Hồi ức tuổi thơ: Những năm tháng không thể nào quên
Những năm tháng không thể nào quên
Văn Ngọc
Tôi
có
những kỷ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, âm thầm dìu dắt ta đi trên những
chặng
đường đời. Đôi khi, chúng là cái lẽ sống của ta trong suốt cả một cuộc
đời.
Tôi vẫn từng tâm niệm, một ngày nào đó sẽ ghi lại những kỷ niệm về Cách
mạng tháng
Tám, dù chỉ qua trí nhớ và tâm hồn của một đứa trẻ thơ, có một tầm nhìn
giới hạn,
bởi một lẽ đơn giản là những ngày tươi đẹp nhất của thời niên thiếu của
tôi chính
là những ngày tháng ấy.
Cách
mạng tháng Tám, đối với cả một thế hệ thanh thiếu niên chúng tôi, là
một giai đoạn dấn thân
sôi nổi và hào
phóng, một giai đoạn đầy những khát vọng và tin tưởng vào tương lai.
Đó là những năm
tháng không thể nào quên được.
Tin
Nhật đầu hàng Đồng Minh từ ngày 15-8-1945, đến sáng ngày 17-8 báo chí ở
Hà nội
mới đăng và dân chúng Hà thành mới được biết. Vài ngày nữa phái bộ Đồng
Minh sẽ
đến Hà Nội và quân Đồng Minh sẽ vào Đông Dương để tước khí giới của
Nhật.
Trước
những biến chuyển phức tạp của tình hình, chính phủ Trần Trọng Kim đã
cho triệu
tập một cuộc mít tinh vào chiều ngày 17-8 tại quảng trường Nhà hát lớn,
với
danh nghĩa là một cuộc tập hợp quần chúng để ủng hộ nền độc lập vừa mới
giành
được, thực chất là để gây uy tín cho mình. Chính phủ này, cho đến nay
vẫn bất
lực trước nhiều vấn đề cấp bách đặt ra lúc ấy, trước hết là vấn đề giải
quyết nạn
đói, rồi còn nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, nghiêm trọng khác nữa. Trên
thực tế,
mọi việc vẫn là do Nhật quyết định cả. Cuộc mít tinh chiều hôm 17-8 sẽ
do
"Tổng hội viên chức", một tổ chức cũng vừa mới được thành lập, đứng
ra triệu tập.
Trong
những ngày này, Việt Minh hoạt động công khai ráo riết ở khắp nội ngoại
thành.
Nhiều cuộc diễn thuyết táo bạo đã nổ ra ở khắp mọi nơi, trong các rạp
hát, tại
Hội quán Trí Tri, v.v. Trên thực tế, Việt Minh đang chuẩn bị để chờ dịp
tổng khởi
nghĩa.
Vào
dạo này, các cụ ở phố tôi hay thích ngâm nga những câu "sấm", và
thường hay nhắc đi nhắc lại câu: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết
thì sống". Nhưng biết thế nào, và biết cái gì, thì không cụ nào giải
thích được cho con cháu cả. Sau này nghĩ lại, tôi thấy câu nói của các
cụ ngày ấy
rất đúng, nhưng người "biết" lúc ấy hoạ chăng chỉ có Việt Minh !
Dân
chúng Hà Nội, mặc dầu thiếu thông tin, nhưng không còn u mê như ngày
trước nữa.
Người ta truyền miệng cho nhau từ phố này sang phố khác những tin tức,
những mẩu
chuyện đôi khi cũng chính xác, thành thử bảo rằng người Hà Nội ngày ấy
không
"biết" thì cũng không đúng hẳn.
Cho
nên, chiều ngày 17-8, người ta đã kéo nhau
đi dự mít tinh rất đông. Cũng có người vì bó buộc mà phải đi. Như
hai ông anh rể tôi, nguyên là tham biện, trưa hôm ấy cũng trịnh trọng
đóng bộ,
xách ô, ra Nhà hát lớn. Đây là cả một sự kiện mới lạ đối với bọn trẻ
chúng tôi ở
trong nhà ! Các chị lớn tôi lấy làm hoan hỉ lắm, vì chẳng mấy khi các
đức ông
chồng dám rời khỏi nhà, khỏi sở, để đi đâu nửa bước. Hai ông anh rể tôi
đúng là
những viên chức mẫu mực, hiện thân của sự "an phận thủ thường"
trong cái xã hội cũ.
