Cây tam cúc
Thơ Hoàng Cầm, Truyền thống & Hiện đại (I)
Cây Tam cúc
Đặng Tiến
Hoàng Cầm là một nhà thơ Việt Nam xuất sắc bị buộc phải im hơi lặng tiếng hơn ba mươi năm, nên tài hoa chưa được quần chúng tiếp nhận đầy đủ, và giới phê bình, nghiên cứu chưa có khoảng cách để đánh giá đúng mức.
Vài năm nay, đã thấy xuất hiện nhiều tác phẩm Hoàng Cầm. Gần đây, mừng Hoàng Cầm lên tuổi bảy mươi – với trên lưng già nửa thế kỷ sáng tác và gian truân – nhà xuất bản Văn Hoá cho in một tập thơ chọn lọc 1942-1992 dưới tựa đề Bên kia Sông Đuống, một tuyển tập đặc sắc.
Hoàng Cầm sinh năm 1922, tên thật là Bùi Tằng Việt do nơi sinh là thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (nay là Hà Bắc). Anh ra đời và lớn lên trong tiếng hát Quan họ, tại vùng Kinh Bắc xưa, cái nôi văn hoá của đồng bằng Bắc Bộ. Thơ Hoàng Cầm bắt nguồn từ nền văn hoá kia và tiếng hát ấy. Thi hứng của anh xoáy dọc xoay ngang vào những Kinh Bắc, Thuận Thành, Bát Tràng, Sông Đuống. Từ lưng vốn cũ càng, Hoàng Cầm từng bước làm mới thơ mình, anh là trường hợp hiếm hoi nếu không phải là duy nhất giữa những nhà thơ cùng lứa tuổi, đã tạo ra được phong cách thi ca mới, trên một nền từ vựng cũ, trên phong tục cổ truyền. Thơ Hoàng Cầm là cuộc hôn phối hạnh phúc giữa tính dân tộc và tính hiện đại.
Cây Tam Cúc là một bài thơ hay, tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật của Hoàng Cầm. Từ một trò chơi dân gian khá phổ biến, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh trữ tình đặc sắc và phong phú, bắt đầu với tình nam nữ, rồi đến tình chị em, tình người, tình dân tộc. Rộng ra nữa là tình yêu tuổi trẻ, quê hương, tình yêu cuộc sống trong mọi mặt, trong cảnh nhàn nhã lẫn lúc chênh vênh. Từ một ổ rơm giản dị, hình ảnh quê nghèo, Hoàng Cầm đã vẽ lên giấc mơ hạnh phúc, giấc mộng lứa đôi với ít nhiều nhục cảm. Bài thơ tình tứ và nhẹ nhàng, có khả năng làm suy nghĩ, nhờ kỹ thuật già dặn và tân kỳ của Hoàng Cầm về mọi mặt từ vựng, ngữ điệu cũng như hình ảnh.
Một điều cần nói thêm: nếu đặt được bài thơ vào không khí và văn hoá quan họ thì nó sẽ thêm hương sắc. Những câu hát quan họ, thường là những bài tỏ tình trai gái, có khi trơ trẽn; nhưng đặt vào nền văn hoá quan họ, thì khác: những bài hát ấy mời gọi, ca tụng cuộc sống và con người. Cây Tam Cúc của Hoàng Cầm cũng vậy: nó chuyên chở tình người, tình quê nhiều hơn luyến ái lứa đôi.
Cũng như những làn điệu dân gian xưa kia, thơ Hoàng Cầm ngày nay là những ngọn lửa sưởi ấm cuộc sống, một tia nắng mới trên chân trời cũ. Những đoá râm bụt nở muộn màng trên bờ giậu làm thắm lại niềm lãng quên bên triền ký ức.
Thơ Hoàng Cầm trau chuốt, có khi do dụng công và kinh nghiệm, có khi chỉ là thành tựu của vô thức – mà nhà thơ gọi là thần lực hay tâm lực. Vô thức ở đây là phần tích luỹ trầm kha của rung cảm và tiềm năng sáng tạo; thi nhân từ năm này sang năm khác sống triền miên bài thơ mình cho đến lúc nó bật ra thành lời, thành tiếng; do đó, Hoàng Cầm có lần tâm sự rằng nhiều câu thơ, có khi toàn bài thơ của mình là tiếng nói đến trong những giấc mơ, từ một thế giới khác, như là một giọng nói mầu nhiệm, linh thiêng.
