Hồi ức tuổi thơ: Hà Nội những ngày khói lửa
Hà Nội những ngày khói lửa
Văn Ngọc
"... Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hơn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm...”
(thơ Chính Hữu, Ngày về, 1947)
Chập
tối ngày 18
tháng
12 năm 1946, anh Hợi thay mặt thanh niên phố tôi lên họp ban chỉ huy tự
vệ đóng
ở phố Hàng Bồ, trong một ngôi nhà rộng bỏ trống, chủ nhà đi tản cư đã
từ lâu.
Nhiều
năm về sau, khi kể lại cho tôi nghe câu chuyện những ngày các anh ở lại
Hà Nội
chiến đấu, anh Hợi thấy mình như sống lại cái giây phút hồi hộp, sôi
nổi, lúc
ấy. Anh nhớ rằng anh đã rất run khi nghe phổ biến tình hình và mệnh
lệnh chuẩn
bị. Về phố nhà truyền đạt lại những chỉ thị cho anh em tự vệ phố, anh
thấy
người vẫn còn run, không biết có phải vì trời hôm đó đã bắt đầu lạnh,
hay vì
quá xúc động.
Sau
vụ tàn sát đồng bào ngày 17 ở phố Hàng Bún, sáng hôm nay bọn lính Pháp
đóng
trong thành lại đem xe tăng ra thăm dò và uy hiếp khu phố tôi, nhưng
vẫn chưa
dám vượt qua giao thông hào, bên kia hào là đống chướng ngại vật, và
bãi mìn
giả làm bằng nồi niêu, và bát úp do các anh tự vệ đặt từ chiều hôm
trước trên
khắp mặt đường. Nội trong ngày 18, chúng đã gây ra nhiều vụ khiêu khích
ở các
khu Hàng Đậu, Hàng Khoai, chợ Đồng xuân, Lò Đúc, Hàng Bột, v.v., rồi
ngang
nhiên chiếm đóng Nha tài chính, Bộ giao thông. Tối ngày 18, vào lúc 21
giờ, tên
tướng Morlière, tư lệnh Pháp ở Đông Dương, dưới sức ép của Valluy,
người chủ
mưu gây hấn ngay từ vụ ném bom Hải Phòng, gửi tối hậu thư đòi chính phủ
Việt
Nam tước vũ khí vệ quốc đoàn, công an, tự vệ,và đòi luôn cả quyền kiểm
soát
trật tự, an ninh trong thành phố, điều mà cách đây không bao lâu hai
bên đã
thoả thuận là do Uỷ ban Liên kiểm Việt-Pháp đảm nhiệm. Chúng giao hẹn,
nếu đến
sáng ngày 20 tháng 12 mà những điều kiện đó không được chấp nhận, thì
sẽ chuyển
sang hành động.
Chúng
tưởng có thể nuốt chửng được Hà Nội trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ !
Sau
khi nghe anh Hợi báo cáo tình hình và phổ biến lại những mệnh lệnh của
ban chỉ
huy, ai nấy đều phấn khởi, sau những giây phút hồi hộp ban đầu. Điều mà
mọi
người nóng lòng chờ đợi từ bấy lâu nay, bây giờ đã đến, và đến vừa đúng
lúc như
một sự giải thoát. Hết rồi, những nhịn nhục, uất ức, của những ngày
qua, những
cảnh phải đứng khoanh tay nhìn bọn lính mũ đỏ ngang nhiên đem xe ra phố
cướp
giật, rồi chạy vào thành, mà không ai được phép bắn theo !
Việc
đầu tiên anh em phải phân công nhau đi làm gấp là mở rộng thêm những lỗ
xuyên
tường để đi lại dễ dàng hơn từ nhà này sang nhà khác ở bên trong khối
phố, và
lập một số ụ súng ở những nơi có địa thế tốt : gác nhà số 27 nhìn dọc
lên phố
Hàng Bát Sứ, ngôi đình ở góc phố Hàng Bát Đàn và phố Nhà Hoả (Hàng
Điếu), tầng
gác ba nhà Nguyên Cát, từ đó có thể nhìn rộng xuống khắp khu Đông
Thành.
