Hồi ức tuổi thơ: Khu phố thời thơ ấu
Khu phố thời thơ ấu
Văn Ngọc
Gần
như tối nào cũng vậy, vào lúc phố xá lên đèn, tôi lại được vú cõng đi
chơi một
vòng xung quanh ô phố. Bao giờ vú cũng đi về phố Hàng Thiếc trước. Vú
dừng lại
mua bao thuốc lào ở hiệu Vạn Bảo đầu phố Hàng Nón, rồi lần theo phố
Hàng Nón rẽ
về phố Nhà Hoả (Hàng Điếu), để cuối cùng quay trở lại phố Hàng Bát Đàn,
là phố nhà tôi.
Buổi tối vú chỉ đi gần có thế thôi. Vú đi lững thững như người đi bách
bộ,
dáng điệu
nhàn tản, thỉnh thoảng lại ngừng lại chào hỏi người quen gặp ở dọc
đường. Lúc đầu
tôi không thích thế lắm, nhưng rồi dần dần cũng phải quen đi. Vả chăng,
vú cũng
không thể đi nhanh hơn được, vú đã nhiều tuổi rồi. Người trong nhà gọi
vú là
"vú già Tấn", Tấn là tên của anh tôi. Vú là người đã nuôi hết cả mấy
anh chị em chúng tôi. Có lẽ ngày xưa, vú đã từng được gọi là "chị nuôi"
hay "vú em", nhưng bây giờ đến lượt phải nuôi tôi, thì vú đã
già rồi. Da mặt vú nhăn nheo và vú bắt đầu hơi khó tính.
Thực ra, tôi không nhớ rằng mình đã có cảm tình với vú lắm. Nhiều
chuyện xảy
ra sau
này đã làm cho mẹ tôi phải thay vú, và tìm cho tôi một người chị nuôi
khác. Kỷ
niệm rõ nét nhất đối với tôi về vú vẫn chỉ là kỷ niệm về những buổi đi
dạo chơi
quanh các phố xá.
Cho
đến năm lên 4, lên 5 tuổi, tôi vẫn chỉ được ở quanh quẩn trong nhà với
mẹ tôi
và với vú. Ra đến ngưỡng cửa là thày mẹ tôi và các anh chị lớn trong
nhà lại doạ
: ra đường mẹ mìn nó bắt đi đấy ! Vì thế cho nên lúc bấy giờ được đi
một mình
ra đến đầu phố dưới con mắt dõi theo từ xa của vú, đối với tôi, đã là
cả một sự
thèm khát rồi.
Để thoả mãn sự thèm khát đó, tôi cứ phải "trả giá" bằng cách ăn thật
ngoan ngoãn những thìa cơm đầy mà vú xúc cho. Ôi những thìa cơm xinh
xẻo, ngon
lành, đầy thi vị của tuổi thơ !
Tôi còn nhớ, mỗi thìa cơm bao giờ cũng phải có ít ra một miếng giò lụa
thái
hạt lựu,
hay một miếng thịt xé nhỏ, đôi khi lại còn có cả canh nữa ! Vậy mà mỗi
lần ngậm
miếng cơm vào mồm, là tôi lại chạy ù một mạch ra đến tận đầu phố, rồi
mới chạy
về, để vú đút cho miếng khác. Hình như đã có một sự thoả thuận thầm
lặng giữa
vú và tôi. Mỗi bữa cơm như vậy nhiều khi kéo dài hàng giờ. Những mếng
cơm cuối
cùng cũng là những miếng cơm khó nhọc, vất vả nhất, cả cho vú lẫn cho
tôi. Nhiều
khi vú phải doạ : nếu tôi không ăn hết bát cơm, vú sẽ không cho đi chơi
với vú
nữa.
Trờichưa tối hẳn, nên tôi còn tỉnh táo lắm. Nằm trên lưng vú, tôi
nghịch
ngợm, ngó
ngang ngó dọc, nhỏm lên nhỏm xuống, có khi lại còn "nhong nhong ngựa
ông
đã về, cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn" nữa, để tỏ sự thích thú của mình.
Vào
giờ này, quang cảnh đường phố cũng có vẻ náo nhiệt hơn, hè phố đông vui
hơn. Nhất
là vào những ngày nóng nực, người hàng phố thường bắc ghế ra ngoài
đường ngồi
hóng mát. Âm thanh, hình ảnh và cái hương vị
đặc biệt của phố phường
vào lúc
chiều tối cho đến ngày nay vẫn còn in sâu trong trí nhớ của tôi. Ở vào
cái tuổi
ấu thơ ấy, các giác quan của người ta hình như cũng tinh nhạy hơn, trí
nhớ cũng
trong suốt hơn.
