, quả thực là sau khi
vượt qua thứ bố cục văn minh vô
cùng phức tạp của làng phố núi,
tôi và em bỗng bước vào nơi
làm việc của của một nhà phong
hoá, sang trọng thì chưa phải là
sang trọng, có điều, cách bày
biện trú sở làm việc kiểu vương
quyền ngay giữa cái không khí văn
minh có cả thứ mông muội tiền sử
lẫn hiện đại tân kỳ khiến
tôi có cảm tưởng là mình
đang trải qua một thứ cung đàn lỡ
nhịp, cái cung cách nói năng tiếp
đãi của con người đó quả
là chịu ảnh hưởng khá rõ
thứ hành chính pháp trị xưa nay
các bậc trị nước vẫn yêu
thích, các vị đến với nền
văn minh non trẻ đang phát triển này
là để chơi một chuyến cho biết
hay là đã có tính kế an cư
dài lâu, ông ấy đã đặt
vấn đề định cư ngay sau khi tiếp
trà nước tôi và em, về sau mới
biết quả tình nơi đó người
ta đang cần sự nhập cư của các
dân tộc đa số, là trong nước
hay ngoài nước cũng được, nhằm
để cho các dân tộc thiểu số
ở đó không còn chiếm đa số,
còn lúc ấy thì tôi cứ nghĩ
đấy chỉ là cách ăn nói
ngoại giao của một nhà phong hoá, là
cũng có ý muốn lập nghiệp ở
đây, nhưng chẳng dám nghĩ là
có thực hiện được hay không,
tôi nói như một thứ kế hoãn
binh, đẹp, những người hầu của
ngài nghiên cứu phong hoá của một
vùng đất quả là những cô
gái đẹp có tầm cỡ, sau những
giây phút lượn lờ qua lại nơi
phía nhà sau của đám gái hầu
là một bữa tiệc được bày
biện có vẻ hơi linh đình ở
nơi phòng khách có cửa sổ trông
ra khu nhà sàn có nhiều tiếng cười
đùa của đám người nước
ngoài mà theo lời chủ nhân đó
là khu du lịch giá cao dành cho loại
khách nhiều tiền, chim cuốc nướng
lá lốt, thịt mang hấp gừng, tất
nhiên không phải là bia rượu
ngoại, mà là rượu cất từ
hạt cây tu mu ngâm sừng con mân mê,
phải nói là một nhà phong hoá
vừa đa cảm vừa có khí vị
đế vương, khi tôi hỏi hạt cây
tu mu là hạt gì, và sừng con mân
mê là sừng con gì, thì ông ấy
cùng lúc dùng cả hai bàn tay sang
trọng của mình để cùng nâng
hai bàn tay của hai thực khách, là
tôi và em, và đặt lên đó
những cái hôn theo cung cách của các
vì vua cổ đại, xin các vị chớ
hỏi, vì đó là những gì
để khiến đám khách ngoại
quốc phải kính nể nền văn minh
của chúng ta, hoá ra việc tôi tò
mò về tên gọi các thứ món
ăn rừng đã đánh động
thứ nhiệt huyết dân tộc độc
đáo ở con người ấy,
cái
đó là thuộc về chủ nghĩa
dân tộc
bỏ
vào miệng nhai là lập tức nghe thấy
mùi vị của một dân tộc
khi
gọi cái hạt cây có tên tu mu
và
khi gọi con vật rừng có tên con mân
mê
là
nghe thấy âm vang dân tộc truyền lại
từ những ngàn năm trước
thứ
gì trên đời này cũng hư hao
nhưng
chủ nghĩa dân tộc thì không
nếu
một người nào đó
sau
khi uống chén rượu ngâm sừng con
mân mê thì kêu lên là anh ta
muốn mãi mãi ở lại nơi này
thì
chúng ta sẽ sẵn sàng để cho anh
ta ở lại
chuyện
đó là thuộc về chủ nghĩa
dân tộc
chuyện
đón nhận một người khác yêu
mến nền văn minh này là thuộc về
chủ nghĩa dân tộc
hoặc
một vị đứng đầu một nền
văn minh giàu có nào đó
sau
khi đặt chân lên nơi đây thì
thích thú la lên các anh là bạn
của chúng tôi
và
sau đó thì vì bạn hữu bọn
họ đã đem cả tiền của và
