Hồi ức tuổi thơ: Ăn Tết làng dừa
Ăn Tết ở làng dừa
Văn Ngọc
Ra
khỏi trạm kiểm soát
phố Yên Ninh, chúng tôi tiếp tục đi lẫn vào đám người tản cư, tiến dần
ra phía
bờ sông.
Hôm đó là ngày 15-1-1947, một ngày đầy những hồi hộp, xúc động, mà
chúng
tôi sẽ
không bao giờ quên được, 3500 tự vệ thành được lệnh trà trộn với 2500
đồng bào
tản cư, công khai rút ra khỏi Hà Nội.
Địa
điểm hẹn nhau của chúng tôi là ở trên Chèm, Vẽ. Từ đây lên Chèm, Vẽ,
phải đi
qua bãi Phúc Xá, rồi cứ dọc theo bờ sông mà đi, chúng tôi đã dặn nhau
như thế
từ trước khi khởi hành ở đình Hàng Bạc.
Giờ
đây còn ở trong địa phận phố Yên Ninh, dưới tầm mắt của địch, chúng tôi
còn
phải cảnh giác, không ai nói với ai một lời, làm như không quen biết
nhau.
Thanh niên tự vệ, trước khi ra tới đây, đã phải bỏ lại hết cả những bộ
đồ kaki
và vũ khí, để chỉ ăn mặc như thường dân. Tôi đóng chiếc quần dài xám và
cái áo
vét xanh thẫm đã cũ của thời kỳ còn học ở Trường Mỹ thuật, vai đeo
balô, ngoài
ra không mang theo một cái gì hết. Tên ngồi ở chiếc bàn kiểm soát hỏi
tôi trước
đây làm gì, tôi bảo tôi là học trò, thế là đi thoát.
Hồi
nãy, ở bên đình Hàng Than, tôi còn xách theo cả một bị lựu đạn quả na,
có đến
gần hai chục quả. Từ lúc rút đi khỏi phố nhà, qua phố Hàng Vải thâm để
lên tập
hợp ở đình Hàng Bạc, tôi vẫn tiếc rẻ vác theo, mãi đến đình Hàng Than
mới chịu bỏ lại.
Kể
ra ngày đó, mới 14 tuổi đầu, mình cũng ngây thơ, cứ tưởng rằng có thể
đem theo
ra cả một bị lựu đạn mà không bị khám xét ! Số tiền 7000 đồng bạc lẻ mà
tôi vơ
vét được trong két của thày tôi, toàn là giấy bạc nhỏ, cứ vướng cồm cộm
ở trong
người, cũng may mà không bị lấy mất. Số tiền này, tôi phải đem ra cho
gia đình
ở ngoài hậu phương. Mọi người đều trông chờ vào đó để sống tạm vài
tháng, một
năm, nếu không có kế sinh nhai nào khác.
Kỷ
niệm về chặng đường từ đình Hàng Bạc ra tới phố Yên Ninh lâu ngày cũng
đã mờ
nhạt. Tôi chỉ còn nhớ có mỗi một hình ảnh. Đó là hình ảnh anh tự vệ
đứng gác
trên một ụ đất ở đầu đằng này phố Yên Ninh. Lúc đi đến gần, tôi mới
nhận ra
được khuôn mặt quen thuộc của anh. Đây chẳng phải ai xa lạ, mà chính là
anh
Tăng, một sinh viên Trường Mỹ thuật, học trên tôi hai, ba lớp. Tôi nhìn
nét mặt
bình thản và cương quyết của anh mà trong lòng không khỏi khâm phục.
Thì ra anh
Tăng cũng ở trong số " những người ở lại ". Tôi vừa bước đi theo dòng
người, vừa tiếc rẻ vì phải rút ra ngoài, nhưng cũng vừa lo lắng hộ cho
các anh
ấy còn ở lại trong này.
Trời
mưa dầm dề, nhưng cũng chỉ là mưa phùn. Tôi không còn nhớ rõ là đã đi
qua những
đâu, và trong bao nhiêu lâu nữa. Chỉ nhớ rằng chúng tôi đã "đêm đi
ngày
nghỉ", để đề phòng địch khám phá ra được là đại bộ phận lực lượng
chiến
đấu của ta ở trong Hà Nội đã rút ra ngoài, và sẽ tìm cách truy kích.