Riêng
bọn trẻ chúng tôi, được các anh lớn ở trong phố cho biết từ tối hôm
trước, tôi
và Lợi, hai chú cháu, trưa hôm ấy cũng rủ nhau đi xem. Nghe các anh lớn
nói, thể
nào Việt Minh cũng sẽ ra mặt công khai vào dịp này.
Ngày
ấy, không hiểu sao, chúng tôi hay thích đi xem những cuộc hội hè của
người lớn.
Từ những ngày hội của học sinh các trường trung học, như: trường Bưởi,
trường
Lycée Albert Sarrault, trường Đồng Khánh, trường Thăng Long, trường Văn
Lang,
v.v. cho đến ngày hội của sinh viên tổ chức ở dưới Đông Dương học xá,
gần như
chỗ nào cũng có mặt chúng tôi, và ở Hà Nội có chuyện gì là chúng tôi
đều biết hết.
Thực
ra, ngày ấy, nếu phong trào thanh thiếu niên ở phố tôi không mạnh, thì
bọn trẻ
chúng tôi chắc cũng chỉ biết chơi đùa lêu lổng và cũng không học hỏi
được gì
nhiều. Các anh lớn ở trong phố có người đã "tham gia bí mật" ngay từ
những năm 42-43. Phần lớn các anh các chị khác đều đã tham gia các
phong trào
"Truyền bá quốc ngữ", thể dục thể thao, tập đàn tập hát, rồi khi xảy
ra nạn đói năm Ất Dậu, nhiều người đã đứng ra phụ trách Đoàn Khất thực.
Ngày
17-8-1945
Quảng
trường Nhà hát lớn chưa bao giờ lại đông như chiều hôm ấy. Chúng tôi
len lỏi một
lúc, cuối cùng tìm được một chỗ đứng khá tốt dưới hàng cây có bóng mát,
chỗ góc
đường Lý Thái Tổ bây giờ,
ở phía bên trái Nhà hát lớn. Ở đây, tình cờ
có một
chiếc xe bò, không biết của ai, đặt ở trên hè. Chúng tôi trèo ngay lên
càng xe
đứng xem. Từ chỗ này, chúng tôi có thể nhìn thấy rõ tất cả những gì xảy
ra ở
phía lễ đài và trên quảng trường.
Lợi
và tôi ngày ấy còn nhỏ lắm. Lợi mới lên 9, tôi vừa được 11 tuổi. Hai
chú cháu
đi đâu cũng có nhau, đeo nhau như hình với bóng. Lợi sau này làm lớn.
Ngày tôi
về thăm gia đình sau thống nhất, nhớ lại tình chú cháu ngày xưa, tôi có
kể lại
cho Lợi nghe những chuyện cũ, nhưng Lợi không còn nhớ được gì hết ! Kể
cũng lạ.
Tôi thì ngược lại, những hình ảnh đó như đã in sâu vào trí óc, không
thể nào
quên được.
Cuộc
mít tinh vừa mới bắt đầu chưa được bao lâu, bỗng nhiên có tiếng xôn
xao, cờ Việt
Minh đã xuất hiện ở phía lễ đài, rồi ở nhiều chỗ khác. Chỉ trong giây
lát,
quang cảnh trên quảng trường thay đổi hẳn. Cuộc mít tinh mới hồi nãy tẻ
nhạt
bao nhiêu, thì bây giờ tưng bừng, sôi nổi bấy nhiêu. Những nắm tay giơ
lên
trong muôn ngàn tiếng hoan hô vang dội. Từ trên tầng gác cao của Nhà
hát lớn, một
lá cờ đỏ sao vàng to được thả xuống trong tiếng reo mừng của dân chúng.
Trăm
nghìn con mắt đổ dồn vào lá cờ bấy lâu nay vẫn từng ẩn hiện đây đó.
Trên nét mặt
mọi người lúc này, nỗi sung sướng, hân hoan, thật không sao tả xiết!
Người
tôi run lên vì xúc động, nước mắt tự nhiên cứ trào ra. Một cụ già, khăn
đóng áo
the, tay cầm chiếc ô trắng, trông như một công chức đã về hưu, đứng ở
ngay bên
cạnh chúng tôi, mắt cụ cũng đỏ hoe. Cụ nhìn chúng tôi, rồi nói như phân
vua với
những người xung quanh: "Đấy, đến cả đứa trẻ con nó cũng biết mừng như
thế cơ mà !". Phải rồi, 80 năm nô lệ, suốt đời tủi nhục, bây giờ cụ mới
nhìn thấy loé ra một tia sáng, bảo làm sao mà cụ không thấy sung sướng,
hả hê
được!
