Hồi ức tuổi thơ: Những ngày tháng chạp 1946
Những ngày tháng chạp 1946
Văn Ngọc
Sau
vụ lính Pháp
khủng
bố ở phố Hàng Bún ngày 17-12-1946, tình hình trở nên căng thẳng nghiêm
trọng.
Đánh nhau to đến nơi rồi, ai cũng nghĩ thế. Từ cuối tháng mười một đến
nay, bọn
lính mũ đỏ như được lệnh, thả cửa đi khiêu khích ở trong thành phố.
Vào
những ngày tháng này, thời gian như ngừng lại, mà sao mỗi ngày vẫn xảy
ra nhiều
sự cố. Không còn những ngày vui tươi của mùa thu năm trước, nhưng dường
như
những ngày giờ nghiêm trọng này đã làm cho thanh thiếu niên phố tôi sớm
dày dạn
thêm, những bộ mặt " lính cậu " bỗng trở nên đanh thép, nét đăm chiêu
cũng xuất hiện trên những khuôn mặt non trẻ của các em thiếu nhi chưa
kịp đi
tản cư với gia đình.
Một
đêm, vào khoảng thượng tuần tháng chạp, lần đầu tiên bọn lính đóng ở
trong
thành cho xe tăng ra tới đầu phố tôi, chỗ có cái lô cốt làm bằng bao
cát, có tự
vệ phố luân phiên nhau canh gác. Tôi không còn nhớ rõ lúc đó phố tôi đã
đào cái
giao thông hào nằm chắn ngang ở đầu phố, phía thành Cửa Đông chưa. Chỉ
biết
rằng chúng bắt anh tự vệ đứng gác đi gọi trưởng phố ra để hoạnh hoẹ,
đòi phải
bỏ chiếc lô cốt đi.
Anh
trưởng phố ra nói chuyện với chúng, thái độ hoà nhã. Đầu tiên chúng
tưởng có
thể bắt nạt được,
nhưng khi chúng quét
đèn pha xuống hai bên hè phố và lên các cửa sổ "thượng song hạ bản"
(trên song, dưới ván) ở trên cao, thì chúng đã phải giật mình vì bắt
gặp trong
ánh đèn pha nào là mã tấu, nào là giáo mác, nào súng trường, nào súng
ngắn, nào
lưu đạn, đủ cả, và nhất là chúng đã thấy những cặp mắt căm hờn, nảy
lửa, nhìn
chúng với một quyết
tâm làm cho chúng
dù hung dữ đến đâu cũng phải chùn bước.
Ngày
hôm sau, nghe các anh lớn kể lại diễn biến, tôi hình dung ông Đồng Đức,
bố của
anh Hợi và anh Nhượng, vốn là một nhà nho có cặp mắt lúc nào cũng sáng
quắc,
nghiêm khắc, với chiếc mã tấu sáng loáng, nhìn thấy ông thì đến bố tây
cũng
phải sợ !
Lệnh
đục các lỗ tường xuyên từ nhà này sang nhà khác ở khu phố tôi đã được
ban ra,
nhưng nhiều nhà còn chưa kịp làm. Cho đến một hôm xảy ra một câu chuyện
khá
nguy hiểm và cũng khá hài hước. Sau đó mọi người mới thấy rõ sự cần
thiết phải
đục gấp những lỗ tường này.
Nguyên
một tối, có mấy thằng lính mũ đỏ mạo hiểm vào phố tôi để kiếm chác. Lúc
đó ở
đầu phố đã có cái giao thông hào chắn ngang đường rồi, do đó xe của bọn
chúng
không vào được đến bên trong phố. Thấy một nhà còn ánh đèn và để cửa
ngỏ, chúng
ập ngay vào. Không may cho chúng, đó lại là một cửa hiệu buôn bán giấy
- cửa
hiệu của anh Thu con bà Lai Hưng, ngay cạnh nhà tôi - nên không có hàng
hoá,
thức ăn gì mà chúng có thể lấy đi được, ngoài một chiếc xe đạp cuốc mới
tinh
của anh Thu để ở ngay phía đằng trước cửa hàng.