Lúc
này, lũ bạn bè cùng phố đã gặp lại nhau đông đủ. Trong bọn, ngoài anh
Hợi và
anh Thém thợ da ra, còn tám chín đứa chúng tôi đều thuộc hạng nhàng
nhàng, từ
16 đến 18 tuổi.
Quả
thật, tôi cũng không còn nhớ có những ai trong đám này nữa, chỉ nhớ
chắc chắn
là có anh Hợi, anh Thém, có Nhượng, thằng bạn thân nhất của tôi ở phố,
Quang,
Chấn, Đại và tôi. Đại là một cậu bé liên lạc ở phố Hàng Bút, vừa mới
nhập bọn
với chúng tôi. Cậu bé này lúc đầu không ai để ý đến lắm, nhưng sau này,
trên
đường đi lên Sơn Tây, bỗng nhiên trở thành một nhân vật quan trọng, một
cứu
tinh đối với chúng tôi. Chính y đã dẫn chúng tôi đến "làng dừa".
Đoàn
người khá đông, mà lạ sao đi qua các làng không thấy có tiếng chó sủa
và cũng
không thấy bóng một con chó nào ở trên đường. Thì ra ở các làng xung
quanh đây,
người ta đã được lệnh giết chó để bảo vệ bí mật, tránh không cho địch
biết được
mình đi qua những đâu và tới đâu, vì chỉ nội ngày hôm nay, hay ngày mai
thôi,
bọn chúng sẽ biết.
Có
lẽ cũng nhờ vụ giết chó này, mà đến làng Vẽ, một làng ở ngay cạnh Hà
Nội, xưa
nay vẫn nổi tiếng về món thịt chó, mà chúng tôi đã được thả cửa đi ăn
thịt chó
ở các hàng quán : nào là thịt chó nấu rựa mận, nào là thịt chó luộc,
nào là dồi
chó, chả chó, v.v. Lần đầu tiên trên đời, tôi được nếm những món, mà từ
trước
tới nay ở Hà Nội bọn trẻ chúng tôi chưa bao giờ được ăn, mà trên thực
tế lại là
những món ngon bất hủ, mặc dầu lúc đó, chúng tôi chưa ai biết uống rượu
để
thưởng thức món thịt cầy này !
Ở
ngay
tại làng Vẽ, ban chỉ huy cho tập hợp tất cả các thanh niên tự vệ lại để
phổ
biến chỉ thị : ai muốn tòng quân và ai không có gia đình, nhà cửa ở hậu
phương
thì ở lại, còn ai phải về với gia đình, hoặc có nhà ở nhà quê, thì cứ
việc về
tạm quê mình.
Trong
bọn tôi, chỉ có mình anh Hợi là dứt khoát xung vào bộ đội ngay từ đầu.
Anh Hợi
năm ấy vừa học xong PCB và vừa bắt đầu học năm thứ nhất Trường thuốc,
thì đánh
nhau. Ở phố, anh là người chỉ huy chúng tôi về quân sự. Nhượng, em ruột
của
anh, sau đó ít lâu cũng đi bộ đội, và sau ngày hoà bình lập lại ở miền
Bắc,
Nhượng vẫn ở lại trong quân đội và sau này làm đến chức đại tá.
Quang
sau này được giao nhiệm vụ trở về thành làm công tác vận động trong
giới học
sinh.
Còn
anh Thém, người thợ da, làm việc cho thày tôi trước đây, đến lúc này
mới "xin phép" tôi về quê với vợ con. Anh xin phép tôi, vì tôi là con
ông
chủ,
theo như cách đối xử ngày xưa giữa người nhà, người ở, với chủ.
Tôi
thấy ái
ngại cho con người hiền lành, trung thực ấy. Bị điếc từ hồi còn nhỏ,
anh sống
giữa gia đình chúng tôi, làm việc rất đắc lực cho thày tôi và được thày
tôi đặt
làm thợ cả, coi cả một xưởng làm đồ da, nhưng không bao giờ tôi đoán
biết được
những ý nghĩ sâu kín, cũng như những tâm trạng vui, hay buồn của anh.
