Điêu Thuyền
Truyện ngắn
Điêu Thuyền
Miêng
Chị bước đi với những bước chân chơi vơi vô hồn. Cũng không phải là lần đầu tiên trong đời hai bàn chân đong đưa chị vào nỗi u mê vô định như vậy, nhưng lần này thì quả thực là chị cứ như một chiếc lá khô để cơn gió mặc tình cuốn đi lơ lửng, ngập ngừng.
Thỉnh thoảng một bác xích lô tấp tới gần, mời cô hai ơi xích lô cô hai. Chị đủ bình tĩnh mỉm cười đáp lễ. Cái mỉm cười của một Điêu Thuyền sắc nước hương trời nhưng chưa bao giờ làm xiêu lòng Lữ Bố – Lữ Bố của chị. A, Lữ-bố-của-em! Chị khựng lại giữa trời Sài gòn nắng chang chang tháng sáu, một tay đưa lên đầu, vẻ sững sờ như bất chợt vừa khám phá ra điều gì. Chị nhíu mày kêu lên, mắt reo vui:
– Thì ra là tại anh chớ ai? Anh đã cướp đi mất tiếng hát của em rồi chớ còn tại sao nữa?
Tay tự động buông cái xách ra, chị ngồi bệt xuống đường và bắt đầu làm điệu bộ hát. Không ai nghe gì nhưng cứ nhìn chị trong tư thế đó thì người đi đường quay lại cười, bảo chị điên. Phải, chị điên. Hồi mười sáu tuổi hát văn nghệ cho xã, bạn chị cũng bảo điên hay sao mà chịu đóng nhiều màn như vậy, mất bao nhiêu ngày giờ tập dượt. Nhưng khi khán giả ra về hết, một người đàn ông đứng tuổi chờ chị trước cổng trường, bảo:
– Cháu gái, cháu có giọng ca rất hay. Nếu hoa mở gánh hát, cháu làm đào chánh chịu hông?
Chị tròn mắt nhìn, không nghĩ đến chuyện trả lời. Đó là cái mộng chị vẫn nuôi từ hồi mới biết hát tập tành. Ông ta cười:
– Đừng lo, có cái cháu thiếu tập dợt kỹ thực thôi. Rồi hoa sẽ chỉ thêm cho cháu.
Chị về mừng rỡ khoe với mẹ và cười vang vang. Mẹ bảo:
– Cái con này, cười gì mà cứ như con điên vậy. Bao giờ ổng lập gánh hát thiệt hẵng hay chớ chưa gì mà đã cỡn lên.
Ông ta là một nghệ sĩ già về vườn, và nói là làm. Gọi là gánh hát nghe cho nó sang chớ chỉ có một ông già ôm cây đờn kìm, một anh kép trẻ cũng chẳng hay ho gì hơn chị, và ông ta thôi. Tuồng Con Tấm Con Cám thì anh kép trẻ phải hoá trang thành con gái để làm đứa em độc ác hành hạ chị. Tuồng Trầu Cau thì ông già phải dồi thật nhiều phấn lấp bớt các rãnh nhăn nheo làm ông anh hoài công đi tìm người yêu và đứa em trai. Tuồng Phạm Công Cúc Hoa thì ông cạo nhẵn râu đóng vai bà mẹ, ngồi bắt chấy cho hai con trên nấm mộ của chính mình. Và tuồng Thạch Sanh Lý Thông thì ông cố vẽ cặp mắt đã sụp cho rõ to với vẻ dữ dằn đanh ác, mặc dầu chưa ai biết Lý Thông thật có bộ mặt như thế nào... Bộ bốn nương vào nhau mà sống. Hát hết đình này tới miếu nọ, nào có tốn tiền thuê rạp. Cảnh chiến trường thì bẻ vài nhánh cây dắt lên và cảnh khuê phòng thì dùng tấm chăn của ông già đã mòn rã tự muôn đời. Vậy mà cũng có người coi, cũng được thiên hạ vỗ tay và cuộc đời vẫn tiếp tục. Chị cũng tậu được mấy cái áo lụa nội hoá đủ màu tạm thay đổi cho các vai chị đóng. Mà nào có ai đòi hỏi chi nhiều!