Tôi
chợt nghĩ đến hai ông anh rể hiện giờ cũng đang có mặt ở đâu đây. Không
hiểu giờ
phút này phản ứng của các ông ra sao ? Sau này, tôi biết là hai ông đều
có đôi
chút cảm tình với chế độ mới. Nhưng các ông cũng chỉ thuộc hạng người
đứng xa vỗ
tay mà thôi. Nếp sống cũ dường như làm cho con người ta già trước tuổi.
Thế mà
kỳ lạ thay, chỉ một năm sau, vào những ngày Kỷ niệm Một năm Cách mạng
tháng
Tám, tôi đã bắt gặp những
nét tươi vui,
thậm chí những nụ cười hân hoan, trên khuôn mặt trước kia vẫn buồn tẻ
và đầy
nét lo âu của hai ông anh rể!
Biển
người bỗng nhiên chuyển động. cuộc mít tinh biến thành biểu tình tuần
hành, đổ
xuống phố Tràng Tiền, rồi ra bờ hồ. Từ mé bên này quảng trường, chúng
tôi lấy
ngả tắt, băng qua vườn hoa Chí Linh, rồi nhập vào đoạn đầu của đoàn
biểu tình ở
ngay trước Toà thị chính. Mặc dầu trời đã bắt đầu mưa, nhưng ai nấy đều
giữ nguyên hàng ngũ, vừa
đi, vừa hô những khẩu
hiệu: "Ủng hộ Việt Minh !", "Việt Nam độc lập muôn năm!", "Đả đảo chính
phủ bù nhìn !", v.v. Đoàn biểu tình đi qua phố
Hàng Đào, Hàng Ngang, để lên Phủ Toàn quyền. Lợi và tôi, hai chú cháu
bảo nhau
rẽ về phố nhà, phần vì sợ về muộn nhà mắng, phần vì nóng lòng muốn về
kể lại
cho ở nhà nghe những gì mình vừa được mục kích.
Ngày
19-8-1945
Hai
hôm sau, Hà Nội tổng khởi nghĩa. Không
như ngày 17-8, lần này mọi người đều đã được chuẩn bị tinh thần từ
trước. Không
những sinh viên, học sinh, mà ngay cả thợ thuyền và những người làm
công trong
mỗi nhà đều nghỉ việc hôm ấy để đi biểu tình.
Kỷ
niệm còn đậm
nét trong ký ức tôi về cuộc mít tinh khổng lồ ngày 19-8-1946, cũng tại
quảng
trường Nhà hát lớn, không phải chỉ là cái không khí tưng bừng của một
ngày hội
lịch sử, đất nước vùng đứng lên phá tan xiềng xích của 80 năm nô lệ,
cũng không
phải chỉ là hình ảnh biển người và rừng cờ rực đỏ, tưng bừng trong ánh
sáng ban
mai, mà còn là cái tình người rạt rào, là những ánh mắt đầy tin tưởng,
những
bài hát tuyệt vời, mà lần đầu tiên chúng tôi được nghe thấy từ chiếc
loa phóng
thanh phát ra từ trên tầng cao của Nhà hát lớn, đặc biệt là bài Tiến
Quân Ca
của Văn Cao, và nhất là bài Diệt
Phát
Xít của Nguyễn Đình Thi.
Đối
với chúng tôi lúc đó, bài hát này là cả một sự kiện mới mẻ, cả về nhạc
lẫn lời.
Nhịp điệu cũng như lời ca có một sức lôi cuốn mãnh liệt. Có một cái gì
đó vừa
thiết tha, vừa lãng mạn. Bài hát đã làm cho nhiều người rơi nước mắt.
Cũng
như chúng tôi đã không khỏi xúc động khi lắng nghe tiếng người cán bộ
Việt Minh
nói trên diễn đài rót xuống từng chữ từ chiếc loa phóng thanh. Vài ngày
sau,
tôi không còn nhớ rõ ngày nào, và nhân dịp nào, cũng ở đây, những bài
diễn văn
của các ông Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, càng làm
cho chúng tôi thêm
phấn khởi và tin tưởng.
Đó
là những bài diễn văn cách mạng đầu tiên mà chúng tôi được nghe thấy.
Chưa bao
giờ tôi thấy tiếng Việt mình lại đẹp và có sức quyến rũ đến như thế !