Không
biết anh có cảm thấy rằng xung quanh anh lúc này mọi sự đương đổi thay,
và cái
thời người nhà, người ở, phải giữ khuôn phép với chủ như những người nô
lệ, bây
giờ cũng đương đi vào quá khứ ?
Đúng
là lúc bấy giờ phải chọn lựa, mà chúng tôi lại đang tuổi bay nhảy, chưa
biết
nghĩ gì đến tương lai. Đến ngay cả việc về với gia đình lúc ấy, cũng
chẳng ai
thèm nghĩ tới vội. Cuộc chiến đấu ở trong thành trong suốt một tháng
trời rõ
ràng đã làm cho tình bạn của chúng tôi, những đứa trẻ đã cùng lớn lên
trong một
khu phố càng thêm thắm thiết. Trên đường rút ra hậu phương, chúng tôi
lại càng
quấn quít lấy nhau hơn. hình như chúng tôi đã linh cảm thấy những sự
chia ly
không thể tránh được của ngày mai.
Nhưng
bây giờ, không đi vào bộ đội thì biết đi đâu ? Còn có mấy ngày nữa đã
đến Tết
rồi. Đã không được ăn Tết ở trong thành, ít ra chúng tôi cũng phải ăn
Tết chung
với nhau một chuyến ở ngoài này. Đương tính toán để tìm ra một giải
pháp, chợt
cậu bé ở phố Hàng Bút đi theo chúng tôi đưa ra một ý kiến : hay tất cả
kéo nhau
lên nhà chị ruột cậu ở trên Sơn Tây ? Mọi người đều tán thành ngay.
Thế
là bọn chúng tôi mấy đứa từ biệt anh Hợi, từ biệt đồng đội, từ biệt
làng Vẽ,
lên đường đi Sơn Tây.
Tới
Sơn Tây, cậu bé dẫn chúng tôi đến làng chị cậu ở. Tên làng đó là làng
gì, lâu
ngày tôi cũng không còn nhớ nữa, nên cứ tạm gọi là "làng dừa". tôi
vẫn hy vọng tìm lại được địa điểm của làng này trên bản đồ, hoặc bao
giờ có dịp
về, đi qua Sơn Tây, ghé lại thăm.
Đó
là một làng khá trù phú, đường đi trong làng lát gạch sạch sẽ, giống
như làng
Bông, quê ngoại tôi ở Hưng Yên, mà sau này tôi được biết. Trong làng có
khá
nhiều nhà gạch, nhưng hình ảnh đập vào mắt chúng tôi mạnh nhất lúc ấy,
là những
cây dừa. Làng này sao mà trồng nhiều dừa thế, và đi chỗ nào cũng gặp hồ
ao !
Thời đó, chúng tôi chưa đứa nào biết đến miền Nam, nên trông thấy dừa
nhiều
thế, lấy làm lạ lắm.
Nhà
của bà chị cậu bé là một ngôi nhà gạch, không to nhưng xinh xắn và hình
như vừa
mới cất cách đây không bao lâu. Người chị trạc 30 tuổi, nét mặt hiền
hậu, vui
vẻ. Hình như chị chỉ sống một mình ở đây. Tôi còn nhớ, khi bọn chúng
tôi vừa
mới chân ướt chân ráo đến đây, chị đã nói ngay : " Thôi bây
giờ năm
cùng tháng tận, mời các anh ở lại ăn Tết cho vui...".
Nếu
ở làng Vẽ trong có một hai ngày, chúng tôi đã được ăn nhiều món thịt
chó bao
nhiêu, thì ở đây, trong hơn mười hôm, chúng tôi đã được thưởng thức
nhiều món
nấu... dừa bấy nhiêu !
Tôi
còn nhớ mãi món cá rô kho với dừa. Cá được kho trong nồi đất, bên dưới
trải một
lớp cùi dừa thái mỏng. Trong tiết trời hơi lành lạnh của những ngày
giáp Tết,
ăn món ấy với cơm trắng, rắc thêm hạt tiêu vào, thì thôi, tuyệt ! Món "
đặc sản " này làm tôi nghĩ đến món thịt trâu, thịt bò, kho với quế, mà
họ
bên ngoại nhà tôi thường hay làm vào dịp Tết.