khoa học kỹ thuật làm giàu có
thêm nền văn minh chúng ta
thì
chuyện đó là cũng thuộc về
chủ nghĩa dân tộc,
tôi
nhớ bấy giờ em cứ đưa mắt
sang phía tôi như để chia sẻ về
sự hoang mang trước một thuyết lý
có vẻ hơi mới mẻ, là thứ
chủ nghĩa dân tộc có tính toàn
cầu, hay chủ nghĩa dân tộc hướng
ngoại, hay là một thứ chủ nghĩa
dân tộc mang tính thực dụng, tôi
thấy chẳng có giả thiết nào ổn
cả, nhưng chẳng lẽ một nhà nghiên
cứu phong hoá của một vùng đất
lại ba hoa nhăng cuội để che đậy
sự dốt nát, tôi nghĩ, và bắt
đầu thấy lo cho em, liệu một con người
đang mang trong mình một thứ chủ nghĩa
có vẻ khó hiểu như thế có
phát hiện ra dòng máu nguy hiểm em
đang mang người hay không, nhưng dường
bấy giờ có ngọn gió núi mát
lành nào đó đã thổi qua
chỗ đa cảm trong con người đang mang
trong mình thứ chủ nghĩa khó hiểu,
kể từ giờ phút này, nếu cô
gái thấy thích, là có thể bắt
đầu làm trợ lý cho tôi, ông
nói thẳng với em về quyết định
của ông, có vẻ quá đường
đột, như thể là em đang có
một thứ khả năng kỳ diệu nào
đó chỉ có con người đang
mang trong người thứ chủ nghĩa kỳ
dị ấy là mới nhìn thấy được,
và em, cùng với tôi, lúc bấy
giờ như đang đứng trước một
canh bạc quá lớn, người chơi bạc
đòi đặt cược bằng chính
con người em, và bấy giờ thì em
cũng nghĩ như tôi, là cứ liều
một phen coi thử, nên sau cái nháy
mắt ra hiệu của tôi là nên đồng
ý đi, thì em liền nói, rất cám
ơn ông,
tôi
quyết định ngồi viết nơi khu rừng
cạnh nhà bảo tàng nghệ thuật
của nhà chép sử kỳ cục, thỉnh
thoảng lại sang trò chuyện cùng ông
vui
vì đã có một người bạn
lạ thường
và
vì em đang có thể tìm được
cái có thể ở nơi đó
nhưng
vào một chiều mùa hạ
buổi
chiều ảm đạm nhất trong cuộc đời
tôi và em
từ
chỗ nhà nghiên cứu phong hoá em trở
lại chỗ tôi với gương mặt u
buồn
thì
ra nhà nghiên cứu phong hoá nhận em
làm trợ lý cho mình là để
ông có thể thực hiện một công
trình nghiên cứu mới về đẻ,
ông
đã nói với em rằng việc đầu
tiên của ông là sẽ thăm dò
khả năng sinh đẻ của em,
những
kẻ ngông cuồng của thế kỷ đang
làm hoen ố xứ sở
vào
cái buổi chiều mùa hạ ảm đạm
ấy em chỉ nói với tôi mỗi lời
ấy
và
trong suốt cuộc hành trình đi tìm
cái có thể sau đó em đã
trở thành kẻ lặng lẽ
mãi
khi chỉ còn mỗi mình tôi nơi xứ
sở của mình tôi đã phát
hiện ra những mảnh nhật ký em đã
để lại cho tôi
những
mảnh nhật ký không đề ngày
tháng tôi vẫn gọi là Nhật Ký
Ngoài Năm Tháng và vẫn đem ra
đọc khi buồn nhớ em,
_________
[*]
Nói Thêm Về Nhà Nghiên Cứu
Phong Hoá,
Để
hiểu thêm về nhà nghiên cứu
phong hoá ấy, tôi xin chép ra đây
bài diễn thuyết của ông về Đẻ,
bài diễn thuyết đã khiến ông
trở thành nhà nghiên cứu phong hoá
của một vùng đất,
Đẻ
là chuyện của muôn loài. Từ cỏ
cây đến muông thú, không loài
nào là không đẻ. Chỉ khác
nhau ở cái cách thức đẻ mà
thôi. Chuyện đẻ của cỏ cây
là tùy thuộc vào cuộc lang bạt
kỳ hồ của hạt. Vì bắt đầu
chuyện sinh đẻ của cỏ cây là
đơm hoa, kết trái. Và trái sinh
hạt. Và hạt già rụng (hoặc đem
gieo) để nảy mầm trong đất mà
mọc thành cây. Cho nên khi nói cỏ
cây đẻ mà không thấy đẻ.