Thơ Hoàng Cầm giàu âm điệu. Anh nói: “Nhạc điệu là cái xe chở cái hồn của bài thơ”. Có những câu thơ dìu dặt, luyến láy do sắp xếp; nhưng giai điệu toàn bài thơ có thể xuất thần, vượt khỏi dụng công. Ví dụ bài Cây Tam Cúc trên 111 chữ đã có đến 27 âm đ là một phần tư. Ngoài số lượng, còn chất lượng: âm đ đứng vào những vị trí xung yếu, hay diễn tả những tình ý thiết thân:
Em đừng lớn nữa, Chị đừng
đi
...Em đi
đêm, tướng
điều sĩ đỏ
Đổi xe hồng đưa chị đến quê Em
... Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới Chị...
Âm đ còn là những chuyển động trong bài thơ: đi, đứng, đưa và đến; hay là màu sắc hạnh phúc: tướng điều sĩ đỏ; trầu cay má đỏ đối lập với màu đen của định mệnh: Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ; tướng sĩ đỏ đen. Hai chữ đỏ đen cô đọng nội dung bài thơ, một trò chơi may rủi, giống như tựa đề Đỏ và Đen của tiểu thuyết Stendhal.
Âm đ chủ đạo âm điệu bài thơ Cây Tam Cúc của Hoàng Cầm nhắc ta âm l trong bài thơ La Fileuse của Valéry. Cũng cần thêm rằng âm đ = [d] trong tiếng Việt, cũng như âm [l] trong tiếng Pháp, có một giá trị thẩm mỹ đặc biệt. Âm đ luyến láy ở những vị trí ưu đãi, còn nhắc đến câu thơ Hoàng Cầm rất cảm động:
Em ngồi
đâu, Chị đứng đâu
Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư
không
Ngoài giá trị và vị trí của một phụ âm đ, còn giai điệu toàn bài thơ, gồm những câu dài ngắn, so le, với nhịp điệu thường xuyên thay đổi. Bắt đầu bằng nhịp cổ điển, sau đó tiết điệu biến đổi, khi dìu dặt, khi rắn rỏi, lúc khoan thai, nói chung là nhẹ thoảng. Có thể nói Cây Tam Cúc là một bài thơ ngắn dồi dào nhịp điệu vào hàng đầu trong thơ Việt. Hoàng Cầm phân phối, luyến láy những nguyên âm, phụ âm rất tài tình. Đoạn đầu, bốn âm k (=c) câu đầu vọng lại ở hai chữ (cây / cay), biệt đãi ở câu giữa, “kết” ở chữ “ kết” rồi chữ “quê” (đọc k) câu bốn. Quê em là hình ảnh của hạnh phúc vọng tưởng
Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới chị
võng mây trôi
Quan Đốc đồng... nhịp thơ gay gắt, như định mệnh bức bách đánh dấu bằng âm đ cứng rắn – như trong những chữ đánh đấm, đạp đổ, đấu đá, đau đớn đối lập với câu sau, ung dung, nhẹ thoáng, làm nổi bật những động từ phóng túng, tự do, thoải mái: thả, cưới, võng, trôi đưa đến hư không. Chữ thả dùng rất độc và đắt, nhắc đến những cuộc bố ráp của một quân đội viễn chinh vô kỷ luật. Võng đi với cưới, nhưng kết quả chỉ là mây trôi, như một hạnh phúc tan biến, vô tông tuyệt tích:
Em đứng nhìn theo, Em gọi đôi
Còn lại một mình Em, giữa cảnh mây trôi tan tác. Gọi đôi là gọi Chị, gọi hạnh phúc, gọi vô cùng và vô vọng.
Câu thơ ngắn và đơn giản nhất
Năm sau giặc giã
nhắc lại hoàn cảnh lịch sử, nhắc thoáng qua thôi, nhưng chúng ta đều nhớ đến hằng triệu giấc mơ tình đã cháy rụi, đã tàn lụi trong cơn hoả mộng dài nửa thế kỷ. Thơ Hoàng Cầm trọn vẹn với dân tộc chỗ đó. Giặc giã, tự nó mang theo bạo lực áp bức. Quan Đốc đồng là chức quan địa phương thời Lê, ở đây là hình ảnh của định mệnh, của cường quyền; chữ đốc đồng được chọn, vì âm vang và vì thể chất kim khí cứng rắn, đối lập với tuổi thơ đứa được, đứa thua; với hạnh phúc thanh bình có đi, có đưa là có đến. Thân phận người chị long đong: động từ cưới không rõ chủ từ, qua câu thơ, không rõ Quan đốc đồng cưới chị hay ông ấy chỉ thả tịnh vàng cưới chị. Ai cưới, không biết, về đâu cũng không hay; chúng ta cảm giác một cuộc cưỡng hôn, hay một cuộc hôn nhân chắp nối trong giặc giã. Đau xót nhất là Em đã bảo: Chí đừng đi.
