Hồi ức tuổi thơ: Cái chất lãng mạn tuyệt vời
Cái chất lãng mạn tuyệt vời
Văn Ngọc
Hồi
tôi còn nhỏ, vào khoảng những năm 40-43, gia đình nhà tôi lúc đó
còn đông đúc, có Trắt, là cháu con anh cả tôi, hát rất hay, giọng trầm,
ấm (ngày đó, chúng tôi gọi là giọng ồ). Lúc đó Trắt cũng đến gần 20
tuổi rồi, biết rất nhiều bài hát, còn chúng tôi thì hãy còn nhỏ lắm,
chưa biết gì mấy. Trắt hay hát một bài hát, mà cả nhà tôi, từ các chị
lớn cho đến tụi trẻ chúng tôi đều ưa thích, đó là bài Một
ngày xanh, mà
mãi sau này tôi mới biết là của Lê Thương.
Cứ mỗi lần, vào buổi chiều tối, lên gác sân thượng
hóng mát, được nghe Trắt hát bài đó, là mọi người lại thấy xúc động,
không hiểu tại sao:
[...]
Khi bên bờ bên má anh hôn
Anh thề cùng em
bể cạn sơn mòn
Cuộc tình duyên
...Một ngày xanh
Đã ghi vào đời
anh
Cuộc tình duyên
Có khi nào anh
quên
Ngày nay trăng
chiếu trên dòng Đà giang
Lòng anh thấy
thiếu mối tình mơ màng...
(Lê Thương, Một ngày xanh,
1940-41)
Lời bài hát khá "táo bạo" đối với cái thời ấy, hơi "cải lương" một
chút, nhưng đã gợi lên được một hình ảnh "lãng mạn", khơi dậy trong
chúng tôi, những đứa trẻ thành thị ngày đó, một niềm khao khát mơ hồ về
những miền sông nước mà chưa bao giờ mình được đặt chân tới.
Ngày ấy, chúng tôi cũng hay được Trắt hát cho nghe những bài hát của
Đặng Thế Phong, nhạc điệu và lời ca cũng rất là lãng mạn, nhưng một thứ
lãng mạn thật là thuần khiết ! Tôi không nhớ là trong cả ba bài hát của
Đặng Thế Phong, có bài nào nói đến tình yêu đôi lứa không, nhưng cái
chất trữ tình thì rõ ràng là man mác, từ Con thuyền không bến, đến Đêm
thu, rồi Giọt mưa thu. Bài Con thuyền không bến đẹp như một cảnh trăng
nước mùa thu trải ra trước mắt ta, chậm giãi như lời một người kể
chuyện, nhẹ nhàng, khoan thai, như một khúc dạo mở đầu cho một bản nhạc
cổ điển:
Đêm nay
thu sang cùng heo may
Đêm nay sương
lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ
lững xuôi theo dòng
Như nhớ thương
ai chùng tơ lòng
Trong cây hơi
thu cùng hơi may
Vi vu qua muôn
cành mơ say
Miền xa lời gió
vang thông ngàn
Ai oán thương ai
tàn mơ vàng
... Lướt theo
chiều gió
Một con thuyền
trôi theo trăng
Trên con sông
Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền
trôi nơi đâu
Trên sông bao la
nào ai biết nông sâu [...]
(Đặng Thế Phong, Con thuyền không bến, 1943)
Khi
Cách mạng tháng Tám lên, cũng là lúc mà bầy trẻ chúng tôi đang ưa
hát những bài ca lịch sử, hùng tráng, của Hoàng Quý (Bóng cờ
lau, Nước
non Lam Sơn), Lưu Hữu Phước (Bạch Đằng Giang, Lên
đàng), Văn Cao (Thăng
Long hành khúc ca), v.v., rồi sau đó là những bài hát cách
mạng của Văn
Cao, Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận, v.v. Những bài hát cách mạng này phần
lớn cũng rất là lãng mạn, nếu hiểu chữ lãng mạn theo cái nghĩa " lãng
mạn cách mạng ", như loạt bài về người chiến sĩ của Văn Cao: Chiến
sĩ
Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Bắc Sơn, Đàn chim
Việt, v.v.
Tuy nhiên, bàn về khái niệm "lãng mạn cách mạng" không phải là mục đích
thật sự của tôi. Tôi chỉ muốn nêu lên ở đây một hiện tượng đáng chú ý
là: khía cạnh "lãng mạn" đã tồn tại ngay trong những bài hát, bài thơ,
ở thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám, thậm chí trong cả những
ngày đầu kháng chiến, và cho đến mãi sau này. Khái niệm "lãng mạn" được
dùng ở đây trong cái nội dung thông thường nhất của nó, là ít nhiều
thiên về sự mơ mộng, về những mơ ước, đôi khi viển vông, thậm chí đến
mức lý tưởng hoá thực tế.