Phố
Hàng Thiếc, với những cửa hiệu nhỏ hẹp, đôi khi chưa được hai mét bề
ngang, có
nhà nền vẫn còn để nguyên đất gồ ghề, màu đen xì, không lát gạch, trông
không sạch
sẽ tí nào. Buổi tối đến, nhiều nhà chỉ có
độc một ngọn đèn nhỏ tù mù.
Đi qua phố
này, bao giờ cũng được nghe thấy những tiếng va chạm lanh canh của dụng
cụ sắt
với đồ thiếc và đồ bằng sắt tây. Thêm vào đó là tiếng người ta kéo
những chiếc
thùng tôn rỗng trên hè đường. Đặc biệt nhất, khi đi qua đây, là bao giờ
cũng ngửi
thấy cái mùi hàn và mùi chì lỏng quen thuộc.
Vui
nhất là vào dịp Tết Trung Thu, lúc đó phố Hàng Thiếc thay đổi hẳn bộ
dạng, và
trở thành một trong những phố sinh động và nhộn nhịp nhất của Hà Nội,
nhất là đối
với các trẻ em. Những đồ chơi bằng sắt tây sơn màu sặc sỡ được bày la
liệt trên
các quầy gỗ, không có tủ kính. Nào là : "Cô tiên trong quả đào",
"Con bướm với đôi cánh to khép mở mỗi khi đẩy bánh xe đi", "Tàu
thuỷ bằng sắt chạy bằng dầu tây", v.v...
Phố
Hàng Thiếc có lẽ là một trong những phố đông người lao động và chật
chội nhất ở
Hà Nội.
Sau này, khi cách mạng lên, tôi có mấy đứa bạn
quen ở phố này đều là những dân "cứng đầu" cả. Thằng Vinh, ngay từ
những giờ phút đầu được nhận vào đoàn Thiếu sinh quân, được chúng tôi
rất bái
phục. Thuyên, con nhà ông lang Vòng, sau học cùng với tôi ở trường Chu
Văn An,
tính rất bướng bỉnh. Anh Thịnh, bạn của Thể, cháu tôi, là một cán bộ
Việt Minh
"nằm vùng" từ hồi còn bí mật, anh là người đã "giác ngộ"
Thể đi theo Cách mạng vào những năm 42-43.
Ngoài
ra, thanh niên tự vệ phố Hàng Thiếc không nhiều, và phần đông là thợ
thuyền,
nhưng là những người đã chiến đấu rất hăng cùng với tự vệ của cả Liên
khu I hồi
tác chiến.
Phố
Hàng Nón, vào giờ này cũng còn nhiều hiệu mở cửa. Ánh đèn điện hắt ra
từ những
cửa hàng đầy những chiếc nón đủ loại treo lủng lẳng, bóng loáng. Phố
này nhẹ
nhàng cũng như cái tên của nó. Dường như không bao giờ có chuyện gì xảy
ra ở
đây, có lẽ vì không có mấy thanh niên, và cả thiếu nhi cũng ít. Phố này
có một
cái đình cổ, gọi là đình Hàng Nón, bên cạnh có một hiệu cho thuê sách,
chị tôi
thường hay đến thuê sách ở đây.
Phố
này còn có chị Đào, bạn học của chị tôi ở trường Hàng Cót; sau này các
chị
cùng học ở trường Đồng Khánh. Chị Đào tính người giản dị, vui tươi, tuy
không đẹp
bằng chị tôi, nhưng đùa nghịch và ăn nói thì không kém. Hai chị thích
nhau lắm.
Sau này, hồi 44-45, có một anh chàng làm nghề gì không biết, có vẻ bí
mật lắm,
theo đuổi chị tôi, và cứ mỗi lần nói chuyện với chị tôi, là anh ta lại
giả bộ
nói lơ lớ giọng Nhật. Anh ta theo chị tôi và chị Đào xuống cả Thái Hà
ấp là nơi
quê ngoại của chúng tôi, những ngày "tránh bom Mỹ-Nhật". Chị tôi
thường chê anh chàng là "lập dị", mặc dầu vẫn nghĩ rằng anh ta là một
người thông minh. Sau này, trong kháng chiến, không biết do một sự tình
cờ nào,
mà anh ta lại lấy được chị Đào. Nghe nói hai người sống hạnh phúc lắm
và có được
mấy mụn con.