Còn chuyện kết trái từ hoa là
phải nhờ có trời đất, là
bàn tay của gió mưa, bàn tay của
ong bướm. Chuyện sinh đẻ của cỏ
cây là chuyện vòng vo thế sự.
Nhưng các loài muông thú thì
khác với cỏ cây. Các loài
muông thú là chẳng nhờ ai. Con vật
đực là cứ việc ăn nằm với
con vật cái. Chỉ có điều, mỗi
loài muông thú lại có cách ăn
nằm với nhau và cách đẻ của
loài giống mình. Con gà thì đẻ
trứng, sau đó mới nở ra con. Nhưng
con ngựa thì đẻ liền ra con. Con gà
đẻ một lần cả chục cái
trứng. Tức mỗi lần đẻ đến
chục đứa con. Nhưng con ngựa thì
mỗi lần chỉ đẻ một đứa
(Nếu đẻ hơn một đứa là
chuyện hiếm) Con có lông như gà,
lại đẻ trứng. Nhưng có lông
như ngựa, sao không đẻ trứng mà
đẻ con, chỉ trời mới biết. Con
người thì chỉ biết lơ mơ
rằng, lông mao như ngựa, như trâu
bò, thì đẻ con. Còn lông vũ,
như chim như gà, thì đẻ trứng.
Và cũng chỉ biết lơ mơ rằng,
do con người lông mao, nên con người
cũng đẻ con. (Còn như con người
mà đẻ trứng lại là chuyện
trần gian mộng ảo). Có một chuyện
con người biết đích xác là
hết thảy các loài muông thú
khi ra khỏi lòng mẹ là liền biết
đi đứng. Nhưng con người khi ra khỏi
lòng mẹ thì chỉ nằm khóc. Hay
là trời sinh ra chỗ khác này là
để cho con người làm ra văn minh.
Nhất định các loài muông thú
khác là không có văn minh. Từ
buổi có mặt trong trời đất, lũ
chim chóc, lũ trâu bò, là vẫn
cứ đẻ theo cái cách thức trời
sinh. Nhưng con người, khi đã có
văn minh, là đẻ theo cách của văn
minh. Là đàn ông đàn bà
vẫn ăn nằm với nhau như thuở chưa
có văn minh. Nhưng muốn đẻ hai đứa
là đẻ hai đứa. Muốn đẻ
ba đứa là đẻ ba đứa. Còn
như không muốn đẻ nữa là
không đẻ nữa. Nhưng phải nói
một câu, nếu không có sự hợp
tác của cái bộ máy đẻ của
phụ nữ thì văn minh cũng bó tay.
Nói rõ ra, nếu không có sự hợp
tác của cái buồng trứng phụ nữ,
thì ánh sáng văn minh cũng bó
tay. Hay nói một cách khác nữa
là nếu không có sự giác ngộ
của cái buồng trứng của phụ nữ
thì văn minh cũng bó tay. Đã đến
lúc toàn thể loài người trên
thế giới phải thừa nhận sự vĩ
đại của cái buồng trứng của
phụ nữ thời đại. Hoan hô cái
buồng trứng của phụ nữ thời đại.