Nực
cười, là khi chúng ập vào, thì ở tít bên trong nhà (phố tôi toàn nhà
ống kiểu
cổ, thường rất sâu), một nhóm anh em tự vệ phố đang ngồi họp ! Biết là
có biến,
các anh vội rút ngay ra đằng sau và nhảy qua tường sang nhà tôi. Trong
đám ấy
có anh Văn, trưởng phố, là người cao lớn và thể thao nhất phố, ngày
trước anh
vẫn hay đánh quần vợt, hôm trước đi tập ở ngoài bãi bị trật khuỷu tay,
phải
băng bó lại và không được cử động. Khi phải vượt qua tường, anh chạy
sau, vậy mà
với độc một cánh tay anh đã leo qua được bức tường cao đến hơn hai mét!
Ngay
ngày hôm sau, các anh tự vệ phố phải vội chia nhau đi đục nốt những lỗ
tường
chưa làm xong, để cho thông suốt từ đầu đến cuối phố và từ phố này sang
phố
khác.
Câu
chuyện giữa nhà Lai Hưng và nhà tôi, đến gần sát những ngày đánh nhau
mà vẫn
chưa đục lỗ tường, cũng có cái sự tích " bí ẩn ", đáng yêucủa nó.
Nguyên trước đó
không lâu, anh Thu
con bà Lai Hưng có ý hỏi chị tôi, nhưng chị tôi cũng chưa dứt khoát gì,
thành
thử cái việc đục tường sang nhà tôi đối với anh Thu lúc ấy cũng hơi tế
nhị !
Chúng
tôi vừa kỷ niệm tưng bừng ngày Cách mạng tháng Tám được tròn một tuổi
xong, thì
mối đe doạ của chiến tranh đã như một đám mây đen kéo đến trên bầu trời
đang
trong sáng.
Từ
mấy tháng nay, việc học hành của chúng tôi đã bị gián đoạn. Tôi còn
nhớ, một
buổi sáng, chúng tôi đang ngồi học ở giờ giảng văn với ông Hoài Thanh ở
trường
Phan Chu Trinh, thì ông Đặng Thai Mai, hiệu trưởng, bước vào lớp. Ông
người
trầm tĩnh, ít nói. Đây là lần thứ hai ông đến lớp tôi. Lần đầu tiên là
để nói
về ý nghĩa và mục đích của việc lập ra trường mới này. Hôm nay tiếng
nói của
ông lại một lần nữa làm cho chúng tôi xúc động. Bằng một giọng rất hiền
từ, ông
gọi chúng tôi bằng "em", tiếng "em" lúc đó nghe sao mà cảm
động ! Ông giải thích cho chúng tôi nghe về tình hình, và đề nghị từ
hôm sau
trở đi chúng tôi ở nhà, không đến trường nữa, để phòng trường hợp chiến
tranh
xảy ra bất ngờ, không về kịp được với gia đình.
Chúng
tôi từ giã trường Phan Chu Trinh ngày ấy mà lòng buồn vô hạn. Trường
được lập
ra ngay sau ngày 19-8. Các thầy cô giáo đều nhiệt tình, phần lớn đều là
những
người đã tham gia cách mạng, hoặc có cảm tình với cách mạng.
Đây
là lần đâu tiên, các thầy, các cô, cảm thấy mình có trách nhiệm thực sự
trong
việc đào tạo thế hệ trẻ trong một đất nước Việt Nam độc lập. Về phần
học sinh,
chúng tôi cũng có cảm tưởng, đây là lần đầu tiên mình không còn học như
con vẹt
nữa, mà học để hiểu biết thực sự, để biết yêu mến thêm tổ quốc.