Ta đã thấy Hoàng Cầm dùng động từ rất tài tình. Các nhà thơ mới đều có chủ tâm sáng tạo bằng động từ. Như Huy Cận:
Sóng rủ
nhau đi bát ngát cười
(...) Sóng đã cài then, đêm sập
cửa
(...) Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Hoàng Cầm cũng sành dùng hoán dụ:
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo
trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
(...) cò chở nắng tề phi...
(...) Hàng tre nhả
yếm
Đá nghển trông con
gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
nhưng đặc sắc là những động từ rất chính xác trong trò chơi tam cúc, nhưng lại ẩn dụ tình ý khác: chị gọi đôi cây... Nghé con bài... Em đi đêm... chui sấp ngửa... đổi x e hồng... Em gọi đôi... Dĩ nhiên, người biết chơi tam cúc sẽ thích thú với những động từ gọi, kết, chui, đi đêm (đổi bài) đổi. Thậm chí ta có thể lắp ghép hai câu thơ, để tóm tắt toàn bài:
Chị gọi đôi cây – Em gọi đôi.
Chị chỉ đánh bài tam cúc thôi, còn Em thì mơ tình yêu, đôi lứa. Em sẵn sàng hy sinh những tài sản quý giá nhất, những con bài tốt nhất, tướng điều sĩ đỏ, để hưởng được một thoáng hạnh phúc phù du: Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em.
Giấc mơ tình ái đã đến với Hoàng Cầm từ tuổi lên tám, bên cạnh cô hàng xóm tên Vinh tuổi gấp đôi. Tuổi thơ đã sớm phảng phất mùi tính dục với hơi tóc ấm... đọng tuổi đương thì, và hình ảnh rạo rực, tinh quái:
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Có lẽ trai gái chơi bài xong, mệt quá, lăn kềnh ra ngủ: hình ảnh mộc mạc hồn nhiên của quê nghèo. Chúng ta nhớ bài thơ Cờ người được gán cho Hồ Xuân Hương, có câu: quân thiếp trắng, quân chàng đen, và Hồ Xuân Hương thường có lối chơi chữ như thế. Văn học dân gian đã cho ta những ví dụ chơi chữ tinh tế:
Quay tơ thì giữ mối tơ
Dầu năm bảy mối hãy chờ mối anh
... Biết nhau
từ thuở buôn
thừng
Trăm đứt ngàn nối xin đừng quên nhau
Cấu trúc Cây Tam Cúc hài hoà toả ra một thế giới riêng, trong đó kĩ thuật chơi chữ như biến dạng với những đường khâu, chúng ta chỉ còn thấy một tấm áo đẹp, hay một hoạ phẩm tuyệt vời.
Bình thường, tình ái đưa đến hôn nhân. Trong thơ Hoàng Cầm thì ngược lại, hôn nhân là mối động cơ của tình ái, là giấc mơ tình ái. Hình ảnh xe hồng đẹp và tinh tế. Nghĩa đen của nó là quân bài, nhưng mang hình tượng của xe cưới, xe hoa – ngày xưa đã có phong tục dùng kiệu kết hoa để rước dâu. Trầu cay má đỏ... kết xe hồng... Vẫn người chị ấy, trong giấc mơ hôn phối,
Chị vỡ pha
lê. Bùn
vấy tay
Hồn trong Em chuốc Chị chìm say
Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp
Sinh một đàn con
Mây trắng bay
[Chị Em xanh]
Viển vông, sao mà giấc mơ tha thiết đến thế. Cũng người chị ấy, trên một cánh đồng chiều đông, đã hứa hẹn hão huyền:
Đứa nào tìm được lá Diêu
Bông
Từ nay ta gọi là chồng...