Phố
Nhà Hoả (Hàng Điếu) vào lúc chập tối, ít hiệu mở cửa hơn. Hiệu mở cửa
và làm việc
khuya nhất có lẽ là hiệu khách làm rượu cắc kè (tắc kè). Sau này, lớn
lên vài
tuổi nữa, mỗi lần đi chơi qua đây, chúng tôi vẫn hay dừng lại đây xem
người ta
chọn những con cắc kè đã được phơi khô để ngâm rượu làm thuốc bổ bán.
Phố
này còn có nhiều cửa hiệu và nhiều nơi chốn khác khá ngoạn mục, mà
trong suốt
thời thơ ấu bọn trẻ chúng tôi vẫn thường hay đến.
Trước
hết, là ngôi đình Nhà Hoả, trước cổng đình có một cái sân nền đất,
chúng tôi vẫn
thường đến đây để đánh bi, đánh đáo. Bên trong còn có một cái sân nền
đất nữa,
cũng là chỗ để chúng tôi đánh bi, đánh đáo, ở đó có một cây hoa đại khá
đẹp.
Ngôi đình này nhiều khi có các bà, các cô đến thờ cúng tấp nập, như thể
một
ngôi đền. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn được xem lên đồng và được nghe hát
chầu
văn ở đây. Bên cạnh đình Nhà Hoả có mấy hiệu bán da thuộc nhuộm màu
xanh đỏ của
người Tàu. Phố Nhà Hoả còn có trường Kim Bảng, là một trường kiểu như
trường “mẫu
giáo”, và đương nhiên là tôi đã được vinh dự học ở trường này một dạo.
Kỷ niệm
nhớ đời của tôi ở đây, là một hôm cậu ấm đái vãi ra lớp, phải xin các
bạn giấy
thấm để thấm (!), mà vẫn bị "dẫn độ" về tới tận nhà trao trả cho bố
mẹ !
Phố
Nhà Hoả còn có nhà xuất bản Mai Lĩnh ; lại có một hiệu sách với một cái
tên rất
cổ kính : "Nhật Nam Thư Quán". Hiệu này còn là một nhà xuất bản các
loại sách dân gian nữa. Lớn lên, tôi vẫn chưa bao giờ có dịp mua một
cuốn sách
nào ở đây, thì chiến tranh đã ập đến. Mặc dầu vậy, mỗi lần đi qua đây,
tôi vẫn
hay thích nhìn ngắm những cuốn sách in sạch sẽ, với những cái bìa có
tranh khắc
vẽ, bày trong tủ kính !
Hiệu
ảnh Vạn Xuân ở bên hè bên kia cũng là một cực hấp dẫn khác, với những
tấm
"cartes postales" (bưu thiếp) bạc màu, cũ kỹ, mà chúng tôi thường dừng
lại xem không chán mắt, mặc dầu lúc bấy giờ chưa hiểu hết ý nghĩa và
ích lợi của
chúng. Bên cạnh hiệu Vạn Xuân, cách đó mấy nhà, còn có hiệu Vạn Thiên
Đường bán
đường, mứt. Hè phố bên này, trước cửa hiệu Vạn Thiên Đường cũng còn mấy
hiệu
bán đường, mứt nữa, nhưng không nổi tiếng bằng.
Phố Nhà Hoả,
ban ngày cũng là một phố đông vui, mặc dầu hơi tối, vì đây là phố độc
nhất
trong cả khu phố có những cây bàng cổ thụ, tán lá rậm rạp, che kín hết
cả,
không để một tia nắng nào lọt vào phố. Ở phố Nhà Hoả còn có một nhân
vật mà tôi
rất yêu mến, là chị Tuyết, bạn chị tôi, người Tàu lai, rất đẹp, mặc dầu
hơi âm
thầm, kín đáo. Chính chị Tuyết đã dạy cho chị tôi và tôi bài "Hà
Nhật Tân Tái Lai" bằng tiếng Tàu :
“Hao khoá pủ ừ chằng chái
Hà chí pu ư chẳng chài
Lôi xếnh xảng ừ chièo mi
Lư xếnh xảng ứ chừ ử tài
Chin ché lôi ư pè hâu ...”