Những
ngày mùa thu 1945
Hà
Nội như vừa lột xác, bỏ lại đằng sau bộ mặt u sầu của một thời nô lệ,
để khoác
lên mình một màu áo mới. Hà Nội tái sinh, dạt dào sức sống, và một niềm
hy vọng
chứa chan tràn ngập trong lòng mỗi người.Chính
quyền cách mạng vừa mới lên đã phải lo giải quyết trăm công, nghìn
việc: nào đối
nội, đối ngoại, nào chống nạn đói, nạn lụt, nạn mù chữ, xây dựng lực
lượng quốc
phòng, chăm lo đời sống văn hoá, giáo dục cho dân, v.v. Vậy mà cuộc
sống của bọn
thanh thiếu niên thành thị chúng tôi ngày ấy dường như phong phú hơn
nhiều so với
trước và không lúc nào bị ngưng trệ, mặc dầu tất cả những nỗi khó khăn
và những
mối đe doạ ở xung quanh. Hình như lúc ấy, mọi người đều cảm thấy có một
cái gì
thôi thúc mình đi lên phía trước, nắm lấy thời cơ để tự mình xây dựng
lấy tương
lai của mình. Mà quả thật, mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn thấy rằng ngày đó
chúng
tôi đã sống một cách thật khẩn trương và hào phóng. Chỉ trong vòng một
năm sau
ngày Cách mạng thành công, riêng bọn trẻ chúng tôi đã tiến được những
bước rất
xa và đã làm được những việc mà lẽ ra phải hàng nhiều năm mới thực hiện
nổi.
Ngay
sau ngày 19 tháng 8, ở các khu phố, nhiều đội "nhi đồng" đã được
thành lập cùng một lúc với các đội "thanh niên tự vệ thành" gồm các
anh lớn từ 16, 17 tuổi trở lên. Lúc đầu, tổ chức nhi đồng được gọi là
"Nhi đồng cứu vong", cái tên nghe lạ lẫm, và không lấy gì làm hấp dẫn
cho
lắm, lại không thích hợp với các lứa tuổi, cho nên chỉ ít ngày sau được
đổi
thành "Thiếu nhi", bao gồm cả thiếu niên và nhi đồng. Ngoài
ra, ở một mức độ cao hơn và không thuộc phạm vi khu phố nữa, còn có
những tổ chức
khác như : " Thiếu niên tiền phong ", " Thiếu sinh quân ",
" Thanh niên tiền phong ", " Tự vệ chiến đấu ", là những tổ
chức quần chúng đã "thoát ly", hoặc nửa thoát ly.
Phố
tôi, phố Hàng Bát Đàn, chiếm một vị trí khá đặc biệt trong cả cái khu
phố buôn
bán xưa nhất của Hà Nội, gồm các phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Bát đàn,
Hàng
Bát sứ, Hàng Phèn, Hàng Bút, Hàng Bồ, Hàng Thiếc, Hàng Nón, Hàng Da,
Hàng Mành,
Hàng Hòm, v.v.
Một
số điều kiện khách quan đã khiến cho phố tôi trở thành một thứ "tiền
đồn" của cả khu Đông Thành, đối mặt với thành Cửa Đông của quân đội
Pháp, chịu
sức ép trực tiếp của những cuộc khiêu khích và khủng bố của lính Pháp
trước ngày khởi hấn. Sau này, cả
khối phố Hàng
Bát Đàn, Hàng Thiếc, Hàng Nón, Hàng Điếu, sẽ là một trong những điểm
nóng của
Liên khu I, và bị Pháp đánh phá dữ dội.
Mặt
khác, phố tôi cũng
đồng thời là cái đầu
tầu về các mặt sinh hoạt của thanh thiếu niên khu phố trong những năm
trước và
sau Cách mạng. Lực lượng thanh niên và thiếu nhi ở phố tôi lúc đó hùng
hậu lắm.
Thanh niên tự vệ cũng được khoảng một trung đội. Ngoài ra, còn một vài
anh tuy
đã ở trong bộ đội "Vệ quốc đoàn" rồi, nhưng vẫn thường hay về phố
nhà để huấn luyện và làm cố vấn cho anh em tự vệ. Đội thiếu nhi chúng
tôi đông
hơn, được gần 50 em, chia làm 4 tiểu đội, 3 nam, 1 nữ.