Phụ
Lục,
Nhật
Ký Ngoài Năm Tháng, [*]
[…]
xin
cho tôi
những
ngày tháng bình yên…
lúc
bấy giờ thì tôi đã chết
nhưng còn bị những kẻ ngông cuồng
của thế kỷ truy đuổi, tôi chạy
trối chết, còn bọn họ thì đuổi
sát sau lưng, phải bắt cho được
nó, tôi nghe những giọng nói thật
quen, những giọng nói tôi vẫn nghe
thấy trong những buổi mét ting diễn
thuyết ở làng, buổi ấy, cứ năm
ba hôm các nhà thông thái lại
mở mét ting, diễn thuyết về tình
hình trồng lúa trồng mía ở
trong nước, về những xung đột ở
các nước phía mặt trời mọc
và phía mặt trời lặn, bấy giờ
thì tôi chạy trối chết, quả là
thân gái cố cùng, tôi chạy trốn
trong niềm đơn độc vô biên,
bởi chẳng thấy nửa bóng dáng ai
nhìn thấy mình trong cuộc hoạn nạn
khốn cùng, đừng chạy nữa, hãy
dừng lại chịu trói đi, cái cách
hô hét ấy khiến tôi kinh hãi vô
cùng, hô hét như thế có nghĩa
là những kẻ ngông cuồng của thế
kỷ đang nắm phần chắc trong tay, là
bọn họ sẽ bắt được tôi,
sẽ trói tôi, và lôi tôi đi
như một con vật, vừa chạy, vừa
hình dung cảnh ấy, tôi nghe não lòng
đến chẳng còn muốn sống chút
nào, nhưng lại nghĩ là mình còn
trẻ, còn có thể góp một chút
gì cho đời, trong giờ phút hiểm
nguy tôi đã nghĩ ra được một
cách trốn chạy coi như giải pháp
tối ưu vào lúc ấy, là không
nên chạy trên con đường chính
của làng, mà chạy trở lại những
con đường tuổi thơ tôi đã
trải qua, tôi quyết định, và vụt
cái, đã thấy mình đang chạy
trên những bờ cỏ trên đồng
làng, nỗi sợ hãi vẫn không thể
xoá đi những ký ức trong tôi,
bấy giờ là tháng ba, cỏ mồng gà
đang trổ hoa, tháng ba là mùa chọi
cỏ mồng gà, tháng ba lũ con trai vào
hội đánh cù, còn bọn con gái
bọn tôi vào hội chọi cỏ, tôi
sợ muốn chết, nhưng đầu óc
vẫn cứ nghĩ đến hội chọi cỏ,
phải bắt cho được đứa mang
trong người dòng máu nguy hiểm, những
kẻ ngông cuồng của thế kỷ đã
vào tới đồng làng, tới giây
phút ấy dường như bọn họ trở
nên hung dữ hơn, hãy giết nó đi
thôi, đồ nguy hiểm, cứ nghe những
hô hét của bọn họ lúc bấy
giờ, tôi biết là họ trở nên
hung dữ, không được, cứ chạy
trên đồng làng thế này thì
bọn họ sẽ dễ dàng bắt được
tôi, tôi nghĩ, và quyết định
tiến vào khu rừng tái sinh dưới
chân dãy núi phía nam đồng
làng, chốn giang sơn phù hoa của thuở
ấu thơ, thuở ấu thơ của lũ trẻ
chúng tôi thì khu rừng tái sinh ấy
là thiên đường của mơ mộng
và những niềm hạnh phúc giản
đơn, chỉ nghĩ đến việc lùa
bò vào rừng, trưa, bày cơm mo
cau lên gọp đá chỗ bờ suối,
ăn cơm mo cau, uống nước suối, nằm
ngủ trên đá dưới bóng cây
rừng, chỉ nghĩ đến đó là
chúng tôi, đám trẻ chăn bò
trong làng, đã cảm thấy mình
đạt được niềm hạnh phúc
vô biên, tôi chạy vào khu rừng
tuổi thơ, cứ nghĩ là ký ức
tuổi thơ sẽ giúp tôi chiến thắng
bất cứ nỗi đe dọa nào của
trần gian, nhưng là tôi ảo tưởng,
hãy đuổi theo, nó kìa, là bọn
họ đã trông thấy tôi, trong phút
hiểm nguy, tôi nhoài xuống lòng con
suối, nép người vào bờ đá,
nhưng người ta đã bắt được
tôi, đưa tôi tới một nơi, mới
bước vào tôi đã nhận ra đó
là chỗ ngồi của vua những người
chết, ông ấy môi dày, mũi to, mắt
to, hình ảnh vua diêm vương ngồi
trên chiếc ngai vàng màu đen trong
những câu chuyện kể của mẹ tôi
vẫn còn nguyên trong trí nhớ, tôi
thấy những kẻ ngông cuồng của thế
kỷ nói gì đấy vào tai vua của