Lời tiếng Tàu
nghe dịu hơn và đỡ ngây ngô hơn là lời tiếng Việt, không biết do ai đặt
ra, với những câu hát như : "Đi chớ để hình bóng
/ Cùng vết thương em để bên lòng...", nghe thật ngây ngô, nếu
nói theo
ngôn ngữ thời ấy của các anh chị lớn tôi, thì tôi phải nói rằng nghe
rất là "máy nước" !
Đi
hết phố Nhà Hoả là đã trở về phố Hàng Bát Đàn. Thường thường, về đến
đây, tôi bắt
đầu buồn ngủ. Vú đặt tôi xuống cái chõng gỗ ở đầu hè, sát ngay cửa
hàng, dưới
mái hiên, để tôi ngủ cho mát, nếu là mùa nực. Mùa đông, vú cho tôi rúc
vào lòng
mẹ, hay lòng đẻ tôi, thường ngồi ở ngay cửa hàng, ở đó tôi được ngủ một
lúc nữa
cho đến giờ đóng cửa hàng, vú mới lại cõng tôi lên buồng mẹ tôi ở trên
gác.
Khoảng
thời gian hai tiếng đồng hồ mà tôi được ngủ trên chiếc chõng ngoài hè
cũng là một
khoảng thời gian đầy hạnh phúc. Giấc ngủ chập chờn nhưng rất thú vị của
tôi được
ru bởi tất cả những âm thanh quen thuộc : tiếng xe cộ trên đường, tiếng
người
huyên náo, tiếng rao hàng quà, tiếng kèn hát của nhà Thiên Nhiên từ đầu
phố
Hàng Bồ vọng xuống theo chiều gió, có lúc như rót vào tai, và nhất là
tiếng hát
của những đám xẩm có khi ngồi sát ngay bên chỗ tôi nằm. Thêm vào đó,
hình ảnh
những con thiêu thân bay quanh ngọn đèn phố, những chú dơi nhào lượn
nhanh
thoăn thoắt như những bóng ma, dần dần cũng không làm tôi hãi sợ nữa,
mà ngược
lại đã đưa tôi vào những giấc ngủ ngon lành.
Ban ngày, tôi thường được vú cho đi chơi xa hơn. Nhưng trước khi đi
chơi,
tôi phải
ăn thật hết bát cơm vú xúc cho đã ! Vú hay la cà lên đến tận Hàng Bồ,
Hàng Bạc,
hay ra tận Hàng Ngang, Hàng Đào.
Lên
phố Hàng Bạc, vú cho tôi đi đến tận nhà bà Bé Tí (có chồng người Pháp
tên là Petit) để xem những con thú vật dị dạng, hiếm có, như : gà ba
chân, lợn
năm chân, v.v... nhốt trong chuồng, cũi. Trong
óc tưởng tượng của tuổi thơ, nhà bà Bé Tí, nằm lấp sau đám cây cỏ lạ,
và sau
cái hàng rào chấn song sắt, ở ngay một góc phố, nhìn sang rạp hát Tố
Như, luôn
luôn là một sự bí mật đối với tôi.
Cũng
như, ở phố Hàng Bồ có nhà Quảng Hưng Long, chủ nhà chắc hẳn là một
thương gia
giàu có người Minh hương. Đó là một ngôi
nhà đồ sộ nằm ở quãng giữa phố. Nhà xây theo kiểu Trung Quốc, phong
cách cổ
kính, tường ốp gạch men sứ, ngói tráng men màu xanh lam, suốt năm đóng
cửa im ỉm,
không thấy buôn bán gì, nhưng nhìn qua cổng sắt thì thấy bên trong có
sân vườn
rất là đẹp, một điều thật là hiếm ở một phố buôn bán. Phố Hàng Bồ còn
có nhà Tường
Ký, là cửa hiệu sản xuất và bán pháo lớn nhất Hà Nội, luôn luôn có hai
ông “tây
đen” quấn khăn, canh ở cửa (ngày đó, chúng tôi không biết phân biệt
người Phi
châu, người Ấn Độ, hay người Pakistan, mà đều gọi chung là “tây đen” !)
; rồi
nhà bà Hai Tăng bán ô mai ngon nổi tiếng, với đủ các loại ô mai, đựng
trong những
cái lọ bằng thuỷ tinh sạch sẽ và bóng loáng, bày ngay trên chiếc quầy
cao ngang
tầm con mắt và hướng ra hè đường. Sau này, trong suốt thời thơ ấu, bọn
trẻ chúng tôi cứ khi
nào xin mẹ được xu
nào, lại chạy lên đây để mua ô mai.