Nhưng
ngày đó, chúng tôi cũng thấy mình sao mà dốt nát thế ! Kể ra cũng dễ
hiểu, vì
chỉ mấy tháng trước đây thôi, còn là thời nô lệ ! Trước kia, chúng tôi
tuy học
trường "ta", nhưng chương trình học chẳng ra ta, mà cũng không ra tây
! Hán học lại càng không biết một tí gì. Khi vào giờ giảng văn, đọc một
đoạn
truyện Lục Vân Tiên, tưởng là hiểu, nhưng khi đi vào từng chữ, thì cả
lớp chẳng
ai hiểu được nghĩa chính xác của mỗi từ là gì cả ! Ông Hoài Thanh, tính
tình
hiền lành, nên không chê trách gì học trò nhiều, nhưng có những thày
giáo khác,
nghiêm khắc hơn, như bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, chẳng hạn, lúc đó dạy
chúng tôi
Pháp văn, có lúc đã thẳng thắn phê bình chúng tôi là "quá dốt". Mà
quả thật là thế, nhưng đó thực ra cũng không phải lỗi ở chúng tôi, mà
là ở cái
chương trình dạy tiếng Pháp trong các trường "ta" dưới thời Pháp
thuộc, ít ra là ở miền Bắc. Bà chê với một tinh thần xây dựng, cốt ý
kích thích
cho chúng tôi chịu khó học, chứ không có ý khinh miệt, nên chúng tôi
cũng không
lấy làm xấu hổ cho lắm...
Thời
gian chúng tôi được theo học ở ngôi trường mới chưa được bao lâu, thì
trường đã
bó buộc phải đóng cửa.
Vào
buổi trưa ngày 17 tháng chạp, tôi được các anh lớn cho tham gia vào
những công
việc chuẩn bị ở ngoài phố. Nhi đồng phố tôi đã theo gia đình đi tản cư
hết từ
mấy tuần nay. Còn lại có H. và tôi. Hai đứa từ trước tới nay vẫn được
các anh
lớn tin cậy và yêu mến. H. và tôi, từ ngày cách mạng lên, có nhiệm vụ
rất là
oai so với các trẻ con khác, là chuyên đóng kịch và ca hát. H. từ mấy
hôm nay
đi đâu biệt tích. Hôm trước, tôi có ngỏ ý xin tình nguyện ở lại làm
liên lạc,
nhưng các anh lớn nhất định không cho, bảo là phải đi tản cư ngay với
gia đình.
Thực
ra, quyết định này chủ yếu là do anh ruột tôi lúc đó có mặt ở đấy. Anh
tôi vẫn
cho rằng tôi còn nhỏ quá.
Thế
mới
biết, nhiều khi chỉ một quyết định tưởng là nhỏ, chỉ một cái gật đầu,
hay lắc
đầu, là đủ để thay đổi số phận của một con người !
H.
lớn hơn tôi một tuổi, được ở lại làm liên lạc, nhưng lý do chính là vì
H. mồ
côi cha mẹ và làm con nuôi cho một gia đình lúc đó đã đi tản cư. Sau
này H. đi
theo Trung đoàn Thủ đô, và hy sinh trong kháng chiến.
Ngoài
đường phố lúc đó, một quang cảnh thật là kỳ lạ bày ra trước mắt tôi. Từ
đầu phố
đến giữa phố, trên mặt đường, đầy những chiếc bát nằm úp. Tôi hỏi, các
anh bảo
đấy là để làm giả bãi mìn chống xe tăng. Trong khi các anh chia nhau
làm mấy
tốp hì hục đào lỗ ở các chân cột đèn để đặt mìn, tôi được giao nhiệm vụ
tiếp
tục đi úp bát. Công việc không có gì là khó, nhưng trên thực tế đã là
cả một sự
thử thách tinh thần đối với tôi, vì lúc này địch có thể đã đặt súng ở
phía cầu
Cửa Đông và đang chĩa súng xuống phố tôi.
Tôi
vừa bò, vừa kéo lê theo từng chồng bát còn mới tinh, lấy ở các cửa hàng
bát ở
phố mình ra để rải lên mặt đường, lòng tràn đầy tự hào, nhưng thật ra
cũng hơi
nơm nớp lo sợ. Thú vị nhất là lúc tôi được cầm trong tay những chiếc
bát múi,
bát chiết yêu, bát ô-tô, bát kiểu đẹp đẽ, mà thường ngày mọi người vẫn
yêu
thích, giờ đây được đem xuống đường để đánh giặc ! Giờ phút này, những
chiếc
bát bỗng nhiên trở thành những vật tượng trưng vô giá. Tôi chợt nghĩ
đến những
ngày yên vui, phố tôi mới ngày nào còn rộn vang tiếng hát.