cõi chết, vẻ rất thân thiện, vua
diêm vương mà cùng phe với bọn
họ thì tôi chết là cái chắc,
tôi cứ thấy bủn rủn chân tay khi
nghĩ đến chuyện chết, hãy giết
nó đi, lời phán quyết của vua
cõi chết vang lên như tiếng sấm ở
trên trời, và người ta liền đưa
tôi đến một gian phòng rộng thênh
thang, tòa án diêm vương, tấm
biển treo nơi bậu cửa đập vào
nỗi sợ hãi ở trong tôi, nhưng
không có lũ đầu trâu mặt
ngựa như mẹ tôi kể, những vị
quan tòa y như những nhà thông thái
tôi nhìn thấy trong các buổi mét
ting diễn thuyết ở làng, tất cả
các vị công tố của tòa án
diêm vương đều đứng lên
buộc tội tôi là kẻ đang mang
trong người dòng máu nguy hiểm đối
với xứ sở chốn trần gian, cuối
cùng thì ngài chánh án, người
mặc áo chùng đen với cổ cồn
đỏ và đội mũ đỏ, đứng
lên đọc lời phán quyết của
tòa, hãy giết nó đi, vị chánh
án lập lại lời vua diêm vương,
cũng giọng nói y hệt như giọng nói
của vua diêm vương, có nghĩa giống
nhau cả về tiết tấu và nhịp độ
ở trong cách nói, và ở chốn
pháp trường tôi lại gặp lại
vị chánh án sang trọng ấy, ở
chốn pháp trường tôi đã rơi
vào tâm trạng dửng dưng đối
thân xác của mình, thì còn
nghĩ chi nữa khi tôi sắp bước vào
cõi không còn là cuộc sống,
tôi cứ nghe dửng dưng, chẳng chút
nghĩ ngợi, khi nghe ngài chánh án của
tòa án diêm vương hô to đã
đến giờ hành quyết, tôi thấy
ông ấy ném thẻ lệnh xuống trước
mặt tôi, và hô chém, lúc nghe
cây đao của tên đao phủ chạm
vào cổ tôi thì tôi giật mình
tỉnh ra, việc làm đầu tiên là
sờ thử lên cổ của mình, thấy
tôi còn sống thì mừng vô kể,
thì ra tôi chỉ nằm mơ mà thôi,
tôi nằm mơ thấy mình đã
chết mà còn bị những kẻ ngông
cuồng của thế kỷ đuổi bắt
được, đem ra chém,
[…]
là
giấc mơ
nhưng
chẳng phải giấc mơ…
bà
lão ăn xong những chiếc rổ đan
bằng nan tre thì xoay sang ăn những chiếc
rổ bằng nhựa, tôi thấy lo lắng vô
cùng, rổ bằng nan thì còn khả
dĩ, đằng này, rổ bằng chất
nhựa chế tạo từ công nghệ hiện
đại, nếu răng cỏ bà lão còn
đủ cũng chẳng thể ăn được,
cũng sắp tối rồi, bà không lo cơm
nước, ngồi ăn chi những thứ rổ
rá, tôi nói như để đánh
thức bà lão vì bấy giờ cứ
nghĩ là bà ấy đang lầm lẫn
chi đó, bà lão ngưng việc ăn
những chiếc rổ nhựa, ra hiệu tôi
im, từ phía cuối làng đang vọng
lại những tiếng hoan hô và đả
đảo, hoan hô cái cày gỗ của
làng, đảo lũ toàn cầu hoá,
thì ra dân làng tôi đang xuống
đường phản đối cái gọi
là toàn cầu hoá, thú thật, từ
ngày mấy tiếng toàn cầu hoá
thâm nhập vào làng tôi thì
chẳng người làng nào biết nó
chính xác là cái gì, chỉ
thấy dấy lên một nỗi lo sợ chẳng
thể lý giải, nỗi lo sợ vô cớ
bỗng ập xuống ngôi làng nghèo
khó, theo cách nghĩ của những kẻ
đi chân đất ở làng tôi thì
toàn cầu hoá có nghĩa là sắp
tới chẳng có gì là thuộc về
mình, mà thuộc về thế giới, hết
thảy những gì con người làm ra
được là thuộc về thế giới,
và chiều hôm ấy là người
làng tôi bắt đầu xuống đường
để phản đối thứ tai họa ấy,
một lũ vô tích sự, bà lão
lầm bầm sau khi nghe thấy những tiếng
hoan hô và đả đảo từ cuối
làng vọng lại, mà cháu cũng nên
về lo việc nhà của cháu đi thôi,
bà lão nhìn tôi, nói, rồi
tiếp tục ăn những chiếc rổ nhựa,
lần này tôi hơi hoảng vì bà
lão bỗng ngậm chiếc rổ, ngửa mặt
lên trời, thở, chắc bà ấy chết
mất, tôi nghĩ, nhưng loáng cái,