Việc
thứ hai, là tiếp tục đào thêm lỗ chôn mìn ở ngoài đường và lấy thêm
những chiếc
nồi đất, những chiếc thớt và cả những cuộn thừng, vì ở phố tôi còn cả
mấy nhà
bán thừng, đem đặt ở ngoài đường để mở rộng bãi mìn về phía Cửa Đông.
Để
vượt qua đường, từ bên số chẵn sang bên số lẻ, anh em đã phải đào gấp
mất mấy
đêm liền một cái hào nối liền từ nhà số 21 (hiệu An Lợi) sang đúng cửa
ra vào
nhà Nguyên Cát. Đây vừa là giao thông hào, vừa là chiến hào. Lúc đầu,
chiếc hào
còn nông, mỗi khi đi qua cứ phải cúi lom khom. Sau, được đào sâu thêm,
đất được
đắp lên về phía Cửa Đông thành một cái ụ cao quá đầu người, nên đi qua
đi lại ở
trong hào an toàn hơn, đó cũng là nơi đứng nấp bắn rất thuận tiện. Sau
này, có
mấy anh tự vệ trẻ ngịch ngợm, đã lấy mũ sắt chụp lên đầu gậy, rồi đem
cắm lên ụ
đất, chỉ để thòi cái mũ sắt lên, để trêu tức bọn lính ở phía cầu Cửa
Đông bắn
ra cho phí đạn.
Các
anh thanh niên tự vệ phố tôi ngày ấy, do mới làm quen với súng đạn, nên
hay
ngứa ngáy, thích trổ tài bắn súng của mình lắm. Anh Vũ, anh tôi, lúc đó
mới 17
tuổi, không biết vớ đâu được khẩu “các-bin”, là một loại súng tương đối
tối tân
của Mỹ vào thời bấy giờ, bắn vừa nhẹ lại vừa chính xác, bao đạn có tới
chín
viên. Nổ súng chưa được vài ngày, anh đã nổi tiếng là bắn giỏi ở trong
phố. Hồi
đó, ta có ít súng đạn lắm, thanh niên tự vệ mỗi phố phải tự túc lấy
hết.
Tôi
còn nhớ mãi Chấn, xúng xính trong bộ đồ kaki Mỹ màu mỡ gà mua ở Chợ
giời, Chấn
lúc đó chưa được 16 tuổi, nhưng may sao lại được các anh lớn chấp thuận
cho làm
tự vệ, đi đâu cũng đem theo khẩu súng sáu Saint-Etienne, cầm lăm lăm ở
tay,
ngay cả khi chui qua các lỗ tường, trông đến là ngượng ngịu !
Ngày
ấy, coi như gần hết thanh niên phố tôi đã ở lại chiến đấu, tất cả được
đến gần
ba chục người, có người chỉ mới 15, 16 tuổi. Một hai em hãy còn là nhi
đồng,
mới 12, 13 tuổi. Phần đông là học sinh, sinh viên, con nhà khá giả, rặt
một thứ
" lính cậu " hết, trừ một vài trường hợp là các anh thợ, anh xe, hay
người ở. Nhưng đấy chỉ là trường hợp phố tôi thôi, còn ở các phố khác,
như Hàng
Thiếc, Hàng Hòm, chẳng hạn, thì thành phần công nhân đông hơn.
Ôi,
quên làm sao được những khuôn mặt của các anh lớn phố tôi ngày ấy,
những người
đã từng dìu dắt chúng tôi, từng chia sẻ với bầy trẻ chúng tôi những
ngày tươi
vui của Cách mạng tháng Tám, cũng như những ngày sôi nổi trước khi xảy
ra chiến
sự !
Quên
làm sao được những " nhân vật " mà hồi nhỏ tôi không bao giờ ngờ rằng
một ngày kia có thể trở thành những chàng tự vệ đanh thép, những người
sẽ ở lại
đến cùng trong Trung đoàn Liên khu 1, trong số đó có người sẽ ở lại với
Trung
đoàn thủ đô, và sau này sẽ trở nên những cán bộ cao cấp trong quân đội.