Ngày
có phiên chợ, chị đem dừa ra chợ bán, hay đổi lấy gạo, lấy thịt. Những
người ở
trong làng ai cũng đều làm như thế cả.
Không
được ăn Tết ở trong thủ đô, chúng tôi đã ăn Tết ở "làng dừa", tiếp
tục những ngày được sống chung với nhau ở trong thành, trong cái hăng
say của
tuổi trẻ và của những ngày đầu tác chiến.
Ngày
ấy không đứa nào trong chúng tôi hình dung được tương lai sẽ ra sao,
cuộc kháng
chiến rồi ra sẽ kéo dài như thế nào, và không ai có thể nghĩ được rằng
sau cái Tết đó, chúng tôi sẽ
không bao giờ còn
gặp lại nhau nữa.
Trong
những ngày ở lại ăn Tết ở đây, chúng tôi không đứa nào thích đi chơi
đâu xa cả,
suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong nhà. Hình như những ngày được sống
chung với
nhau trong thành đã quá ngắn ngủi, để cho chúng tôi có thể kể hết cho
nhau nghe
những câu chuyện mình đã sống trong những ngày vừa qua, cũng như để thổ
lộ với
nhau những câu chuyện tâm sự ở cái tuổi 17, 18 lúc ấy, hoặc cùng nhau
gợi lại
những kỷ niệm gần xa : kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, kỷ niệm Tuần lễ
vàng, và
những bước đầu làm quen với những người con gái. Đương tuổi mới lớn,
chuyện gì
rồi cuối cùng cũng dẫn đến chuyện yêu đương, đến các " bỉ ", các
" em ", đến những cuộc tình duyên rất đáng yêu nhưng chưa đi đến đâu
cả.
Hết
chuyện gẫu, chúng tôi lại ca hát, hay đọc cho nhau nghe những bài thơ
học lỏm
được của các bà chị. Có những bài thơ thật vớ vẩn, mà sao ngày ấy chúng
tôi
thích thế ! Tôi còn nhớ những câu thơ rất lãng mạn, mà chúng tôi đã học
thuộc lòng, và mãi sau
này tôi mới biết là của ai:
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương...
(T.T.KH, Hai sắc hoa ti-gôn, 1937)
Hình
như ở cái tuổi đang thèm khát yêu đương, người ta vẫn hay thích những
câu thơ
"vớ vẩn" như thế, những câu thơ chẳng ra đâu vào với đâu, nhưng
cũng đủ làm cho người ta mơ mộng... Sau này, tôi lại càng nghiệm thấy
rằng, đôi
khi văn chương, nghệ thuật là như thế: có những cái "xuất thần",
bất ngờ, "không tiền khoáng hậu", thậm chí "siêu thực", có khi lại làm
cho ta xúc động ! Văn
chương, nghệ thuật, xét cho cùng, vẫn chỉ là một tiếng nói rất riêng
tư...
Đêm
giao thừa, lần đầu tiên xa nhà, chúng tôi thức không phải để coi nồi
bánh
chưng, hay để đánh bài nữa, mà để cùng nhớ đến Hà Nội còn đang trong
vòng khói
lửa, để kể chuyện Hà Nội. Chị chủ nhà người phố Hàng Bút, cạnh ngay phố
nhà
tôi, thích nghe những chuyện của chúng tôi lắm. Tám chín mái đầu chụm
lại bên
bếp lửa, cùng nhau gợi lại, sống lại những kỷ niệm chung.
Trong
ánh lửa, tôi nhìn những khuôn mặt quen thuộc từ hồi nhỏ của lũ bạn, mà
càng nhớ
đến phố. Ai có thể ngờ rằng giao thừa năm ấy cũng là lần cuối cùng
chúng tôi
còn được ở bên nhau ?
Hôm
sau, chúng tôi được mời ở lại thêm một ngày nữa. Mồng hai Tết, chúng
tôi từ
biệt chị chủ nhà và câu em, để mỗi người đi một ngả. Một vài đứa đi về
phía
Đồng Quan, Vân Đình. Riêng tôi, phải về ngay với gia đình ở Dũng Kim,
Hà Nam.