(...) Ngày cưới
Chị
Em
tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
[Lá Diêu bông]
Lễ cưới, trong thơ Hoàng Cầm, là một hình tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ trên hết. Hôn lễ không phải là luật lệ, nghi thức xã hội mà thôi, nó là một thành tựu của tình người hài hoà trong xã hội: hôn lễ là sự đồng thuận giữa hai cuộc sống, trong rất nhiều cuộc sống làm thành đại gia đình, xã hội, dân tộc; là dòng sông hoà hợp để tiếp nối dòng sống của loài người. Hôn lễ là niềm vui của nhân loại qua đám cưới chuột “tưng bừng rộn rã” trong bài Bên kia Sông Đuống. Thơ là hôn lễ của từ ngữ, giữa lòng ngôn ngữ. Từ đó, khi tả một mâm cưới nghèo, chỉ có khoai luộc, Hoàng Cầm đã cấu tứ được một hình tượng đặc sắc:
Cỗ cưới chênh
vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
[Đợi mùa]
Tả củ khoai như vậy là thần tình, và hiện đại: thơ văn Việt Nam dường như chưa có củ khoai nào đa tình đến thế; trong ca dao, củ khoai còn phải chấm mật, ở đây mật vàng mọng sẵn trong khoai, như thân thể cô dâu căng đầy nhựa sống, chín mọng khát khao, chứa chan mật ngọt trần gian. Mà vẫn không quên những khốn khó của nhân gian, không quên thân phận chênh vênh, nâu non rách rưới. Đâu đây, còn phảng phất mùi da thịt cô gái hai mươi
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì
Nơi kia, hơi ấm cô gái lại thơm mùi gạo mới
Đường quê mình dăng hương
tám đỏ
Khép ổ rơm mùa giăng tóc tám xoan
Em quây sân vuông cót tròn nếp quít
Em
nung gạch già thuyền ngả bến than
(...) Hàm
răng nuột nà xít xa dóng mía
vú xuân đường phèn căng bưởi Nga My
Môi hè thạch non hé dưa hấu tía
Cốm sen cuối cành gói lá đài bi.
(...) Anh đi xa Em mới
biết nói thầm
Đường đê chợ Trầm sang mùa Tu
hú...
[Vợ Liệt sĩ]
Hạnh phúc lứa đôi đậm đặc màu sắc dân tộc, mà hơi thơ lại mới mẻ, thắm tươi. Nhục cảm nồng nàn, rạo rực, mà dịu dàng, kín đáo. Cô gái quê trong Nguyễn Bính lúc nhớ người yêu thì cơ thể
Sao cứ đầy lên, cứ rối lên
Cô gái quê trong Hoàng Cầm, cơ thể đầy mà không rối. Cô gái tân thời trong thơ Xuân Diệu rảnh rỗi hơn:
Em gọi thầm anh, suốt cả ngày
Cô gái quê trong thơ Hoàng Cầm mới biết nói thầm khi xa vắng người yêu. Ý không thật, lời không thật, nhưng tình thì thật: vắng anh, cả đời sống nội tâm của em đều thay đổi, mọi đối thoại với người ngoài đều trống rỗng. Nói, là nói thầm, nói với anh hay nói một mình. Câu sau: Đường đê Chợ Trầm... là một câu tả cảnh, ngoại cảnh và tâm cảnh cô gái
Anh đi xa Em mới biết nói
thầm
a
Đường đê Chợ Trầm, sang mùa tu hú
b
Hai câu thơ kết hợp a + b mạch lạc, tinh tế, hay cái hay thường tình của văn chương, của lời nói khéo. Nay ta thử tách rời a ra khỏi b, sẽ có hai câu thơ độc lập, lẻ đôi, và mỗi câu đều có giá trị riêng, nhất là câu
Đường đê Chợ Trầm, sang mùa tu hú
Ý nghĩa không có gì, nhưng âm vang kỳ diệu. Hoàng Cầm có nói “Cái tứ của thơ phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, khó giảng, khó bình, chỉ cảm thấy được thôi”.
Cũng là tiếng tu hú, cất lên đầu mùa hạ, gọi nắng hồng, trái chín và những phiên chợ rộn rã trong thơ Nguyễn Bính:
Tu hú vừa kêu, vải đã vàng
mà âm vang khác. Có thể trong sáng hơn, nhưng không tạo cảm giác mờ ảo, huyền nhiệm như câu thơ Hoàng Cầm. Ánh sáng ấy, là biên giới giữa thơ và văn xuôi.