Tôi
đặc biệt nhớ đến Quang, con thứ ba của ông bà Quảng Tiến, lúc đó mới
chỉ 15, 16
tuổi là cùng. Quang người khoẻ mạnh, đẹp trai, có bộ tóc quăn tự nhiên
và một
nụ cười rất tươi. Nhưng nổi bật nhất ở anh, là tính bướng bỉnh, gan
góc, và
dáng đi hăm hở như lao về phía trước. Anh thích chơi súng ngay từ cái
hồi mới
có phong trào tập quân sự và mua súng của bọn Tàu Tưởng túng tiền bán
chạy. Lúc
nào cũng thấy anh hí hoáy lau chùi súng, hoặc lên gác sân thượng tập
bắn. Có
một hôm tôi xin được ở đâu một viên đạn 6,35, liền năn nỉ Quang cho tôi
lên gác
sân bắn thử với khẩu Browning nhỏ xíu của anh. Đây là lần đầu tiên tôi
được bắn
súng lục. Với những ngón tay còn quá yếu ớt của mình lúc ấy, tôi thấy
bóp được
cò súng cũng không phải là chuyện dễ dàng như mình vẫn tưởng.
Sau
này, Quang sẽ là người thanh niên trẻ tuổi nhất ở phố tôi đã hy sinh,
không
phải trong lúc đánh nhau, mà vì bị mật thám Pháp bắt, khi rải truyền
đơn ở sân
trường Chu Văn An vào đầu năm 1948, lúc trường này còn ở phố Hàng Cót
và Quang
đang hoạt động bí mật ở nội thành.
Chỉ
vài ngày trước đó, chị tôi và tôi còn được gặp Quang ở trên phố Quan
Thánh, nơi chúng tôi ở tạm từ
lúc hồi cư về Hà Nội. Buổi gặp gỡ thật là cảm động, mặc dầu chúng tôi,
những
người cùng phố cũ, mới chỉ xa nhau có chưa đầy hai năm. Chính Quang đã
đến thăm
chúng tôi, không biết ai đã cho Quang địa chỉ của chúng tôi. Quang đến
một cách
giản dị, tự nhiên. Trông Quang già giặn hơn ngày trước.
Điều
kỳ lạ là ở phố Hàng Bát đàn ngày xưa, chị tôi không bao giờ nói chuyện
với một
thanh niên nào ở trong phố, vậy mà hôm đó, chúng tôi đã nói chuyện rất
nhiều,
thân thiết như những người vẫn từng quen thân với nhau. Bao nhiêu câu
nệ, mặc
cảm xưa đã biến đi đâu hết, để nhường chỗ cho một thứ cảm tình đặc biệt
của
những người đã từng sống
chung với nhau
nhiều năm trong cùng một phố, và có lẽ đang mang trong lòng cùng một
nỗi niềm
nhớ tiếc.
Bữa
đó, Quang rất kín đáo, và chúng tôi cũng chỉ đoán được rằng Quang đang
hoạt
động bí mật. Bọn mật thám ập đến trường bắt Quang đi vào một buổi sáng,
lúc học
trò vừa vào ngồi yên vị trong lớp học. Sau đó, không còn ai nghe thấy
tin tức
gì của anh nữa.
Trở
lại phố tôi vào những ngày đầu tác chiến.
Ở
nhà tôi, những người thợ da quê ở Dũng Kim, Hà Nam, và những người thợ
mộc cùng
quê với đẻ già tôi bên Bắc Ninh, ngay từ lúc tình hình làm ăn buôn bán
bị ngưng
trệ, đã xin về quê với gia đình, chỉ còn lại có anh thợ cả tên là Thém.
Anh này
người nhanh nhẹn, thông minh khác thường, chỉ phải cái là tai bị điếc
nặng. anh
ta cưới với người chị nuôi đã nuôi tôi hồi nhỏ, nên quyến luyến gia
đình nhà
tôi lắm, cứ nhất định ở lại, bảo khi nào nhà tôi có rời đi đâu, anh mới
chịu về
quê với vợ con.