Phong
trào thiếu nhi ra đời cũng góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hà Nội. Bắt
đầu là
trào lưu đánh "trống ếch" và mặc đồng phục, con trai mặc quần soóc
xanh, sơ-mi trắng, con gái mặc váy xanh, hoặc quần xa-tanh đen thắt túm
ở chỗ cổ
chân, đầu đội mũ ca-lô nâu, cổ quàng khăn đỏ.
Mỗi
tối, phố
tôi thường vang lên tiếng tập "đi bước đều" theo lối nhà binh của đội
thiếu nhi. Tôi phụ trách một tiểu đội, nên luôn luôn phải gào thét,
khản cả cổ.
Một hôm, chị Thiều đứng xem chúng tôi tập đi bước đều qua cửa hàng nhà
chị, bất
chợt chị nhìn tôi tủm tỉm cười, rồi nói một câu nửa khen, nửa trách : "Gớm,
người thì nhỏ, mà sao tiếng thì to thế !". Chị Thiều có cặp
mắt đen
láy, tinh nghịch, và một nụ cười với chiếc răng khểnh, rất có duyên.
Sau này tản
cư, tôi còn được gặp lại chị một đôi lần ở chợ huyện Lý Nhân, rồi sau
không bao
giờ được gặp lại nữa. Bao nhiêu năm đã qua rồi, nhưng câu nói của chị
vẫn như
văng vẳng ở bên tai tôi, nhắc nhở tôi cái thực tế của những ngày ấy.
Phải rồi,
ngày ấy quả là chúng tôi còn nhỏ lắm. Nếu không có Cách mạng tháng Tám,
thì
chưa chắc tiếng nói và tiếng hát của chúng tôi đã cất cao lên được như
thế !
Ngày
ấy, nhi đồng chúng tôi đi đâu là có các chị đi theo để giúp đỡ. Những
sinh hoạt
của chúng tôi thường làm bận rộn cho cả phố. Các chị là những người vất
vả nhất,
nhưng lại là những người vui vẻ và đáng yêu nhất. Hình ảnh của các chị,
sau bao
nhiêu năm rồi vẫn không hề phai nhạt trong trí óc tôi, dường như đã
quyện chặt
lấy tâm hồn tôi. Nhiều khi tôi bắt gặp đây đó, phảng phất một nụ cười,
một ánh
mắt, mà tưởng chừng như thấy lại được một cái gì của những ngày ấy.
Cách
mạng lên chưa được bao lâu, thì phố tôi được lệnh treo cờ đồng minh. Bộ
mặt phố
hôm trước hôm sau thay đổi hẳn, không khí lại càng tăng thêm vẻ khẩn
trương.
Năm lá cờ đồng minh : Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Tàu (Tưởng Giới Thạch), mỗi
cái to
ít nhất bằng hai ba cái chiếu đại, được giăng ngang qua đường theo
chiều cao, ở
ngay khoảng giữa phố. Ở khu Đông Thành chỉ có phố tôi là treo cờ. Tối
đến, ánh
đèn đường rọi vào những lá cờ đầy màu sắc in bóng xuống đường phố, lúc
đầu
trông cũng rất "ấn tượng", sau dần dần quen đi, chẳng ai để ý đến
những lá cờ ấy nữa.
Ngày
ấy, không mấy ai tin tưởng gì vào quân đồng minh, bằng cớ là ở miền Nam
quân đội
Anh-Ấn đã cho quân Pháp theo vào để gây hấn trở lại. Ở miền Bắc, quân
Tàu Tưởng
vào tước khí giới của Nhật, nhưng đã lợi dụng cơ hội, ăn chia với Pháp
qua một
cuộc đổi chác có ký kết bằng hiệp ước hẳn hoi ở Trùng Khánh, cho phép
quân đội
Pháp ở lại miền Bắc, cụ thể là chúng lại được đóng quân tại Hà Nội và
một vài tỉnh
khác.
Ở
Hà Nội, chúng lại tái nhập thành Cửa Đông ngay từ tháng 3-1946, và sau
khi quân
Nhật và quân Tàu Tưởng rút đi hết rồi, chúng lại có mặt hàng ngày trên
đường phố
Hà Nội. Bọn lính mũ đỏ, mà đại bộ phận là lính lê dương, là bọn dữ tợn
nhất,
hay đi từng đám ra phố khiêu khích.
Mặc
dầu có Uỷ ban Liên kiểm Việt-Pháp, song mối đe doạ chiến tranh trở nên
thường
trực. Tôi không còn nhớ đến tháng nào năm 46 thì quân Nhật rút đi hết,
chỉ nhớ
là bọn Tàu Tưởng của Lư Hán thì mãi đến tháng 6-1946 mới rời đi hết
khỏi Hà Nội.