Họ đi gần hết các xóm làng khắp miền Nam để hát. Cũng vẫn chừng đó tuồng hát đi hát lại. Được một năm thì bạn anh kép trẻ là lính ở Huế về thăm nhà. Mấy hôm đó trời mưa tầm tã, các đường làng lầy lội nên gánh hát tạm nghỉ vì không ai đi xem. Nhưng nếu có khán giả thì diễn viên cũng không có đủ hơi sức đâu mà gào thi với gió. Anh kép trẻ rủ bạn lính đến chơi tán gẫu. Chuyện lính thì có gì để kể ngoài đời sống phong trần của một quân nhân và những trận đánh nhau. Và làm sao một chuyện tày trời như Tết Mậu Thân ở Huế mà một người lính từ đó trở về lại không lấy làm cái tin sốt dẻo nhất. Kể nhiều chuyện xong, anh lính bảo:
– Đu me , tui có kể tới tháng sau thì cũng hổng tả hết cái ác độc, cái rùng rợn của tụi nó được. Mấy ông bà là nghệ sĩ thì diễn tả mới hết ý chớ tui nói thì nhằm nhò gì. Nhai đi nhai lại hoài ba cái tuồng cũ chán thấy mẹ!
Phải! Phải! Hai ông kép hì hục hơn tuần lễ soạn ra một tuồng mới. Ông kép già chỉ vào mặt anh kép trẻ:
– Thằng sĩ huan ngụy ác ôn kia, mày đã tới ngày đền nợ máu nhân dân rồi.
– Đồ Việt cộng khát máu...
Nhưng ông đâu để anh nói hết lời rủa sả quân miền Bắc, ông bắn anh kép trẻ sĩ quan. Gọi là “sĩ quan” cho cái chết của anh xứng đáng với viên đạn bộ đội mà tiếng nổ là do ông đờn kìm tạo ra, chớ trên cổ áo bộ đồ lính anh bạn cho đâu có lon lá gì. Sau đó thì xác chết lăn vào trong, đội lên đầu cái mũ bộ đội đan bằng tre sơn xanh chạy ra, và cùng với người vừa giết mình xăng xái đào hố chôn tập thể hàng loạt người. Đêm đó chị bận nhiều áo, mỗi lần chạy vô là cởi bớt một lớp rồi chạy ra, như thể một người đàn bà khác đang kêu gào cảnh thân nhân mình bị nạn. Cuối cùng tóc xoã tung, ràn rụa nước mắt, chị chạy hẳn xuống đám khán giả, chạy tuốt ra khỏi cổng đình. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm:
– Hoan hô! Hoan hô cô Diệu!
Bẵng đi mấy năm không nghe tin tức gì của anh bạn lính. Đùng một cái, năm bảy hai anh trở về Nam. Cái hàm anh chỉ là lính quèn mà cái mạng anh lại to, to hơn rất nhiều ông tá, ông uý. Trải bao truân chuyên, anh vẫn còn đủ tay chân để chạy về thăm mẹ, thăm bè bạn xóm giềng. Anh lại kể về mùa hè đỏ lửa, về con đường Quốc lộ số 1 đầy xác người nằm tênh hênh cho ruồi nhặng đậu, về những thân thể nhầy nhụa máu me cố lê lết từng tấc đường, về những bàn chân còn sống chạy như quỷ ám, về những đứa bé đi lang thang thất thểu như những con ma Hời, về những trẻ sơ sinh ngậm hoài vú mẹ hãy còn dính trên thân thể quánh máu...