Cuối
cùng, riêng ở nhà tôi sau này sẽ có tất cả ba người ở lại : anh Vũ, anh
Thêm
thợ da, và anh xe. Anh xe này cũng gốc nông dân, ra Hà Nội kéo xe vào
thời kỳ
đói kém 44-45. Anh ta người tròn như củ khoai, trẻ chỉ độ 18, 19 tuổi,
lúc nào
cũng cười toe toét, và chiều chúng tôi lắm. Vào lúc Hà Nội còn yên, anh
hay cho
bọn nhỏ chúng tôi ngồi ghé xe tay đi chơi phố khi anh phải đi đâu có
việc gì,
và điều quan trọng hơn cả, là anh đã dạy cho chúng tôi biết bổ củi !
Anh
xe đã ở lại một cách tự nhiên, như hầu hết những người trai trẻ có mặt
ở phố
ngày ấy, không phân biệt sang hèn. Vả chăng, anh cũng không biết đi đâu
nữa. Có
lẽ quê anh bây giờ cũng chỉ còn có cái đất Hà Nội này mà thôi. Cũng có
thể anh
đã biết nghĩ xa hơn...
Sau
này,
khi anh Vũ tôi rút ra ngoài cùng với một bộ phận của Trung đoàn Liên
khu 1
- bộ phận kia ở lại
và trở thành Trung
đoàn Thủ đô - đi qua một làng có trồng nhiều dừa ở gần Sơn Tây, gặp lại
"anh xe" ở đây, thì anh đã xung vào bộ đội rồi , và khi hai người
nhìn thấy nhau, anh vẫn chỉ biết cười toe toét.
Ngay
đêm hôm 19-12, đêm đầu tiên xảy ra chiến sự, không khí trong phố tôi đã
thay
đổi hẳn. Nhiều sự việc khác thường bắt đầu diễn ra, thầm lặng. Một
thanh niên
đã đứng tuổi, ăn mặc theo kiểu thợ, tay cầm bom ba càng, được đưa đến
phố tôi.
Lần đầu tiên, các anh tự vệ phố tôi được nhìn thấy tận mắt bom ba càng
và nhất
là được tiếp xúc với một cảm tử quân bằng xương bằng thịt. Trời lúc ấy
đã bắt
đầu lạnh. Anh thanh niên ra đứng đợi xe tăng trong một hố chống xe tăng
đã được
đào sẵn ở hè đường. Anh đứng chờ như vậy trong mấy đêm liền, sau mới
rút đi, khi
thấy trục đường Hàng Bát Đàn - Hàng Bồ không phải là hướng chủ yếu của
địch ở
trong thành đánh ra.
Tiếp
theo việc đào công sự, đục lỗ tường, và bố trí các ụ súng, là việc thu
thập,
quản lý thức ăn và nước uống, vì từ lúc bắt đầu nổ súng, chỉ có dùng mà
không
có tiếp tế ! Cũng may là ở khu phố tôi, có nhiều nhà vì đi tản cư gấp
quá không
kịp mang theo cái gì, nên đã để lại khá nhiều lương thực và vật dụng,
kể cả tủ
lạnh và những chạn dưa cà muối ! Đấy là không kể phố Nhà Hoả (Hàng
Điếu) vốn là
một phố có những cửa hiệu bán đường, mứt, dầu lạc, v.v. và không xa đó,
phố
Tiên Sinh và phố Hàng Da cũng đều có những cửa hàng trước kia bán thịt
và giò,
chả.
Riêng
trên gác nhà tôi, còn nguyên bốn thạp lớn, đường kính đến hơn một mét,
chứa đủ
mọi thứ : gạo tẻ, gạo nếp, đậu xanh. Các anh tự vệ chia nhau đi một
vòng, phát
hiện ra : ở nhà số 9 nuôi bốn con lợn con, nhà số 19 vài chục con thỏ,
trên gác
nhà Nguyên Cát còn cả một kho mực khô.
Khi
đi vòng qua các ngách tường sang phố Nhà Hoả, thấy có một nhà có một
kho chuối
buồng, anh em đến điều đình đổi mực khô lấy chuối về, treo từng buồng
lên, khi
đứng bẻ ăn, cứ nói đùa là đứng " chào cờ " !