Còn
một nơi nữa cũng đầy sự bí ẩn đối với chúng tôi, là đền Hàng Bồ, luôn
luôn tấp
nập người ra vào và nhộn nhịp tiếng đàn tiếng hát chầu đồng. Đền nằm ở
ngay gần
chỗ góc phố Hàng Bồ và Hàng Bút, cạnh nhà bán đĩa hát Thiên Nhiên. Cửa
hàng bán
giấy bản của mẹ tôi cũng ở ngay góc phố Hàng Bút, nên thỉnh thoảng khi
tôi lên
cửa hàng giấy với mẹ tôi, nghe thấy tiếng đàn hát chầu văn, thế là tôi
tìm cách
lẻn sang bên ấy để xem lên đồng ! Có một lần, tôi được xem một buổi
chầu đồng
khá đặc biệt và khá “ấn tượng”. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy
những nhạc
công người Mường vừa thổi khèn, vừa múa trước điện thờ, trong khói
hương nghi
ngút và trong tiếng nhạc nghe lơ lớ rất lạ tai. Ngày ấy, bọn trẻ con
chúng tôi
hễ trông thấy người Mường, người Mán, ăn mặc y phục dân tộc của họ, đeo
vòng,
đeo kiềng, nước da lại ủng như người ngã nước, thì cứ thấy hơi sợ sợ.
Có lẽ
cũng chỉ vì người lớn, cứ hay kể chuyện ma quỷ ở trên mạn ngược, và
chuyện mẹ
mìn để doạ chúng tôi.
Phố
Hàng Bồ cũng là nơi mỗi năm, cứ đến ngày giáp Tết là lại diễn ra một
cảnh tượng
vô cùng náo nhiệt, đó là cảnh chợ tranh Tết, với các hàng bán tranh Tết
và các
ông đồ từ dưới quê lên, ngồi viết câu đối thuê ở suốt một dọc bên dãy
số lẻ.
Nhưng
thường xuyên nhất, là cứ độ vài ngày vú lại dẫn tôi đến nhà con trai
của vú ở
ngõ Yên Thái, cạnh chợ Hàng Da.
Nhà
của con trai vú thực ra là một tiệm hút thuốc phiện. Đây là một trong
hai cái lỗi
lớn mà vú đã phạm phải trong thời kỳ vú nuôi tôi. Cũng chính vì hai
chuyện này
mà mẹ tôi đã bó buộc phải thay vú bằng một chị nuôi trẻ hơn và hiền
lành hơn để
chăm nom tôi cho đến năm tôi lên sáu. Lẽ ra thì ở trong nhà cũng không
ai biết
rằng thỉnh thoảng vú vẫn đưa tôi đến tiệm hút của con vú. Chỉ vì một
hôm đã xảy
ra một câu chuyện ở đây, và sau đó đã đến tai thầy mẹ tôi.
Hôm
đó, cũng như mọi lần, sau bữa ăn trưa, vú dẫn tôi đến chơi nhà con của
vú ở ngõ
Yên Thái. Nhà này tầng dưới là một hàng nước chè tươi bình thường dành
cho những
người lao động, nhưng tầng trên gác lại là một tiệm hút do người con vú
quản
lĩnh.
Thời
đó là cái thời mà ở Hà Nội nhan nhản những tiệm hút thuốc phiện, bên
ngoài treo
cái biển "Fumerie d'opium", và những tiệm bán thuốc phiện với cái biển
đề chữ "RO" (Régie d'opium).
Chúng
tôi đi vào một cái sân nhỏ, rồi lấy cầu thang ngoài trời leo lên gác.
Trong căn
phòng tối om, các cửa sổ nhìn ra đường bao giờ cũng đóng kín, mấy dân
nghiện
"vai so, cổ rụt" nằm co ro trên những chiếc phản gỗ, hai người một
bàn đèn, thay phiên tiêm cho nhau những điếu thuốc cháy xèo xèo trên
miệng tẩu.