Lại một tuồng khác ra đời. Lại những lời đanh thép tàn mạt anh kép trẻ sĩ quan nhổ vào mặt ông kép già Việt cộng, và lần này thì anh ta bắn chết ông kép già. Nhưng ông kép già Việt cộng kiên trì với ý chí quyết giải phóng miền Nam, nếu chưa xong thì không chịu chết, ông đờn kìm phải tạo ba tiếng nổ chát chúa, ông mới chịu ngã gục thực sự? Kết quả là ba năm sau, chính cái anh đạp xe ba gác chở hàng ở xóm, ngày nào vẫn đi xem tuồng say sưa, vẫn vỗ tay hăng hái, bây giờ dắt anh công an khu vực từ Bắc vào, tới còng tay hai người kép hát.
– Đi, các anh vào trại mà hát với hỏng.
Người đứng xem chật ngõ. Ai đó thậm thụt nói:
– Ua, họ có làm gì đâu, họ chỉ hát thôi mà?
Anh công an cười gằn, giọng vẫn đều nhưng rất lạnh:
– Chỉ hát thôi chớ làm nên trò trống gì. An nhàn thế sao không muốn yên, lại hát điều bậy bạ phỉ báng cách mạng?
Ngày ấy cũng như bây giờ, chị không khóc. Chị đã khóc quá nhiều trong các tuồng chị đóng. Chị đứng sững, mắt mở to nhưng hình như không thấy gì, hai tay đưa lên trời rồi hạ xuống, môi mím chặt. Dưới cái nắng chói chang mùa hạ, mắt chị đua với ánh mặt trời túa đom đóm vì uất, vì bất lực. Nhưng chị chỉ lặng lẽ nhìn theo, quên cả khấn Trời Phật phù hộ cho họ mau về, để đứa con trong bụng chị khi ra đời không những có cha mà còn có ông ngoại nữa.
Chị về quê với mẹ. Ngày qua ngày túi tiền dành dụm teo đi mà bụng thì căng ra, chị vẫn một mình. Rồi thằng con trai ra đời, chị vẫn một mình vẫn chờ đợi, chờ đợi mỏi mòn như thiếu phụ Nam Xương. Thằng nhỏ bụ bẫm một hôm nóng sốt, bà bác sĩ trưởng trạm y tế ngoài Bắc vào bảo nó bị lao. Bà chích cho nó hai ngày hai mũi thuốc vào hai cái mông da mỏng như giấy quyến. Ba tháng sau chị tê dại nhận thấy cặp chân con mình cứ teo tóp ngày một ngày hai...
Ông đàn kìm tới tìm chị:
– Diệu à, hay là chú cháu mình ra chợ, tao đờn mày ca kiếm tiềng.
Chị không hát nổi. Chị không quen hát một mình. Với lại giọng chị như cứ lạc đi, không ăn nhịp nữa. Chị mua bộ bài ra ngồi ké túp lều người bạn hàng xén ngoài chợ, bói cho người ta. Những ngày mưa gió không hát, ông kép già thường bày chị cách bói:
– Cứ con rô là có tinh tức, tinh dui hay buồng còn tì con gì đi theo. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Con chuồng là tiềng mới dô hay sắp dô. Cứ nói sắp dô cho bà con sướng. Họ có nói dô rồi thì nói nó còn lấp ló ngoài cửa, chờ dô nữa. Còn con cơ thì do chữ Tây mà ra, là con tim, là có chiệng yêu đương tình cảm gì đây.
Rồi ông cười khà khà:
– Bói cho ai, tao cứ trông mặc mà bắc hình dong, mừ lần chắc mẫm hết chính. Hồi đó trong đàng, ngay cả ông bà bầu cũng tinh hoẻ tao bói. Mẹ, cái thời dàng son thiệt!
Ông truyền cái thời-dàng-son đó cho chị nên chị cũng đủ nuôi con qua ngày. Nhưng chẳng bao lâu thì công an lại cấm, bảo chị gieo rắc mê tín dị đoan, nếu còn tiếp tục thì sẽ bắt đi cải tạo, cạo rửa cho sạch cái đầu u mê nhớp nhúa đi. Chị đành gởi thằng bé nhờ bà ngoại trông nom, lên Sài gòn đất rộng mênh mông không ai kiểm soát xuể thì hy vọng có thể sống bằng cái nghề này được...