Phố
tôi quả là có nhiều thuận lợi cho phép anh em tự vệ sinh hoạt tương đối
thoải
mái, ít ra trong những ngày đầu tác chiến. Lương thực thì như thế. Còn
nước,
thì nhà nào cũng có ít ra một bể nước. Cũng may mà nước máy vẫn chưa bị
cúp. Ở
nhà số 27, trước kia là nhà ông lang Vạn Thắng, còn có cả một cái giếng
đào cổ.
Cách đây chỉ vài tháng chủ nhà mới cho đậy tạm lại, do đó nếu hết nước
máy, vẫn
có thể dùng nước giếng được.
Lúc
bấy giờ, mỗi bữa cơm phải tổ chức ăn chung. Những ngày đầu vui nhộn
không thể
tưởng tượng được. Chẳng ai thấy lo lắng gì cả. Ban ngày, có khi đương
ăn, hay
đương đàn hát, địch ở trong thành bắn súng cối ra, đạn rơi xuống mái
ngói, mái
tôn, nổ ngay trên đầu, mà vẫn tiếp tục sinh hoạt. Có đêm tổ chức liên
hoan ở
nhà số 19, tức nhà ông Đồng Đức (nhà anh Hợi, anh Nhượng), có cái giếng
trời
nhỏ, các anh thắp đèn măng-sông, thay vì thắp đèn dầu hoả như mọi ngày
thường. Ở đây, còn giữ cây
đàn harmonium,
tài sản của trường Phan Chu Trinh gửi nhờ, thỉnh thoảng các anh lại lấy
ra đàn
hát vang cả phố.
Còn
nhiều chuyện vui khác nữa, cũng là những chuyện thực tế hàng ngày cả,
xen kẽ
với chuyên đương đầu với địch, như đi kiếm chỗ để ... đi ngoài, chẳng
hạn.
Thật
vậy,
từ lúc tác chiến, Hà Nội không còn phu đổ thùng nữa, nên các chất phế
thải tràn
ngập dần, vì thời ấy, nhất là ở những khu buôn bán cổ, toàn là hố xí
thùng cả.
Có một vài anh tự vệ đi thám thính thấy bên số lẻ có một nhà xí biệt
lập, đóng
chặt cửa và bỏ từ lâu không dùng. Các anh cũng láu cá, không lộ bí mật
cho ai,
cứ thế đi lén qua cửa đóng, mỗi anh cứ đinh ninh chỉ có một mình mình
biết chỗ
kín đó thôi. Ai ngờ có một hôm chui vào, chạm trán ngay một anh khác,
thế là vỡ
lở. Nhưng đây cũng chỉ là một trường hợp " tư hữu " duy nhất. Ngoài
ra, không ai nghĩ đến giấu giếm một cái gì để dùng riêng, hay ăn riêng,
mặc dầu
anh em toàn là thanh niên đương tuổi ăn ngủ khoẻ cả.
Ngày
ấy, mục tiêu của bộ tham mưu của ta là ghìm chân địch lại ở trong Hà
Nội, không
cho chúng tung quân ra ngoài vội, để ta có thời gian củng cố lực lượng
và tổ
chức trường kỳ kháng chiến. Chính phủ và bộ tổng chỉ huy ngày ấy cũng
chỉ mong
các lực lượng của ta ở Liên khu I giữ được hai tuần. Trên thực tế, họ
đã giữ
được đúng hai tháng trời, và đã rút ra chỉ vì lệnh trên là phải bảo
toàn lực
lượng cho sau này.
Ngày
mồng 7 tháng 1 năm 1947, sau hơn một tháng chiến đấu và thử thách,
Trung đoàn
Liên khu I được chính thức thành lập, và một tuần lễ sau bộ phận ở lại của Trung
đoàn Liên khu I sẽ được tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ đô.