chẳng còn thấy những chiếc rổ
nhựa, cũng hơi khó nuốt một chút,
bà lão nhìn tôi, nói, vẫn còn
nguyên vẻ mặt cấp bách, thì ra
tôi đã hiểu ra, những người
làng khác chống toàn cầu hoá
bằng xuống đường phản đối,
còn bà lão láng giềng của tôi
thì bắt đầu ăn những gì bà
tạo dựng được, nhưng khi bà
bắt đầu ăn những chiếc dao xắt
thịt bằng sắt thì tôi mới thực
sự lo sợ bà ấy chết, nhưng cuối
cùng thì chẳng hề chi, chẳng nhìn
thấy giọt máu nào chảy ra ở
miệng bà lão sau khi bà ấy nuốt
hết mấy con dao bằng sắt, nhưng khi thấy
bà lão nằm dài xuống trước
bếp nấu, bắt đầu gặm những
ông táo kê bằng đá núi
thì tôi phải lên tiếng can ngăn,
bếp là để nấu ăn bà không
nên hủy nó đi, tôi nói, bà
lão ngưng gặm những hòn đá
núi, giận dữ nhìn tôi, cháu
đâu biết nó là của ông nhà
tôi hồi còn sống đã mang tự
trên núi về, thì ra, đây là
thứ tài sản còn quí giá hơn
những dao rổ , hình như là máu
đã bắt đầu ứa ra từ môi
miệng bà lão, tôi sợ, nhưng
chẳng dám can ngăn, cũng chẳng còn
đủ can đảm để tiếp tục
đứng nhìn thứ sự việc chẳng
bao giờ tôi nghĩ có thể xảy ra
trên đời, tôi về nhà thắp
đèn, nằm nghĩ mãi về cách
chống nỗi lo sợ toàn cầu hoá
của bà lão, nỗi lo sợ vô cớ
đã ập xuống xóm làng tôi,
những người làng xuống đường
chắc đã về cả, chẳng còn
nghe thấy tiếng hoan hô đả đảo,
vào khoảng quá nửa đêm tôi
nghe đánh rầm một cái tựa ai đó
đã xô ngã ngôi nhà bà
lão láng giềng, tôi lo lắm, song
chẳng còn dám sang, vừa hừng đông,
tôi hé cửa dòm thử, thì thấy
quả nhiên nhà bà lão đã
biến mất, tôi vội vã chạy sang,
thì thấy bà lão đã chết
tự hồi nào, bà ấy nằm chèo
queo trên nền nhà trống trơn, miệng
còn ngậm mỗi bàn tay của mình,
nhờ mấy cọng tranh rạ còn dính
nơi môi mép bà lão nên mới
biết căn nhà của bà chẳng phải
ai mang đi mà do bà ấy đã ăn
vào bụng, tới lúc ấy tôi mới
hiểu ra, sau khi ăn hết những gì mình
đã tạo dựng được, bà
lão vẫn thấy chưa yên tâm với
cái gọi là toàn cầu hoá, đã
quyết định ăn luôn thân xác
bà, có điều, sau khi ăn ngôi nhà
và những vật dụng trong nhà, bà
không còn đủ sức thực hiện
quyết định cuối cùng, nên chỉ
vừa bắt đầu ăn bàn tay của
mình thì bà đã chết, thú
thật ,tôi chẳng lo chuyện toàn cầu
hoá tí nào, mà chỉ sợ người
ta truy đuổi mình, vào những tháng
năm ấy tôi luôn lo sợ người
ta truy đuổi tôi, và mỗi lần nỗi
sợ hãi ấy ập đến thì tôi
lại nghĩ đến cách chống nỗi
sợ hãi của bà lão, là phải
tự ăn mình,
[…]
hết
thảy những dòng sông
vẫn
cứ chảy…
_______
[*]
Nói Thêm Về Nhật Ký Ngoài Năm
Tháng,
bấy
giờ tôi vô cùng hứng thú khi
đọc nhật ký không ngày tháng
của em, và một hôm tôi bỗng nảy
ra ý viết tặng em, cũng là nhật
ký không đề ngày tháng, tôi
viết để kêu gọi em hãy cùng
tôi biết ơn người đã đục
thông đêm sang ngày, Ông Hỗn Độn,
hãy
tin chắc rằng trên mặt đất hỗn
độn này, bạn đã có tri kỷ,
cứ
thử chạm vào trí nhớ và lắng
nghe, bạn sẽ nhìn thấy những câu
chuyện mang cốt cách con người thuở
mù tăm, bởi trí nhớ chúng ta
chẳng qua cũng chỉ là sao chép ký
ức vạn đại phiêu diêu của
loài giống con người, nhân loại,
nó là cả xác thân thối rữa
cùng những phiêu diêu vạn đại
khôn nguôi, ta muốn nói là bạn
hãy cứ thử chạm vào trí nhớ,
ông
hỗn độn đục khí trời tới
ngày thứ tám mươi mốt thì
nghe chim đa đa phương nam hót
“có
gì vui mừng chăng?”