Chị quỳ xuống trước mặt Lữ Bố. Bàn tay mặt cầm ly rượu với ngón út cong lên như một cánh ngọc lan. Tay chị từ từ nâng ly rượu lên khỏi đầu một chút – cánh tay không được thẳng, phải giữ dáng điệu cái gì cũng cong cong thật mềm mại, thật đàn bà, thật ỡm ờ, thật gợi cảm, thật quyến rũ và thật đài các. Tay trái theo câu hát vẽ thành một nửa vòng tròn từ dưới đưa lên rồi dừng lại kề bàn tay mặt, trong tư thế dâng rượu bằng cả hai tay, trang trọng, phục tùng. Đôi mắt mà cách hoá trang làm cho thêm to, thêm xếch, thêm tình tứ đẩy đưa thì chị liếc xéo Lữ Bố, vừa lẳng lơ, vừa âu yếm, vừa ra vẻ e ấp thẹn thùng.
Bao nhiêu tuồng chị đã diễn rồi, bao nhiêu vai tiểu thư công chúa chị đã thủ rồi, nhưng chỉ có màn này, màn Lữ Bố Hí Điêu Thuyền là chị ăn ý nhất. Chị đóng vai đó nổi bật, tuyệt vời, cực kỳ thành công và mãn nguyện. Chị sống trong Điêu Thuyền và là Điêu Thuyền, để chuốc rượu nồng cho Lữ Bố. Chị cũng thích tiểu thư Mỵ Nương, ẻo lả trong căn bịnh tương tư để khi gặp Trương Chi thì vỡ mộng và truyền bịnh lại cho chàng chèo đò khốn khổ ấy. Chị cũng thích công chúa Mỵ Châu, trong đêm thướt tha chạy với cái áo choàng trắng trong suốt như tơ trời, với mái tóc xổ tung, khi gặp vua cha thì nũng nịu nói dỗi “Con tìm phụ vương đi nơi nơi. Vì sao cha yêu trán hoen sầu? Phải chăng vì thành xây không...” Ô, chị không mê lắm. Chị đã rứt hết lông ngỗng trên chiếc áo ngự hàn để đánh dấu đường đi cho Trọng Thuỷ, nhưng hình như chàng tìm không ra, vì chị không gặp. Chị không gặp anh ấy ở đâu cả, trừ ở Lữ Bố Hí Điêu Thuyền...
Người đi đường bắt đầu để ý chị. Họ dìu chị vào ngồi dưới bóng râm và nói với nhau:
– Tội nghiệp bây giờ sao lắm người quẫn trí quá!
Chị gật đầu, đưa tay sờ soạng vừa tìm vừa hỏi:
– Bà coi chuyện gì?
Người ta nhìn nhau ái ngại. Chị nhớ rồi, cặp vợ chồng ấy sang trọng và anh chồng thì cực kỳ ít nói. Khi quẻ bài lật ra, chị nhìn họ chăm chú, không biết nói gì. Vì nó lạ quá. Ai tới chị bói bài cũng với một ước mơ giản dị là đi xa, coi cho biết có được tới nơi tới chốn bình yên không. Cứ như một cơn sốt đi. Ai cũng muốn, ai cũng liều, cầm bằng như đánh cá mạng người. Nhiều người cũng vì đi mà sạt nghiệp trắng tay. Nhiều người cũng vì đi mà gia đình tan nát. Nhiều người cũng vì đi mà làm mồi cho cá biển. Nhiều người cũng vì đi mà đem thân làm nô lệ xứ người... Rồi họ lọc lừa gạt gẫm nhau, tán tận. Ban đầu thì gạt người dưng, rồi tới gạt người quen và cuối cùng thì gạt người thân. Ai vẫn thường nói người Việt Nam ta không có thói quen đi xa, không bao giờ muốn rời khỏi lũy tre làng?
Nhưng cặp này không coi để đi xa. Chị thấy chung quanh anh có rất nhiều bạn bè, nhưng lúc nào lật ra cũng có con xì bích. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Chị nói:
– Hôm nay bài không lên. Thôi mời ông bà bữa khác trở lại.