Nhắc lại tình cảm ở tuổi thơ – tuổi mười hai ở quê vào năm 1934 là còn nhỏ lắm – Hoàng Cầm cùng làm chung với một người bạn, bài Gọi đôi trên đồi chùa Phật Tích, xuân 1974:
Dưới sông kia chẳng quay
đi
Mười hai tuổi cũ biết gì chị ơi
Một con bướm lửa đậu môi
Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm
Ba tầng mây lửa trầm ngâm
Bốn con chim lửa đậu nhầm cỏ hoang.
(...
) Em ngồi đâu chị đứng đâu
Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không.
Ngọn lửa đam mê bừng cháy tuổi thơ của Hoàng Cầm sẽ tiếp nối bập bùng mãi mãi trong thơ anh, cho đến bây giờ “ thì cũng bấy nhiêu ngày đêm nghe lửa reo mòn tuổi tác”. Mượn hình ảnh trong truyện thơ Men Đá Vàng, ta có thể so sánh nhà thơ Hoàng Cầm với người thợ nung men sứ Bát Tràng trong huyền thoại, gan hồng thạch, dạ kim cương, anh Phù Du ngày đêm canh sức lửa.
Lửa của bướm hoa, lửa của đá vàng, thơ Hoàng Cầm, năm mươi năm qua, đã trầm ngâm vàng mười thử lửa.
Tam cúc là trò chơi dân gian trong những ngày tết. Nói là dân gian, nhưng cũng phong lưu
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
hàm ý là cậu bé đi chơi lén đâu đó bên hàng xóm. Chỉ trộm rơm không thôi, thì không lấy gì trầm trọng. Nhưng niềm vui của cậu bé là vụng trộm. Mê say cô hàng xóm hơn mình tám tuổi trong tình chị chị em em, thì có cái gì đó bất chính, mang mùi vị trái cấm. Cậu bé càng biết vậy, càng thiết tha, càng lý thú, cái thú đi đêm thầm lén. Người chị biết vậy mà vẫn để cậu em mơ mộng, vẩn vơ mà vô hại. Biết đâu cô chị chẳng thích thú và đồng loã?
Nghé con bài tìm hơi tóc
ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Trong bài thơ, chỉ có một câu phủ định, nhưng vô vọng. Làm sao “ đừng lớn nữa” làm sao giữ mãi được cõi “thiên đường xanh những mối tình bé dại” (le vert paradis des amours enfantines) như lời thơ Baudelaire? Nhân vật Créon, cuối vở kịch Antigone của Anouilh cũng dặn chú tiểu đồng là “đừng lớn nữa” ( Il faudrait ne jamais devenir grand). Vấn đề của Hoàng Cầm là không thoát ra khỏi được tuổi thơ. Hoàng Cầm ở tuổi sáu mươi, bảy mươi, làm thơ là để sống lại tuổi mười hai “trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi”.
Tuy nhiên, thơ Hoàng Cầm có hồi cố mà không hoài cổ. Anh không tỉ tê, tí ta tí tách. Sử dụng chất liệu cũ để kiến trúc một phong cách thơ mới, Hoàng Cầm thành công. Thơ Hoàng Cầm vừa lạ vừa thân. Sinh trưởng từ tiếng hát quan họ, thơ Hoàng Cầm không phải là một làn điệu dân ca nối dài mà là ngôn ngữ hiện đại của một tâm hồn tân tiến. Đây là điều khó thực hiện, và số người đạt tới không nhiều. Không phải vì tình cờ mà tuyển tập Bên kia Sông Đuống mở ra bằng bài Cỏ Bồng Thi:
Chị đưa Em
đến bến này
Cheo leo mỏm đá
Trước vực
Sau khe
... Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá.
Đến bến là phải đến nơi bằng phẳng, êm ả, ngừng nghỉ. Nhất là nơi Chị đưa Em đến. Sao vẫn cheo leo? Bài này viết năm 1959, nhưng ta không nên giải thích đơn giản bằng vụ án Nhân văn - Giai phẩm mà anh là nạn nhân dài hạn. Vì cùng một năm ấy, anh còn làm nhiều bài khác rất thanh thoát, như Lá Diêu bông, Cây Tam Cúc và loạt bài Đêm Ngũ Hành, không có ẩn ức gì về thân phận. Chính anh nói vào thời điểm ấy anh “ không một phút nào nghĩ tới thời cuộc chính trị và xã hội trước m ắt”.