Vào
thời gian ấy, bọn lính Tàu Tưởng bán tháo cho các anh tự vệ phố tôi
không biết
bao nhiêu là thứ súng đạn, từ khẩu Pặc-khoọc cho đến khẩu Browning nhỏ
xíu.
Hàng
ngày đi học ở trường phố Hàm Long lúc đó, tôi hay gặp những anh chị tự
vệ chiến
đấu, mặc toàn đồ đen, quần chùng túm gấu, dáng điệu cương quyết, đi lại
trụ sở
nằm ở ngay cùng phố. Đây là những thanh niên đã "thoát ly", tình
nguyện "vô Nam" chiến đấu. Hồi đó, chúng tôi nhìn các anh, các chị
với một thái độ khâm phục, nhưng trong sự khâm phục đó dường như còn
thiếu một
cái gì, như một tình cảm sâu đậm hơn. Ngày đó, chúng tôi mới chỉ biết
nhìn cái
bề ngoài của sự vật. Đó là cái nhìn của tuổi thơ, cái nhìn của cảm
tính, đôi
khi rất nhạy, rất tinh, nhưng đôi khi cũng còn nông cạn.
Sống
ở ngay giữa thủ đô là nơi có nhiều tin tức đi về, thế mà ngày ấy, có lẽ
còn nhỏ
tuổi quá chăng, nên chúng tôi chỉ được nghe nói đến "Nam bộ kháng
chiến”,
đến phong trào "Nam tiến", như một sự kiện diễn ra ở bên lề của cuộc
sống trước mắt, và ở một nơi nào xa xôi của tổ quốc.
Trong
cái không khí căng thẳng, nghiêm trọng lúc ấy, dường như ai ra đi, vẫn
thầm lặng
ra đi, ai ở lại vẫn người nào làm phận sự người nấy.
Chúng
tôi vẫn
ngày ngày đi học, nhưng cuối tuần và ngày nghỉ là tập hát, tập kịch.
Lúc ấy,
chúng tôi hay hát những bài hát "thời sự", như : Tiếng súng
Nam
bộ, Em Việt miền Nam, v.v., ca ngợi cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của đồng
bào miền Nam, đồng thời tập những vở kịch lịch sử như : Trần
Nguyên Hãn, Hội
nghị Diên hồng, Nguyễn Trãi-Phi Khanh, v.v.
Các
anh lớn trong phố, ngoài công việc làm ăn, học hành ra, hàng ngày vẫn
phải luyện
tập thể dục và quân sự một cách ráo riết. Tuổi trẻ Hà Nội đang sống
những giờ
phút khẩn trương.
Trên
thực tế, nhân dân cả nước ta lúc ấy đang phải lao vào một cuộc chạy đua
quyết
liệt, một mặt bảo vệ và củng cố những thành quả vừa mới đạt được, mặt
khác đề
phòng một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn đang đe doạ từ nhiều phía.
Có
một dạo, nghe nói có sự "hợp tác" giữa Việt Nam và Mỹ, rồi bỗng nhiên
có một cái mốt thân Mỹ, có hội "Việt-Mỹ thân thiện" ra đời, và trên
đài phát thanh có "Ban nhạc Việt-Mỹ" hay chơi đàn ghi-ta Hạ-uy-di,
đàn u-ku-lê-lê, và cả những nhạc cụ mới như chiếc "xi" (scie). Những
nhạc cụ này rất lạ đối với chúng tôi, cái thì nghe như tiếng người nỉ
non, cái
thì nghe như tiếng gió, kể ra cũng khá hợp với cái gu của người Á đông.
Một số
nhạc sĩ Việt Nam lúc ấy đã chịu ảnh hưởng khá nhiều của tiếng đàn
Hạ-uy-di
trong những sáng tác của mình; nhiều thanh niên cũng đổ xô nhau học thứ
đàn
này.
Lúc
đội nhi đồng ở phố tôi mới thành lập, ngân quỹ chưa có, mà chúng tôi
biết là phải
xắm ngay một bộ trống ếch thì mới "nổi đình, nổi đám" được, bèn quyết
định tập một vở kịch hát, rồi tổ chức một tối hát quyên tiền ở trụ sở
phố. Trụ
sở phố nguyên là một ngôi đình cổ, đã được
quét dọn sạch sẽ để làm chỗ tụ họp cho thanh thiếu niên, từ ngay sau
ngày 19-8.