Thấy vú đưa tôi
đến, họ bỗng nhiên như vui hẳn lên vì có người để tán chuyện gẫu. Tôi
nhỏ tuổi,
nên hay bị chòng ghẹo, làm trò đùa cho họ. Có một lúc, thấy tôi cứ táy
máy sờ mó vào hết thứ
này, thứ nọ, một
tay đương nằm hút bỗng nhỏm dậy bảo tôi : "Này đừng có mó máy
vào đấy
mà anh Đ. anh ấy đánh cho chết đấy!". Anh Đ. là con của vú
già. Tôi bảo
tôi không sợ. Thế là một tay khác hỏi kháy tôi : "À thế đằng
ấy không sợ
anh Đ. thật hả ?". Tôi vẫn một mực lắc đầu, đáp không.
Chắc
hẳn lúc đó tôi nghĩ rằng :
anh Đ. chẳng khi nào dám đụng đến tôi, vì anh Đ. là con của vú, mà vú
là vú của
tôi. Ở vào cái tuổi ấy, lại là con nhà giàu được nuông chiều, có khi
tôi đã có
cái ý nghĩ là mình có quyền làm bất cứ một cái gì, và không ai dám nói,
dám mắng
hết. Thế là tay đó chỉ ngay vào chiếc hộp
bằng đồng tròn, dẹp, để ở trên bàn, và thách tôi : "Này
có giỏi thì đái vào cái hộp ấy một cái xem nào !".
Cả
mấy tay đang hút thuốc phiện đều cười rộ lên. Tôi biết hộp đó là hộp
thuốc phiện,
vì đã nhiều lần nhìn thấy nó ở bên cạnh những khay đèn. Tôi mở nắp hộp
ra, bên
trong còn đến lưng hộp đầy thuốc phiện màu đen nhánh, rồi chẳng nói
chẳng rằng,
thản nhiên vạch quần đái vào trong.
Thế
là tên Đ., con của vú già, như một con thú dữ, nhảy chồm ra khỏi
giường, vớ lấy
cái xe điếu đét vào đít cho tôi đến hàng chục roi. Tôi đau quá, đái vãi
cả ra
sàn, vừa khóc toáng lên, vừa doạ về mách bố mẹ. Vú già vội ngăn con
không cho
đánh tôi nữa, rồi ôm tôi đi ra khỏi "nhà" của tên con, vừa đi vú vừa
dỗ dành.
Về
đến nhà, chưa chi cả nhà đã biết chuyện, vì giấu cũng chẳng được. Tôi
lại còn
khoe cái kỳ công của mình nữa, làm cho các anh các chị và bọn cháu tôi
cười rũ.
Còn thầy mẹ tôi, sau khi biết chuyện, giận vú già lắm, cho gọi vú lên,
cấm từ
ngày đó không được đem tôi đi theo lại đằng chỗ con vú nữa.
Ngõ
Yên Thái ngày ấy còn là nơi có những nhà chứa, mà người dân Hà Nội gọi
là
"nhà thổ", cho nên nói đến cái tên ngõ này, là người ta hay nghĩ đến
những hình ảnh xấu xa kia. Đáng lý ra, vào cái tuổi tôi lúc đó, không
nên đi
qua đây là phải ! Nhưng trên thực tế, mới bốn, năm tuổi đầu, tôi đã
từng hé miệng
hít thử khói thuốc phiện, và đã từng nhìn thấy cảnh khổ cực của những
cô gái điếm
!
Ngõ
Yên Thái một đầu ăn thông với chợ Hàng Da, một đầu đâm ra phố Hàng
Mành. Những
ngày trời mưa, ngõ này lầy lội, bẩn thỉu vào hạng nhất ở Hà Nội. Vậy mà
thày
giáo Thu, thày giáo lớp "élémentaire" của tôi sau này ở trường Bùi
Xuân Phái, trọ ở đây. Mẹ tôi và tôi đã phải đến đây để mừng Tết thầy
một lần.
Thầy ở trên một căn gác trọ nhỏ xíu, ngay trên những căn buồng của các
cô gái
điếm. Sau này, lớn lên, tôi không bao giờ có dịp đi ngang qua đây nữa.
Ngày
ấy, cứ mỗi lần ở "nhà" con
trai đi ra, vú lại cho tôi đi về phía phố Hàng Mành. Vì thế cho nên phố
này
cũng là một trong những phố mà tôi được biết rất sớm, ngay từ hồi lên
bốn, lên
năm.
Nhưng phải chờ vài
ba năm nữa, khi bọn trẻ hàng phố chúng tôi bắt
đầu biết rủ nhau đi
chơi "khắp hang cùng ngõ hẻm", lúc bấy giờ tôi mới có được một "cái
nhìn chung", và mới "hiểu" được ít nhiều về những sinh hoạt của từng
phố,
từng nhà.