Tôi không có tham vọng giải thích hiện tượng, bởi chỉ riêng việc định
nghĩa "tính chất lãng mạn" thôi, cũng đã khó rồi. Mặc dầu vậy, tôi vẫn
linh cảm rằng, trong cuộc sống, cũng như trong nghệ thuật, đôi khi
người ta cũng cần có nó, và hẳn là trong cách mạng cũng thế thôi.
Ngay sau ngày 19-8-1946, một loạt bài hát rất lãng mạn, mà chúng tôi
chưa bao giờ được nghe thấy, đã được phổ biến ở trên đài, đặc biệt là
những bài hát của Văn Cao, sáng tác đã từ mấy năm trước. Sự kiện đã
diễn ra một cách tự nhiên, và những bài hát tuyệt vời của Văn Cao đã
như một sự gì đến đúng lúc, hợp với cái tâm tư và khát vọng của giới
trẻ lúc đó: Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ, Buồn tàn thu,
v.v.
Tôi còn nhớ lần đầu tiên được nghe Phạm Duy hát bài Suối Mơ
trên đài
phát thanh, tiếng hát có sức quyến rũ đặc biệt của Phạm Duy ngày ấy,
vang lên trong phố trưa im nắng, đã chinh phục được ngay chúng tôi, vốn
vẫn là những thính giả mặc dầu tuổi còn non nớt, nhưng đã rất nghiêm
khắc với chính mình và người khác. Bài Suối mơ, theo như trong Hồi ký
của Phạm Duy, thì lời là của Văn Cao và Đỗ Hữu Ích, một người đã cộng
tác với Văn Cao để làm lời cho một vài bài hát khác nữa, trong đó có
bài Thiên Thai.
Bài Suối Mơ như một lời thủ thỉ, mà cũng như lời
của một con suối :
Suối mơ
bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi
lững lờ ngoài nắng
Người chưa đi
sao gió vương
Bờ xanh ngắt
bóng đôi cây thuỳ dương
Suối ơi ! Ôi
nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng
ai tìm đến
Đàn ai nắn buông
lưu luyến
Suối hát theo
đôi chim quyên
Từng hẹn mùa xưa
cùng xây nhà bên suối
Nghe suối róc
rách trôi hoa lừng hương gió ngát
Đàn nai đùa
trong khóm lá vàng tươi
Tơ đàn chùng
theo với tháng năm
Rừng còn nhớ tới
người
Trong chiều nào
giữa chốn đây
Hồn cầm lắng
tiếng đời [...]
(Văn Cao, Suối
mơ, 1943-44).
Khi Cách mạng lên, tựa này được đổi thành Bài Thơ Bên Suối,
nhưng mọi người vẫn quen gọi là Suối Mơ.
Sau này, ngay cả khi Mai Khanh và Thương Huyền hát bài này, tôi vẫn nhớ
đến giọng hát và cách luyến láy rất "lẳng", nhưng cũng rất đúng mức của
Phạm Duy. Bài hát lãng mạn cũng phải có giọng hát, cách hát thích hợp,
thì mới hay được.
Cũng như sau này, những bài hát của Trịnh Công Sơn, hay của Phạm Duy,
cũng phải có giọng hát của Khánh Ly thì mới lột tả được hết cái hay của
chúng. Nhưng đó lại là một chuyện khác, và đây cũng là một điều bí ẩn
của nghệ thuật. Bởi vì giọng của Khánh Ly không lãng mạn chút nào hết,
mà gần như là "vô cảm"! Song chính cái giọng "vô cảm" đó lại có một ma
lực mê hoặc, cuốn hút người nghe, bởi nhạc Trịnh Công Sơn và một vài
bài hát của Phạm Duy, mà Khánh Ly hát thời đó, như một dòng chảy, bản
thân nét nhạc và câu chữ của chúng đã lãng mạn rồi, không cho phép thêm
vào đó một cách hát, một giọng hát ẽo ợt, cải lương nữa.
Một giọng ca khác mà ngày ấy cũng đã chinh phục được chúng tôi, rồi sau
cũng đột nhiên biến mất ở trên đài, đó là Kim Tiêu, nghe nói người Hải
Phòng, cùng thành phố với Văn Cao. Kim Tiêu khi nào lên Hà Nội, thường
hay đi qua phố tôi vào lúc đêm khuya, vừa đi vừa huýt sáo miệng, nghe
các anh lớn trong phố nói Kim Tiêu thổi sáo miệng hay lắm, tôi tiếc
chưa bao giờ được tận tai nghe thấy. Kim Tiêu và Mai Khanh hát những
bài hát như Thiên Thai, Trương chi, thì tuyệt vời:
Tiếng
ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn
ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kìa đường lên
tiên, kìa nguồn hương duyên
Theo gió tiếng
đàn xao xuyến...