Vở
kịch đầu
tiên chúng tôi đóng là vở "Nguyễn Trãi - Phi Khanh",
trong
đó H. đóng vai Nguyễn Trãi, tôi đóng vai Phi Khanh (ngày ấy tôi luôn
luôn phải
đóng vai phụ nữ và ông già, không hiểu sao !). Trong vở kịch chúng tôi
phải hát một loạt bài hát của
Đỗ Nhuận, như Chiều tù, Côn Đảo, Sơn La, v.v. để
diễn tả bước tù đày của
Phi Khanh ! Thế mà ở dưới phòng cũng có khối người cảm động đến rơi
nước mắt.
Chỉ một tối, chúng tôi thu được 900 đồng, vừa đúng số tiền để mua bộ
trống.
Vài
ngày sau, chúng tôi được một anh trong ban nhạc của Vệ quốc đoàn đến
phố dạy
cho biết hết kỹ thuật đánh trống. Ít lâu sau, đội trống của chúng tôi
chỉ còn
thua có mỗi đội trống của nhi đồng phố Mai Hắc Đế, là đội trống nổi
tiếng nhất
thủ đô lúc ấy !
Một
dạo, chúng
tôi phải tập gấp rút vở kịch thơ “Trần Nguyên Hãn"
để đi dự thi.
Cuộc thi diễn ra ở Nhà hát lớn, có đông công chúng đến xem. Chúng tôi
được điểm
cao nhất: 19/20. Nhưng chẳng may, vài hôm sau, được tin là vở kịch bị
kiểm
duuyệt, không được phép diễn, vì nội dung chống xâm lược Trung Quốc, mà
lúc đó
nhà nước Việt Nam lại cần giữ quan hệ tốt với bọn Tàu Tưởng của Lư hán,
đang
tìm đủ mọi cớ để phá đám và làm khó dễ.
H.
và tôi vào thời gian này say mê tập kịch thơ và tập hát. Học nhiều vở,
nhiều
bài cùng một lúc, mà sao chúng tôi vẫn nhớ được ! Vào những buổi trưa
im ắng,
trong khi người hàng phố nghỉ trưa, thì chúng tôi say sưa tập kịch trên
chiếc
phản nhỏ xíu ở nhà bà Hai Đăng, hoặc tập hát với cây đàn banjo của anh
Ngọc ở
ngay quầy hàng bán bát của bà (mà không bao giờ chúng tôi thấy bóng một
người
khách hàng nào lai vãng) !
Chỉ
mấy tháng
sau ngày Cách mạng thành công, chúng tôi đã tiến bộ rất xa trong lĩnh
vực kịch
thơ và hát. Tôi được gửi đi dự cuộc thi hát của thiếu nhi toàn thành
được tổ chức
ở giảng đường trường Đại học, và được đứng thứ ba với bài "Em Việt miền Nam"
của Đỗ
nhuận. Bài hát này vừa mới được anh Đỗ Nhuận sáng tác xong, lúc đó còn
đang ở dạng
bản thảo, chưa được công bố, và chưa được ai hát bao giờ. Bài hát ra
đời vào
đúng lúc Nam bộ
kháng chiến, nên đối với
mọi người cũng là một sự kiện mới lạ, có tính chất thời sự, lời ca lại
nhẹ
nhàng, tha thiết:
"Miền
Nam nhà ta có trái cây dừa
Dưới bóng mát ta uống nước ngọt say sưa
Cò bay đồng quê lúa xanh không bờ
Ai vô Nam nào thấy hay chưa
Quanh co trên sông Cửu Long dâng nước chờ
Sóng nước bát ngát con thuyền nhấp nhô
Ai đi vô chài tung săn cá hồ
Ai yêu đô thành nhớ qua Cần Thơ
Người ưa rừng thưa nhớ qua Biên Hoà
Qua Lai Thiêu ăn trái chín sầu riêng
Người Nam lòng như sóng nước Biển hồ
Tim như reo lửa cháy thiêng liêng
Trông vô phương Nam mẹ tôi đang ngóng chờ
Em tôi phương Nam mong chị Bắc, Trung
Em ơi có thấu chị em đang ngóng chờ
Sống thác không lìa chị Bắc em Nam. "
(Đỗ Nhuận, Em Việt miền Nam, 1946)
Ít
ngày sau, tôi còn có dịp trình diễn bài này một lần
nữa ở Nhà hát lớn.