Phố
Hàng Mành rất ngắn, chỉ có độ dăm cửa hiệu thôi, nhưng trên vỉa hè lúc
nào cũng
đầy những chiếc mành mành mà người ta đang sơn, đang vẽ, hoặc đang phơi
phóng.
Mỗi lần đi qua đây, là chúng tôi lại phải bịt mũi nín thở, vì cái mùi
thum thủm
rất khó ngửi của nứa ngâm mang từ ngoài bến về.
Cùng
một dọc với phố Hàng Mành là phố Hàng Hòm, chuyên làm hòm gỗ tạp, chất
lượng rất
kém so với "hòm thơm" và "hòm da" ở phố tôi. Sau này, ganh đua với phố
Hàng Bát
Đàn, ở đây người ta cũng làm cả đồ da nữa. Ở phố Hàng Hòm ngày đó vẫn
còn vài
nhà làm đồ khảm và sơn mài, chủ yếu là làm khay, tráp, bình phong,
v.v...
Ở
giữa Hàng Hòm và Hàng Mành, ngay cạnh ngõ Yên thái, có một cửa hàng duy
nhất ở
Hà Nội làm những đầu sư tử khổng lồ dành cho những đội múa sư tử chuyên
nghiệp
vào dịp Rằm tháng tám. Những đầu sư tử này không thể nào tìm thấy được
ở phố
Hàng Gai. Đó là những tác phẩm nghệ thuật, mà lẽ ra phải được đưa vào
những viện
bảo tàng để lưu lại cho hậu thế ! Những nghệ nhân làm ra những đầu sư
tử này,
ngoài tay nghề khéo léo, còn có một khiếu thẩm mỹ thật vững vàng. Sự
thật, đây
là cả một truyền thống có từ lâu đời. Mỗi Tết Trung thu, ở đây khác với
ở Hàng
Gai, người ta chỉ làm có vài ba đầu sư tử thôi, theo sự đặt mua trước
của vài
ba khách hàng hiếm hoi.
Điểm
đặc biệt nhất của những chiếc đầu sư tử này, là khung của chúng được
làm toàn bằng song, đường kính trung
bình của mỗi
chiếc cũng phải từ 1,50m đến 2m. Giấy bồi cũng được chọn lọc, chứ không
phải giấy
báo thường. Mỗi đầu sư tử được làm theo một kiểu riêng, mỗi chiếc một
khác, và
mỗi năm một khác, chứ
không phải làm
hàng loạt, theo cùng một khuôn mẫu, năm này qua năm khác, như ở phố
Hàng Gai.
Nhưng lạ nhất là cách trang trí bằng những màu sắc và chất liệu rất dân
gian, với
cả những miếng gương lóng lánh làm tăng thêm vẻ huyền bí, dữ dội.
Kể
cũng lạ, là ngày ấy, mặc dầu tuổi còn non nớt và nhất là chưa được ai
chỉ dạy
cho, mà chúng tôi đã biết yêu thích những chiếc đầu sư tử này, và đã
biết chê
bai những chiếc đầu sư tử bán ở phố Hàng Gai. Mãi sau này lớn lên, tôi
mới hiểu
rằng chính những chiếc đầu sư tử ở phố Hàng Mành mới là là những sản
phẩm nghệ
thuật dân gian đích thực, mặc dầu hiếm hoi.
Vào
khoảng những năm 43-44, khi tôi lên chín, lên mười, hàng năm vào dịp
Tết Trung
thu, đi ngang qua đây, tôi không còn thấy cái cảnh người ta ngồi đan
đầu sư tử ở
ngoài vỉa hè nữa. Bùi ngùi, nhìn vào tít trong nhà, tôi chỉ còn thấy
một hai
chiếc đầu sư tử cũ đã bám bụi treo ở trên tường.
Đấy
cũng là những chiếc đầu sư tử khổng lồ cuối cùng đánh dấu một thời đã
qua, và
chấm hết cái thời thơ ấu của bầy trẻ chúng tôi, mà một số đã dấn thân
đi theo
tiếng gọi của cách mạng.
Chương 04
Chương 05
Chương 06
Chương 07
Chương 08
Chương 09
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà Nội
Chương 01: Tuổi vỡ lòng
Các thao tác trên Tài liệu