Những
chồng bát còn buộc lạt và dính đầy bụi rơm làm tôi nghĩ đến những kho
đồ sứ ở
nhà cụ Trưởng Đào, nhà ông Quảng Tiến, nhà cô Thịnh, hay nhà bà Hai
Đăng...Bây
giờ các gia đình ấy đều đã đi tản cư hết rồi, nhưng con cháu họ đều còn
ở lại
để chiến đấu. Anh Văn, trưởng phố, và đồng thời là trưởng đội tự vệ,
cũng chính
là con cụ trưởng Đào. Các con ông Quảng Tiến, con cả cụ trưởng Đào,
cũng đều là
tự vệ phố. Các cửa hiệu ở phố tôi, nói chung, còn đầy ắp hàng ở trong
nhà. Bên
dãy hàng bát đã như thế, bên hàng đồ da còn tệ hơn. Nhiều nhà, hàng hoá
còn
nguyên ở cửa hiệu. Những chiếc vali, những chiếc cập da, những chiếc
hòm da,
hòm kẽm, v.v. trông mà sót ruột. Ở nhà tôi, những cuộn da đủ loại còn
nằm đầy
cả một tầng gác !
Sau
này, không biết tất cả những kho của cải này có bị thổ phỉ vào lấy hôi
đi
không, hay đã bị đốt phá khi Pháp đánh vào khu phố tôi, cùng một ngày
với các
phố Hàng Thiếc, Hàng Nón (từ 7-02 đến 9-02-1947) ?
Chỉ
biết rằng khi tôi hồi cư vào năm 1948, thì thấy cảnh phố tôi bị tàn phá
khá ác
liệt, không còn nhận ra được gì nữa : gần nửa dãy phố bên số lẻ bị đốt
phá trụi
hết, hai ngôi nhà số 13 và 15 của nhà tôi, cao mỗi nhà 3 tầng, bị san
bằng địa,
chỉ còn lại một đống tro, gạch vụn cao không quá 1m. Bên số chẵn cũng
bị, nhưng
ít hơn.
Các
bậc cha mẹ ở phố tôi thời ấy, không hiểu biết gì mấy về tình hình, nên
không
tin rằng sẽ có chiến tranh. Các cụ cứ tưởng như hồi nào "đảo chính Nhật
Pháp" hay "Mỹ Nhật ném bom", xong rồi đâu lại vào đấy thôi.
Nội
trong phố tôi, chỉ có độc một cửa hàng giấy của anh Thu nhà Lai Hưng là
đã chạy
được kho giấy đi từ mấy hôm trước. Anh Thu là một người đến nhập cư phố
tôi
chưa được một năm. Trước kia, anh có cửa hiệu ở phố Hàng Gà (nối với
phố Hàng
cót). Anh thuộc hạng thanh niên tay không làm nên, không có bằng cấp
cao, nhưng
có đầu óc kinh doanh, thích thể thao, người điềm đạm, vui vẻ. Có một
lúc anh đã
nhờ người đánh tiếng hỏi chị tôi, nhưng rồi chuyện chưa đi đến đâu thì
chiến
tranh bùng nổ.
Sau
này, tôi được anh tôi cho biết, là kho giấy, anh Thu đã cho chở về làng
Đình
Bảng, quê của mẹ anh, và sau đó đã biếu cả cho chính phủ kháng chiến.
Người
ta kể lại rằng, những kho hàng bát và hàng da ở phố tôi về sau bị bọn
thổ phỉ
lấy hết, trước khi cả một nửa dãy phố bị đốt trụi. Ngày đó, giá các cụ
ở phố
tôi ai cũng thức thời và làm được như anh Thu, thì không những đã tránh
được
biết bao nhiêu mất mát, mà còn làm được nhiều việc ích lợi khác.
10
giờ sáng ngày 18 tháng chạp, trong sự im lặng nặng nề của khu phố, có
tiếng xe
tăng nghe to dần từ phía thành Cửa Đông tiến ra. Từ ở trong nhà, tôi
hình dung
thấy chiếc xe tăng dừng lại ở ngã ba đầu phố, chỗ có cái giao thông hào
chắn
ngang, chiếc xe lồng lộn như một con thú dữ, rồi im bặt. Linh tính như
báo cho
tôi biết rằng sắp có chuyện xảy ra.