Tôi
còn nhớ mãi lúc anh Lưu Hữu Phước dắt tôi ra trước
sân khấu để giới thiệu, trông tôi bé nhỏ, ngượng nghịu, chắc đã làm cho
cử toạ
buồn cười lắm, nhưng khi tôi hát xong thì mọi người vỗ tay ran !
Sau
này, nghĩ lại, tôi thấy lời ca của bài hát tuy rất
đẹp và cảm động, nhưng giai điệu hơi nghèo nàn, đơn điệu. Tôi vẫn cứ tự
hỏi,
mình được giải ngày ấy, có phải vì giọng hát, hay vì tính thời sự của
bài hát ?
Một điều khác cũng đã làm cho tôi hơi thắc mắc.
Trong
ban giám khảo cuộc thi hát ngày ấy, tôi chỉ nhớ
có các nhạc sĩ : Lưu Hữu Phước, Hùng Lân..., còn thì không nhớ có những
ai khác
nữa.
Ngày
ấy, tuy còn rất nhỏ, nhưng tôi cũng đã "linh cảm" thấy được một vài
điều không ổn. Chẳng hạn như bài "Trung
thu chèo thuyền" của Hùng Lân, nhạc không có gì là đặc biệt,
lời cũng
rất gượng ép, cường điệu, và giọng hát của bạn thiếu nhi trình diễn bài
này
cũng không có gì là đặc sắc, vậy mà cũng được giải nhì. Phải chăng vì
tác giả
bài hát là một nhạc sĩ có tên tuổi, mà lại ở trong ban giám khảo nữa ?
Ngày
ấy, chúng tôi không ai để ý đến những "chi
tiết" này lắm, từ các anh chị lớn cho đến bọn nhỏ chúng tôi. Trước mắt,
chúng tôi chỉ biết vui mừng và hãnh diện, vì đã giật được một giải
thưởng mang
về cho phố nhà, thế thôi. Quả là chúng tôi còn quá ngây thơ, cứ đinh
ninh rằng
Cách mạng đã thay đổi hết, tất cả mọi người đều hào phóng như nhau,
không nghĩ
gì đến cái lợi riêng tư nữa.
Thật
ra, sau này nghĩ lại, tôi càng thấy rằng điều đó
không thể có được, một khi con người và những giá trị văn hoá, đạo đức,
chưa được
cải tạo đến nơi đến chốn.
Khi
tôi đi lĩnh giải thưởng, thì gặp anh Lưu Hữu Phước
và anh Tống Ngọc Hạp. Anh Tống Ngọc Hạp tặng tôi một bài hát
mà anh vừa
sáng
tác về Tết Trung Thu cho thiếu nhi. Bài hát khá hay và đã được bọn
trẻchúng tôi
rất ưa thích, nhịp điệu của bài hát uyển chuyển, nhẹ nhàng, giai điệu
cũng khá
độc đáo :
“Này cô Hằng Nga thướt tha trên ngàn mây
Cô có buồn không xuống đây cùng chúng tôi
Đừng chê trần gian thiếu sao và thiếu mây, muốn gì có ngay.
Xuống mau đây không thì thôi !
Rung răng rung rẻ vui vẻ biết mấy
Trung thu muôn vẻ hiến trẻ Việt Nam..."
(Tống Ngọc Hạp, Trung thu Độc lập
(?),1946)
Sau
đó, anh Lưu Hữu Phước và anh Tống Ngọc Hạp đề nghị
tôi lên hát ở Đài phát thanh, và hứa sẽ huấn luyện thêm cho tôi. Ít
ngày sau,
các anh cho người đến tận phố xin phép thày tôi, để cho tôi được đi dự
lớp huấn
luyện, nhưng nhà tôi vừa có một cái tang lớn: mẹ tôi vừa mất, nên "tình
hình" không thuận lợi cho lắm. Thày tôi vốn rất cổ, cụ không thích hát
xướng,
và thường vẫn coi chuyện hát xướng là chuyện "xướng ca vô loài !"
Dù
sao, thì cũng chỉ còn có ít ngày nữa là đã đánh
nhau rồi. Tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để mà tiếc rẻ cái cơ hội đang
mở ra
cho mình để đi theo con đường "chuyên nghiệp" mà tôi vẫn hằng mơ ước.
Ngày ấy, đến ngay cả
cái tính mạng của mình, chúng tôi
cũng còn coi nhẹ, huống hồ một cơ hội để tiến thân !
Chương 06
Chương 07
Chương 08
Chương 09
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Các thao tác trên Tài liệu