(Văn Cao, Thiên
Thai,1943-44)
Lời bài hát này ký tên Văn
Cao và Hoàng Thoái. Nhưng theo như trong Hồi ký của Phạm Duy, thì Hoàng
Thoái là tên hiệu của Đỗ Hữu Ích.
Một
chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không
gian mới rung thành tơ
Vương vất hơi
may hoa yến mong chờ
Ôi tiếng cầm ca
thu tới bao giờ
Lòng chiều bơ vơ
lúc thu vừa sang...
(Văn Cao, Trương Chi,
1943-44)
Trong
những ngày tháng rất sôi nổi của Cách mạng tháng Tám, tôi không
còn nhớ vào khoảng tháng nào năm 1946, trước khi kỷ niệm 1 năm Cách
mạng thành công, bỗng nhiên có một bài hát mới, của một tác giả mà cho
đến lúc bấy giờ chúng tôi chưa hề nghe tiếng, vừa được tung ra giữa Hà
Nội. Bài hát rất "lãng mạn", cả lời lẫn nhạc. Cái tên cũng "lãng mạn"
không kém: "Trào lòng", tác giả là Nguyễn Văn
Khánh, có người lại bảo
là của Anh Châu (?).
Ngày ấy, cả người lớn trẻ con đều thích bài hát này, không hiểu tại
sao. Trên đài Tiếng Nói Việt Nam, Thương Huyền là người đầu tiên đã
trình diễn bài này. Hôm Kỷ niệm 1 năm cách mạng tháng Tám ở Ấu Trĩ
viên, tôi được phố gửi đi hát (nguyên trước đó ít lâu, tôi có được giải
trong một cuộc thi hát mở cho thiếu nhi toàn thành), các anh lớn lại đề
nghị tôi hát đúng bài này, không hiểu có phải vì nó nói đến mùa thu
chăng ? Nhưng bài hát Việt Nam nào mà chẳng hay nói đến mùa thu !
Lần đầu tiên tôi được hát trước cả mấy ngàn người ở ngoài trời, mà lại
hát trước nữ ca sĩ số một lúc đó là Thương Huyền, cũng đến tham dự buổi
dạ hội hôm đó. Tôi ngượng ngùng xiết bao khi đi ra trước micro, ngó vào
chỗ phòng đợi ở kế bên thấy chị Thương Huyền, nên lại càng lúng túng.
Nghe cậu bé mới 12 tuổi đầu, mặt hãy còn búng ra sữa này, mà đã dám hát
một bài hát "của người lớn", như bài "Trào lòng",
chắc người ta phải
buồn cười lắm. Hôm đó tôi đã hát rất cao. Tiếng hát cất cao trong đêm
tối, đã làm cử toạ phải ngạc nhiên, và đã vỗ tay ran, nhất là những
người ở phố tôi, đi nghe về khen lấy khen để. Bài hát đó như sau :
Lá vàng
bay theo gióHoa tàn rụng bên sông
Ôi một chiều thu
buồn
Ôi một trời nhớ
mong
Hương tình vương
bóng mây
Đàn tình dạo đắm
say
Hồn mơ lạc bến
tình
Tìm Thái Bạch,
Lưu Linh
Men nồng say
ngây ngất Khiến trời đất cùng quay
Nước dâng lên
sóng in màu trời hồng tươi
Cây xanh xanh
xen núi tím tím cánh buồm lảo đảo uốn cong
Đây trắng trắng
khói mờ [chân mây] lướt bay
Dăm cô tiên xiêm
áo trắng toát cánh vàng dập dìu rẽ mây
Say, say buồn,
say mơ, say quên, cố say, nhưng nào hề say
Thôi im đi tơ
lòng
Thôi quên đi tâm
hồn
Bầu chàng Lưu
dốc luôn, dốc luôn cho đời cùng quay ta thêm say
Nước dâng lên
sóng in màu trời hồng tươi
Cây xanh xanh
xen núi tím tím cánh buồm lảo đảo uốn cong
Đây trắng trắng
khói mờ [chân mây] lướt bay
Dăm cô tiên xiêm
áo trắng toát xách bầu
rượu đào theo chàng Lưu đi đó đây.
(Nguyễn Văn Khánh, Trào lòng, 1946)
Trong
lãnh vực bài ca, bài hát, nói đến tính chất lãng mạn, dù chỉ là
"lãng mạn thuần tuý", hay "lãng mạn cách mạng", tương đối còn dễ dàng,
bởi vì thực ra bài hát của ta kể từ khi có phong trào Tân nhạc (Nhạc
cải cách) đến nay, đã có bao nhiêu tác phẩm đâu ?