Cheo leo mỏm đá, theo tôi, là gian nan của người làm thơ, muốn sáng tạo và làm mới thơ mình. Người làm thơ khác người làm kinh tế, nhưng vẫn phải sử dụng một số vốn nhất định, về cảm xúc, tri thức và từ ngữ. Anh phải nhảy múa trên một mỏm đá, trước vực, sau khe; anh làm thơ gì đây, để nói cái gì đây và nói với ai đây? Khắc khoải của Hoàng Cầm cũng là của nhiều nhà thơ, nhà văn khác, những người bị cấm in ấn tác phẩm như anh hay Văn Cao, Trần Dần, đến cả những người có nhiều tự do hơn như Nguyễn Đình Thi, Huy Cận. Người nghệ sĩ vẫn thường muốn tiên tiến về mặt nghệ thuật, nhưng bản thân làm sao tiên tiến được trong một xã hội lạc hậu và trì trệ về tri thức, kinh tế và chính trị? Mỏm đá của Hoàng Cầm cũng cheo leo với nhiều tác giả khác.
Bình thường, nói chuyện thơ, thì chớ nên so sánh người này với người kia, vừa không nghiêm túc vừa kém trang nhã. Viết khéo đến đâu, thiện chí đến đâu vẫn có người giận. Nhưng đành so sánh cho sáng tỏ. Tôi đã nói: Hoàng Cầm kết hợp được tính dân tộc và tính hiện đại trong thơ. Văn Cao và Nguyễn Đình Thi là hai tác giả luôn luôn đấu tranh cho dân tộc và cho hiện đại, nhưng tính dân tộc và tính hiện đại trong thơ hai anh biệt lập với nhau. Xuân Diệu 1940 hiện đại mà ít dân tộc; Xuân Diệu 1950 dân tộc mà ít hiện đại. Huy Cận dân tộc trong tình cảm và hiện đại trong trí tuệ. Dĩ nhiên nói như vậy là sơ lược, thậm chí sơ đẳng. Nhưng tôi mạn phép giản lược, cho bài viết dễ hiểu, vì độc giả thường so sánh và thường hỏi: còn kẻ nọ người kia thì sao?
Bài này bắt nguồn từ một lý do tâm cảm: viết để đáp lại tấm thịnh tình và lòng tin cậy mà Hoàng Cầm đã dành cho bạn đọc ở xa. Mấy năm gần đây nhiều nhà xuất bản trong nước đã liên tiếp in ấn nhiều tác phẩm Hoàng Cầm Men Đá Vàng (1989), Mưa Thuận Thành (1991), Kiều Loan (1992), Lá Diêu Bông (1993), Bên kia Sông Đuống (1993) lấp một khoảng im lặng kéo dài hơn ba mươi năm. Mỗi lần có sách in, anh đều có gửi – rất khó khăn – cho chúng tôi với lời dặn dò: đọc kỹ và cảm thông.
Cây Tam Cúc là một thành tựu nghệ thuật tiêu biểu. Trong một bài thơ ngắn và đơn giản, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ mới, tài hoa và tinh tế, từ cách chọn chữ đặt câu, đến cách xe kết âm thanh, nhịp điệu, màu sắc, hình ảnh, tạo cho người đọc nhiều cảm giác, cảm xúc, tư duy và mơ mộng. Cây Tam Cúc là một thế giới hài hoà trong toàn bộ hữu cơ của thơ Hoàng Cầm, chủ yếu nói lên tình yêu, tình người, tình quê hương xứ sở, trong vẻ đẹp truyền thống lẫn với những gieo neo của thân phận. Đặc điểm thơ Hoàng Cầm là truyền thống ấy lung linh trong ngôn ngữ thơ mới, trẻ trung và hiện đại. Ngôn ngữ Hoàng Cầm đòi hỏi tôi phải có một bài khác, đầy đủ và rộng rãi hơn.
Đặng Tiến
20.9.1993
Kỳ tới: Anh đưa Em về Sông Đuống
Cây tam cúc
Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Đứa được
Năm sau giặc giã Rét
1959 * Bài này còn một câu kết khác: Một chiếc xe đen đi chân trời. Tác giả phân vân. Xin bạn đọc tuỳ tâm chọn. |
Các thao tác trên Tài liệu