Người ta lại nhìn nhau, lại bàn tán không biết có nên đưa chị đi nhà thương không. Vài người lắc đầu vẻ thương hại, bỏ đi. Cặp vợ chồng sang trọng ấy cũng đi ra. Họ vừa tới cửa, không biết cái gì xui giục, chị bỗng dưng cất giọng:
– Đờn kêu tích tịch tình tang. Ai đem công chúa lên thang mà dìa!
Lạ! Chị giật mình vì cái ngân nga của chính giọng mình. Vậy mà bao lâu nay chị cất tiếng không lên? Hai vợ chồng kia cùng quay lại. Rồi chị theo họ, ông bà bầu một gánh hát lớn ở Sài gòn. Và từ đó, chị sống đổi đời, không thấp thỏm nay tới căn gác này mai đi gác nọ để trốn công an vì mang tội gieo rắc mê tín dị đoan nữa.
Chị tập dượt chăm chỉ, hết lòng. Buổi trình diễn đầu tiên run lập cập từ đầu đến chân bởi chị chỉ quen với bầu không khí thoáng giữa trời ở sân đình sân miếu, với tiếng ồn ào la ó của đám con nít. Bây giờ thì sân khấu thênh thang nhưng kín bưng và khán giả im phắc, nghiêm chỉnh đợi chờ. Khi tấm màn nhung đỏ sẫm trịnh trọng kéo lên, chị khép nhẹ mi, tự nhủ thầm không thể lùi lại phía sau. Trước mặt chị không phải nét mặt thuần hậu lo âu của bà mẹ tiểu thư Mỵ Nương mà là khuôn mặt võ vàng của mẹ già chờ từng ngày những đồng bạc chị gởi về.
Mỵ Nương uyển chuyển như sương khói, hờ hững trễ tràng như mây trời, mềm mại tươi thắm như nụ hoa vừa nở, ẻo lả thướt tha trong chiếc áo lụa màu xanh đến ngồi ở cửa sổ chờ nghe tiếng hát Trương Chi. Cô gái hầu sửa lại cái trâm trên tóc nàng và quạt nhẹ cho nàng – nhẹ tới nỗi cứ như thể nếu quạt mạnh hơn sẽ làm bay mất Mỵ Nương. Mi nàng hơi sụp xuống, che dấu ánh mắt u buồn như đêm đông. Hai tay nàng mềm nhũn và nuột nà như những cọng bún, e ấp ôm lấy hai vai như thể muốn níu giữ chính mình. Rồi mông lung nhìn qua cửa sổ là đám đông khán giả, nàng cất tiếng than não nùng, day dắc buồn và truyền cảm đến rợn người... Nếu quả thật nỗi buồn là vẻ đẹp sang cả nhất mà hoá công chỉ dành riêng cho người đàn bà, thì rõ ràng mối u tình của Mỵ Nương đã được bộc lộ một cách cực kỳ quý phái, làm não lòng người. Tiếng vỗ tay vang lên sấm nổ. Và từ đó, tai chị quen với những lời ca tụng. Từ đó, mắt chị quen nhìn tên mình viết trên áp phích dán nhan nhản khắp các con đường.