Từ
Sơn Tây, tôi đi bộ sang Hà Đông. Qua cầu sông Nhuệ, tình cờ gặp cô Ti,
em của
Cầu, một thằng bạn học cùng khoá ở Trường Mỹ thuật. Cô Ti bây giờ làm
cứu
thương, đang đi ngược trở lên phía Sơn Tây. Hồi học ở Trường Mỹ thuật,
tôi hay
đến nhà Cầu ở phố Đấu Xảo chơi, một phần để vẽ và nói chuyện hội hoạ,
một phần
cũng là để gặp cô em.
Từ
Hà Đông, lấy đò dọc về Phủ Lý mất hai ngày. Trong hai ngày này, cũng
đầy chuyện
thú vị. Ở trên đò, tôi gặp hai cô bằng trạc tuổi mình, cứ mời ăn trứng
luộc, và
rồi cứ quấn quít lấy mình !
Tôi
về tới Dũng Kim sau Tết đúng một tuần, vào một buổi trưa, cả nhà đang
ăn cơm,
và không ai chờ đợi tôi về vào lúc đó cả. Nỗi vui mừng và ngạc nhiên
thật không
sao tả xiết. Những ngày trước đó, trong suốt một tháng trời, cứ chiều
chiều,
thày tôi lại ra đứng ở trên con đường đê nhỏ ở đầu làng, chỗ có cây
gạo, ngóng
về phía huyện Lý Nhân xem có thấy tôi về không. Nhiều khi cụ cứ đứng im
như vậy
cho đến lúc trời sẩm tối, bóng cụ chống cây gậy trúc in lên nền trời
như một
pho tượng màu thẫm. Sau này, chị tôi và em tôi hay gợi lại hình ảnh này
để nói
về thày tôi, về cái tình rất kín đáo ở nơi thày tôi đối với các con.
Về
Dũng Kim chưa được mấy hôm, thì thày tôi bảo tôi phải đi "nghe ngóng
tình
hình". Ở đây khuất nẻo, không có tin tức đi về, nên cụ nóng ruột, muốn
biết tình hình ở bên ngoài ra sao, liệu đến bao giờ mới yên ? v.v. Cụ
như đã
nhìn thấy trước tất cả mọi người trong gia đình rằng, rồi ra sẽ chẳng
có một kế
sinh nhai nào cho phép gia đình nhà tôi tiếp tục sống ở đây.
Tôi
đi ngược trở lên Đồng quan, Vân Đình, gặp lại những gia đình người quen
ở trên
Hà Nội tản cư về đây, nhưng ngay cả họ cũng lo lắng, không biết rồi ra
sinh
sống bằng cách nào.
Bao
nhiêu năm
sau, gợi lại những kỷ niệm cũ, cũng là để nhớ lại những khuôn mặt,
những giọng
nói, những tên làng, tên sông, đã ghi khắc vào một quãng đời của mình.
Trong
số những đứa bạn đã cùng nhau ăn Tết ở "làng dừa" ngày ấy, Nhượng,
thằng bạn thân nhất cùng phố, sau này làm đến chức đại tá trong quân
đội, nay
đã mất. Quang bị bắt ở trong thành vào đầu năm 48, rồi biệt tích. Chấn
bây giờ
cũng lưu lạc như tôi ở xứ người. Anh Hợi, người anh cả của chúng tôi
ngày ấy,
một dạo được gửi sang làm chuyên gia ở một nước bên Phi châu. Còn cậu
em phố
Hàng Bút và bà chị ở "làng dừa" bây giờ ở đâu, và làm gì, tôi cũng
không biết nữa.
Trong
kỷ niệm mà tôi còn giữ được cho tới ngày nay, "làng dừa" vẫn hiện
ra trong sáng, trong cái không khí lành lạnh của những ngày giáp Tết ở
miền
Bắc, với hình ảnh người đàn bà trẻ hiền hậu đã cho chúng tôi ăn một cái
Tết xa
nhà đầu tiên đầy tình cảm và thi vị.
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Các thao tác trên Tài liệu