“chờ đến
mấy mươi ngàn ngày đêm mới
gặp được”
“chim đương
nói ai?”
“về người con gái
mang trong mình mùi phù sa và gió
”
“nhưng là gặp ai?”
“nỗi
cô độc mấy mươi ngàn ngày
đêm chảy thành dòng ký ức
đen ngòm hành lang phế tích niềm
căm giận tà gian cũng thành khối
thành tảng rắn tựa ngọc bích
kim cương trong niềm tin thần thánh cứ
thành dòng thành dòng yêu thương
căm giận chảy suốt qua những phế
tích hoang tàn những chữ nghĩa cứ
tiếp nối nhau sau những gào thét
những ngọn lửa thiêu rụi được
cả thế giới của quỷ ma vẫn cứ
ẩn mình sau niềm câm lặng cho đến
hôm thì nghe thấy được mùi
phù sa và gió”
“là chim
đương nói về chàng trai cô
độc nào đó vừa nhận ra mùi
phù sa và gió?
“thưa phải”
“một
chàng trai cô độc suốt bấy nhiêu
năm tháng?”
“và vừa thấy
ánh sáng truyền vào thì nỗi
cô độc liền nhận ra mùi phù
sa và gió”
“ta đục khí
trời cho ánh sáng truyền vào đêm
tối khi ngày ấy hiện ra thì thoáng
thấy một dạng hình giờ nghe chim nói
mới rõ”,
tôi
muốn nói là bạn hãy cứ thử
chạm vào trí nhớ
và lắng
nghe,
em
biết không
là sắp có một
cuộc tình tan chảy vào phù sa và
gió
sắp có những con người
vừa thoát khỏi ngục tù cô độc
để bước đi giữa phù sa nguyệt
bạch
phương nam dằn dặt bước
chân của đất,
là
mãi hàm ân
tôi và em là
sẽ mãi hàm ân kẻ đục khí
trời cho ánh sáng tràn vào đêm
tối
cho tôi và em nhận ra nhau giữa
trần gian trăm nẻo,
tôi
muốn nói là bạn cứ thử chạm
vào trí nhớ để nhìn thấy
những câu chuyện mang cốt cách con
người,
chim
đa đa phương nam vẫn hát về
mùi phù sa và gió
còn ông
hỗn độn thì vẫn tiếp tục
đục khí trời cho ngày thông vào
đêm,
“khi
ta thò tay vén đêm tối cho ánh
sáng truyền vào thì thoáng thấy
nét vĩnh hằng”
ông hỗn độn
nói,
“nét
vĩnh hằng khắc vào cuộc phù
du”
chim nói,
“phải,
lộng lẫy và huy hoàng”
ông
hỗn độn nói,
là
sắp có những con người bước
vào phù sa và gió như tôi và
em thuở ấy,
bạn chớ nói với
tôi một lời nào về những bài
hát đất phương nam
bởi tôi
cứ muốn những thứ đó mãi
mãi là bí tích của tình yêu,
tôi
vẫn muốn nói với em về những bài
hát mang nặng mùi phù sa và
gió
những bài hát buồn bã
của đất phương nam sẽ dày vò
tôi đến chết,
|