Ông bầu vẫn luôn luôn ít nói. Nếu có dịp mở miệng ra thì anh luôn luôn kèm theo một câu “ thà chết trẻ hơn sống già vô ích”. Và anh có biệt danh là ông “thà chết trẻ”. Ngoài những lúc đóng tuồng, anh có một cuộc sống khép kín hoàn toàn. Vãn hát là anh cùng vợ ra về ngay, có khi đi vội vã với cả phấn son hoá trang của Trương Chi hay Lữ Bố. Với chị, anh giữ một khoảng cách đúng mực giữa một người đàn ông và người đàn bà, giữa một nữ diễn viên và ông chủ. Gặp nhau anh chỉ mỉm cười, chào thật ngắn rồi thôi, như thể họ chưa bao giờ quen nhau, chưa bao giờ chị là Điêu Thuyền ngồi trên đùi anh là Lữ Bố. Bà chủ bầu thì lúc nào cũng bặt thiệp, duyên dáng và tốt bụng với tất cả mọi người. Bà quán xuyến hết mọi việc từ việc trả lương cho diễn viên, người làm, tới việc ra hầu toà như có lần anh hề làm reo đòi tăng lương không thì anh nghỉ. Bà thản nhiên thay thế màn hề bằng màn tân nhạc. Anh hề mất việc khơi khơi, kiện. Ra toà, bà bầu bình tĩnh và nền nã đoan trang như một mệnh phụ, nhìn thẳng vào ông chánh án, mỉm cười:
– Tôi phận đàn bà mà nếu không cứng rắn thì mạnh ai nấy làm reo, làm sao tôi điều khiển nổi một gánh hát cả ba bốn chục người?
Nhưng rồi một lần, chỉ một lần thôi mà sẽ đánh dấu trong em trọn đời. Lữ Bố đưa quạt lên che cho quan Tư Đồ không thấy là chàng đang âu yếm hôn Điêu Thuyền. Mặt anh kề sát mặt em, mắt anh mỉm cười. Em hoảng hốt tự hỏi làm sao lại có thể gần nhau đến vậy. Và tâm hồn em như dãn ra, cái kỳ diệu ấy thấm lịm vào người. Em nhắm mắt lại, giữ hoài hình ảnh đôi mắt anh cười thật sát bên em. Mắt anh nói quá chừng làm em bối rối không hiểu hết thứ ngôn ngữ riêng tư của nó – một thứ ngôn ngữ kín đáo, đằm thắm, nồng nàn. Nó reo vui trong mắt anh làm em nín thở, chìm đắm trong nỗi u mê ngan ngát tuyệt vời. Anh gần em quá, gần em quá chừng. Không gì có thể gần hơn như vậy nữa. Nó vừa làm em sợ, vừa làm em hân hoan vô tả. Một mùi hạnh phúc tinh thuần làm em nao lòng. Hình như trái đất ngừng quay, sao em choáng váng. Hình như vũ trụ ngừng thở, nên em như chết ngộp. Lúc đó em quên hết đất trời. Em cũng quên tuốt hình ảnh tiều tụy của mẹ vừa nhóm lửa vừa trông chừng thằng cháu ngoại lê lết dưới sàn. Em cũng quên tuốt là nó không bao giờ bước đi được với đôi chân tàn tật.
– Lại làm bộ điệu như đang đóng tuồng. Bà con có nghe cổ hát gì không? Sao cổ nói thì ra tiếng mà hát thì lại không ra? Nè cô, cô muốn nói cái gì?
Em muốn nói cái gì? Về chuyện gì kia? Về chuyện cái đêm kinh hoàng người tài xế của anh hớt hải trở lại rạp báo tin cho cả đoàn biết là anh vừa bị công an bắn hạ? Họ nói khám phá trong nhà anh chị có vũ khí và truyền đơn chống chính quyền. Chống chính quyền! Anh ơi, nghe ghê gớm quá. Anh có làm chuyện đó thật sao? Nhưng anh chống cự làm gì cho họ bắn anh tức tưởi như vậy chớ?
– Nè cô, nhà cô ở đâu để tui đưa cô về giùm?
A, chị nhớ ra rồi. Nhà chị ở rạp hát. Nhưng ngay cái đêm hãi hùng ấy thì mọi thứ đều bị niêm phong. Bà chủ vào tù. Thế là mảnh đời riêng tư của họ đã gắn liền với số phận chung của bao sinh mạng. Đoàn hát tan rã mỗi người một nơi, nín thở, nghe ngóng. Đám tang của ông bầu bị cấm tổ chức rình rang, nhưng mấy ông bà nghệ sĩ mà, cứ họ chường mặt ra đường là cả khối người mê hát đi theo. Thành ra thiên hạ vì lòng ái mộ và tò mò đi theo người chết đã đông, đi theo xem người sống còn đông hơn nữa. Có nhiều người sụt sùi. Xe tang cứ nhích từng bước. Nhiều con đường tắt nghẽn. Nhân đám tang này, người ta xầm xì bàn tán về cái chết nữ nghệ sĩ Thanh Nga trước đó không lâu.