Nhưng nếu nói về tính chất lãng mạn trong thơ, thì thật là vô cùng. Thơ
trước cách mạng, cũng như thơ sau cách mạng, thơ trong hai cuộc kháng
chiến, cũng như sau ngày hoà bình, đều có rất nhiều bài thơ lãng mạn.
Đây là một đề tài lớn, dành cho các nhà nghiên cứu, tôi không dám mạo
muội bàn đến ở đây.
Tuy nhiên, có một bài thơ, đã từng làm cho tôi xúc động, và là một kỷ
niệm luôn nhắc nhở tôi đến cả một thời kỳ lãng mạn của cách mạng, và cả
một thế hệ các anh tôi.Đó là bài thơ "Ngày về" của Chính Hữu. Bài này
có một lúc đã bị coi là "lãng mạn", và người ta thường chỉ đề cao bài
"Đồng chí" của cùng tác giả, và cho đó mới là một bài thơ đạt, và mới
đúng là mẫu mực của phong cách "hiện thực". Nhưng thật ra, bài Đồng chí
có gì là xuất sắc đâu, và câu kết "đầu súng trăng treo", xét cho cùng,
cũng chỉ là một hình ảnh lãng mạn !
Vào khoảng cuối năm1947, đang tản cư ở hậu phương, thì tôi được đọc bài
thơ "Ngày về". Vì đã được anh tôi kể cho nghe chuyện
các anh tự vệ và
bộ đội trong Trung đoàn thủ đô ở lại trong thành chiến đấu ra sao, và
đến mãi sau Tết mới rút ra ngoài ra sao, nên khi đọc bài thơ lên, tôi
vô cùng cảm động. Bài thơ ấy như sau (có vài từ, lâu ngày tôi đã quên,
nên để tạm trong hai dấu ngoặc) :
Có đoàn người lên đóng
trên rừng sâu
Đêm nay mơ thấy
trở về Hà Nội
Bao giờ trở lại
[... ...] xưa
[... ...] huy hoàng ?
Ôi hôm nay họ
nhớ mái nhà hoang
Bức tường đổ âm
thầm ngày xưa trấn ngự.
Nhớ đêm ra đi
đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi
ngút cháy sau lưng
Những chàng trai
chưa trắng nợ anh hùng
Hơn mười phương
phất phơ cờ đỏ thắm.
Rách tả tơi rồi
đôi giầy vạn dặm
Bụi trường chinh
phai bạc áo hài hoa.
Mái đầu xanh thề
mãi đến khi già
Phơi nằng gió
hoa ngàn và cỏ dại
Nghe tiếng gọi
của những người Hà Nội :
"Trở về, trở về,
chiếm lại quê hương !"
Nguy nga sao cái
buổi sẽ lên đường
Tay chuốt gươm
[...] mắt ngời sáng quắc
A ha nhà siêu
mái sập
Xác oan cừu ngập
lối chân đi
Gạch ngói xưa
mừng đón gót lưu ly
Bước căm giận
xéo quân thù lớp lớp.
Mịt mùng khói
ngập
Cờ máu huy hoàng
Ôi bài chiến
thắng reo vang !
(Chính Hữu , 1947)
Cái chất lãng mạn và nhịp
điệu của bài thơ nhiều năm sau vẫn còn ám ảnh tôi.
Thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám, cũng như thời kỳ đầu Kháng
chiến, quả là một thời kỳ lãng mạn.
Còn gì lãng mạn hơn hình ảnh những đội "nhi đồng trống ếch" ?
Rồi cái không khí hồ hởi ở Hà Nội vào dịp "Tuần Lễ Vàng" ?
Rồi hình ảnh đêm "Trung thu Độc lập đầu tiên" xung quanh Hồ Gươm ?
Và rồi, hình ảnh những anh tự vệ thành, những chàng
"lính cậu" xúng xính trong những bộ kaki mới ?
Vậy mà, nếu không có mấy ngàn anh lính cậu ấy, thì làm sao mà có được
Trung đoàn Liên khu I, để rồi có Trung đoàn Thủ đô và những người
"quyết tử để cho tổ quốc quyết sinh" ?
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Chương 07: Ăn Tết làng dừa
Chương 08: Hà Nội mến yêu
Chương 09: Những ngôi nhà xưa
Chương 10: Ăn tết bên ngoại
Chương 11: Tết Trung Thu
Chương 12: Giấc mơ xưa
Chương 13: Những nhớ thương ngày cũ
Các thao tác trên Tài liệu