Ngày
14 tháng 1, đội quyết tử của Trung đoàn Thủ đô làm lễ tuyên thệ tại rạp
hát Tố
Như phố Hàng Bạc. Ngày 15-1, nhân cuộc thoả thuận ngừng bắn giữa hai
bên để cho
hơn 6000 dân thành phố công khai tản cư theo đường Hàng Đậu, lên Yên
Phụ, rồi
vượt qua sông Cái, 3500 thanh niên tự vệ của Liên khu I đã cải trang đi
lẫn với
dân chúng để vượt vòng vây của địch. Trung đoàn Thủ đô chỉ để lại có
500 người,
trong đó có đội quyết tử. Trên thực tế, số người ở lại chiến đấu sau
ngày
15-1-47 không phải là 500, mà là 1200 người, trong đó có cả 200 phụ nữ
và hơn
100 thiếu nhi (Những con số này dựa vào các tài liệu của trung tướng
Vương Thừa
Vũ : Hà Nội 60 ngày khói lửa, NXB Quân đội nhân
dân, 1964, và Trưởng
thành trong chiến đấu, NXB Quân đội nhân dân, 1979).
Ngày
7 tháng 2 năm 1947, bọn lính trong thành mở một đợt tấn công lớn vào
Liên khu
I. Ở khu phố tôi, trận đánh ác liệt nhất diễn ra ở phố Hàng Thiếc.
Trong trận
đánh kéo dài mấy ngày liền này, chúng đã dùng súng badôka bắn phá và
chiếm từng
nhà một, về phía Trung đoàn Thủ đô cũng cho phun xăng đốt cháy ngay
những ngôi
nhà ấy, để cho địch không thể chiếm đóng được.
Ngày
9-2, quân địch đã đốt phá dãy số chẵn phố Hàng Thiếc, dãy số chẵn phố
Hàng Nón,
và một loạt nhà bên số lẻ phố tôi, phố Hàng Bát Đàn, trong đó có nhà
tôi.
Nhiều
năm về sau, có dịp đi qua phố Hàng Bát đàn, tôi không còn nhận ra được
phố cũ
nữa.
Trong
cái nắng như thiêu của tháng bảy mùa hè năm ấy, tôi đã cố ghi lại trong
ống
kính của chiếc máy ảnh những gì còn lại của những ngôi nhà quen thuộc
ngày xưa.
Nhưng có hình ảnh nào trung thành và nguyên vẹn bằng hình ảnh đã ghi
sâu vào
trí nhớ ?
Tôi
không thấy luyến tiếc, hay đúng hơn, tôi thấy tôi không có quyền luyến
tiếc
những gì đã đổi thay. Hà Nội đã thay da đổi thịt biết bao nhiêu lần.
Biết bao
nhiêu hy sinh, gian khổ, mới tạo nên được một cuộc đời mới. Tôi cho
rằng tình
cảm của con người ta đối với làng, với phố, không dễ gì mất mát, nhất
là khi
còn lại những kỷ niệm.
Cuộc
chiến đấu của thanh niên tự vệ và của Trung đoàn Thủ đô ngày ấy, tiếp
theo với
tiếng súng Nam bộ kháng chiến, đã mở màn đầu cho cuộc Trường
kỳ kháng
chiến
toàn quốc, tạo mầm mống cho những đổi thay sâu sắc sau này.
Tôi
sẽ nhớ mãi hình ảnh của người thanh niên, ăn mặc quần áo thợ, tay vác
bom ba
càng, đứng chờ xe tăng địch dưới trời lạnh trong suốt ba đêm liền !
Cũng
như tôi không thể nào quên được hình ảnh của "anh xe" nhà tôi, với nụ
cười chất phác, lạc quan, trên con đường từ thủ đô khói lửa đi vào
kháng chiến.
"Anh xe", mà từ đây sẽ không còn gọi con ông chủ của mình bằng
"cậu" nữa, mà bằng "anh", bằng "đồng chí" !
Và
rồi quên làm sao được, những hình ảnh lãng mạn, đáng yêu, của cả một
thời kỳ
cách mạng sôi nổi của những người anh cùng phố, những chàng " lính cậu
" bỗng chốc trở nên những con người đanh thép của Trung đoàn thủ đô và
của
đại đoàn 308 !
"...Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả
đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những
chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hơn
mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách
tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi
trường chinh phai bạc áo hài hoa
Mái
đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi
nắng gió hoa ngàn và cỏ dại..."
(Chính Hữu, Ngày về, 1947)
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Các thao tác trên Tài liệu