Rồi bà bầu một đoàn khác mời chị, đầu tiên là Lữ Bố Hí Điêu Thuyền. Cũng hay, đời chị lúc nào cũng có người mời đóng tuồng. Hai tay nâng ly rượu lên ngang mày, giọng chị thánh thót ngân nga:
– Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu...
Chữ “trước kính” chị lên thật cao, sau đó giọng xuống dần và tới chữ “hoàng” thì phải xuống thật thấp. Chữ “chấp” chị lại lên thật cao để chữ “hèn bồ” xuống thấp rồi giọng lại rướn cao lên ở chữ “liễu” với giọng rung rung kéo dài như vô tận.
Nhưng hình như còn tệ hơn mấy hôm dượt thử với anh kép đoàn này, bởi dù với tất cả điêu luyện hồi giờ, giọng chị vẫn không thoát ra khỏi cổ. Chị chỉ nghe loáng thoáng một vài tiếng đứt quãng. Lữ Bố và Quan Tư Đồ đều trợn mắt nhìn chị, họ che quạt nhíu mày bảo chị hát to lên. Chị lại hát, vận hết sức mình. Họ lại nhăn mặt. Một tiếng huýt sáo. Rồi nhiều tiếng huýt sáo vang lên phía khán giả. Tấm màn nhung bàng hoàng hạ xuống. Tiếng la nho nhỏ, tiếng chân chạy tới gần kéo chị đứng lên. Chỉ còn như là một cái xác, chị ngẩn ngơ không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Bởi vì anh ơi, người Lữ Bố mới đó không phải là anh. Có cái gì trong em nó chối từ những ve vuốt ấy. Đôi mắt anh ta cũng nhìn sát bên em nhưng không cười, nó câm nín, vô hồn, em không nghe một lời nào và em dửng dưng không có một xúc cảm nào.
Nhưng em đâu biết mình đón nhận cái nhìn đó nơi anh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ? Vãn tuồng, trong khi anh ra về vội vã hơn mọi ngày thì em vẫn ngồi uể oải bên cánh gà nhìn mông lung xuống rạp vắng teo. Từng hàng lưng ghế cứ như những tấm bia mộ lạnh lẽo chạy dài, chạy dài ra mãi. Rạp hát thênh thang buồn như nghĩa trang. Em ngồi đó, lặng lẽ nâng niu ánh mắt cười của anh, nó mới mẻ quá làm em vẫn còn choáng váng, nó thân ái quá làm em lịm ngưòi, nó đẹp quá làm em sững sờ. Và anh ơi, nó là của anh dành cho em, cho riêng em thôi!
Chợt một nỗi phiền muộn không tên, một nỗi bồn chồn vô cớ, một cảm giác hụt hẫng ngột ngạt xen lẫn với niềm hạnh phúc đứt quãng xâm chiếm em. Em vẫn còn trong bộ áo Điêu Thuyền. Rồi em nghe cái tin khủng khiếp ấy. Vậy em là Điêu Thuyền nhận hạnh phúc và bất hạnh từ anh. Đầu óc em ráo hoảnh, đặc cứng trước hung tin đó. Em không tin vào tai mình, em không tin chú tài xế của anh, em không tin ai cả, nhưng em biết là anh thực sự xa em nghìn trùng. Những quẻ bài sau này em bói một mình cho anh, nghĩ tới anh, em thấy có một chiếc quan tài... Vậy mà trong đầu óc chằng chịt buồn phiền, chưa bao giờ em có ý nghĩ là một ngày nào đó, trên cõi đời này lại không còn có anh, và như vậy thì cũng không còn có em nữa – bởi vì làm sao người ta sống mà không có tình yêu tiếp sức? Thà chết trẻ...
Thiên hạ rầm rập chạy tới bên em. Có người la lên giựt tóc mai cho cổ tỉnh. Ba, chạy đi lấy cho chị hộp cù là. Họ muốn lột quần áo em ra, em ráng thều thào đừng... đừng... để Điêu... Ơ thì Điêu Thuyền điêu bè gì cũng được, mà cũng phải cởi bớt ra ở cổ cho dễ thở chớ, hổng thấy đang xỉu hay sao. Em muốn gượng ngồi dậy, muốn nói là em đâu có xỉu. Việc gì mà xỉu? Chỉ tại trên tóc Điêu Thuyền đủ thứ trâm cài lược dắt làm đầu em nặng quá chao đi, chao đi... Anh ơi, đầu em nặng quá, nặng quá, em không chịu nổi sức nặng... không chịu nổi...
Không biết sau khi mắc kế liên hoàn của quan Tư Đồ, cuộc đời Lữ Bố ra sao. Còn anh thì đã bỏ em rồi, bỏ em mãi mãi. Anh thật xa, thật xa, xa em quá chừng – nhưng ánh mắt anh ở lại, vẫn còn đó, vẫn theo em ngọt ngào. Nó sẽ theo em hoài hoài, khi em cười hay khi em khóc, trên sân khấu đời cũng như sân khấu tuồng. Ôi kỳ diệu thay là cái cười của mắt.
Bây giờ thì ngồi sát lại em thêm chút nữa đi anh, và nhìn em , và cười với em nữa đi... Đó, nh ư vậy, để em dâng cho Lữ Bố của em một ly rượu nồng. Đây, uống đi anh, uống cho hạnh phúc ngắn ngủi của em, uống cho nỗi buồn trầm mặc của em. Và uống đi anh, cho những giọt yêu đương hiếm muộn như những giọt cam lồ nuôi em bớt khổ ải nhọc nhằn với cuộc đời còn lại...
Người tò mò đứng xem càng lúc càng đông. Nhiều xe hơi cũng dừng lại làm giao thông bị nghẽn một khúc đường. Chị mỉm cười nhìn mọi người – nụ cười của một Điêu Thuyền sắc nước hương trời. Và chị quỳ xuống, tay phải làm như cầm ly rượu, với ngón út cong lên như cánh ngọc lan, tay trái vẽ một nửa vòng tròn từ dưới đưa lên rồi tựa kề tay mặt. Mắt chị lim dim mơ màng và liếc xéo đưa tình, chị cất tiếng lên – và lạ chưa, người ta nghe giọng chị ngân nga lảnh lót, truyền cảm đến rợn người:
– Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu...
Bỗng người đứng xem kêu lên:
– Trời ơi Điêu Thuyền chớ ai? Nữ nghệ sĩ Diệu Lan chứ ai!
Vài người ứa nước mắt:
– Trời cao đất dày ơi, sao cổ lại nên nông nỗi này trời?
Và không hẹn, mọi người đồng thanh kêu lên một lượt:
– Điêu Thuyền! Điêu Thuyền!
Chị nhìn lên ngơ ngác, thức dậy sau một cơn mơ. Nắng Sài gòn chang chang tháng sáu bỗng tối sầm lại, vài giọt thánh thót rơi, ban đầu còn ngập ngừng rồi bỗng túa ào ra. Nhưng không phải trời mưa. Mà là Điêu Thuyền bật khóc.
MIÊNG
Paris, Juillet 1994
MIÊNG sống và làm việc (quản thủ thư viện) tại Pháp. Trước 1975, chị sống tại Sài Gòn và đã bắt đầu sáng tác (một tập truyện ngắn đã được xuất bản). Mấy năm gần đây, truyện ngắn của chị đã xuất hiện trên báo chí Bắc Mỹ (Hợp Lưu, Thế Kỷ 21). Đây là truyện ngắn đầu tiên đăng trên đất Pháp, Miêng đã dành cho Diễn Đàn. Xin cảm ơn tác giả và trân trọng giới thiệu với độc giả. |
Các thao tác trên Tài liệu