Một
lát sau, không thấy động tĩnh gì, tôi đánh bạo bắc ghế lên ghé mắt nhìn
qua khe
cửa lùa ra ngoài phố. Tầm mắt của tôi rọi đúng vào cái lưng để trần của
một tên
lính tây. Hai bên hè đường, bọn lính mũ đỏ đứng ngồi rải rác, đứa mặc
áo, đứa
cởi trần, tay lăm lăm súng. Trên mặt đường, những chiếc bát úp ngày hôm
qua vẫn
còn y nguyên.
Tôi
vội vàng nhảy nhẹ nhàng xuống ghế, lẳng lặng chạy vào báo cho thầy và
chị tôi
biết.
Ngay
lúc đó, anh Văn, trưởng phố cũng vừa chui lỗ tường đi ngang qua. Anh
ghé nói
khẽ với thày tôi đôi câu, giọng kính cẩn nhưng cương quyết, anh yêu cầu
gia
đình nhà tôi phải tản cư ngay, không có không kịp, lệnh của Uỷ ban tản
cư khu
phố.
Thày
tôi từ trước tới nay vẫn đinh ninh rằng không thể nào xảy ra chiến
tranh được,
bây giờ mới ngã ngửa người ra. Thế là không kịp mở ngăn kéo để lấy số
tiền mặt,
thực ra cũng chẳng có được bao nhiêu lúc đó, vì bao nhiêu của nổi, của
chìm,
của thày tôi đều bị mắc nghẽn ở những con nợ, những bát họ, mà bây giờ
người ta
đã đi phân tán hết, còn làm sao mà đòi lại được ! Chị tôi vơ vội mấy
chiếc áo
sống cho vào một cái bọc vải, và cứ như vậy, chúng tôi lếch thếch chui
qua
những lỗ tường đi về phố Hàng Thiếc.
Chẳng
mấy chốc, chúng tôi đã đến một chỗ trống như thể một cái đình, hay một
nhà tư nhân kiểu cổ, kiến trúc bên
trong
trông rất cổ kính. Ở giữa là một chiếc sân lát gạch Bát Tràng, có bể
nước, có
hòn non bộ và nhiều cây kiểng. Đông người đứng xếp hàng chờ đợi ở đây.
Đó là
chỗ trụ sở đóng tạm của Uỷ ban tản cư. Ai rời Hà Nội về địa phương nào
đều phải
được cấp giấy mới được phép đi.
Lần
đầu tiên, đi qua những gian nhà bỏ trống, tôi cứ ngỡ như mình đang đi
trong một
giấc mơ. Nếu không có chiến tranh và không có những lỗ tường cho phép
đi xuyên
từ nhà nọ sang nhà kia như thế này, có lẽ tôi sẽ không bao giờ có được
một cái
nhìn cụ thể, từ bên trong, về cái cảnh giàu nghèo khác nhau giữa những
gia đình
bấy lâu cùng chung sống trong một khu phố ! Nhiều hình ảnh lướt qua
nhanh,
nhưng kỳ lạ thay, bao nhiêu năm qua rồi mà tôi vẫn còn nhớ mãi.
Tôi
nhớ, có một lúc đi qua một căn nhà ở ngay cách nhà tôi độ mươi nhà
thôi, nhưng
đã thuộc phố Hàng Thiếc, đồ đạc, hàng hoá, còn đầy cả, có chiếc tủ lạnh
mở
toang, bên trong còn cả thịt thà, rau cỏ, điều làm tôi hết sức ngạc
nhiên. Tôi
chợt thấy mình như một anh nhà quê ra tỉnh, hay nói cho đúng hơn, như
một người
từ trước tới nay ở trong một cơn mê hoặc, bỗng nhiên thức tỉnh. Vào cái
thời
đó, không phải nhà nào cũng có được một cái tủ lạnh. Ngay cả những nhà
khá giả
mà sống theo lối cũ, thì cũng không bao giờ biết, hay dám mua một cái
tủ lạnh
để dùng. Nội phố tôi, chỉ có độc một nhà có tủ lạnh, là nhà ông Quảng
Tiến, và
tôi đã để ý thấy trẻ con nhà này đứa nào cũng phốp pháp, to lớn, có lẽ
một phần
cũng nhờ cái tủ lạnh !
Vào
giờ phút này, những cái lỗ tường đục xuyên nhà này sang nhà nọ, trông
thật xấu
xí, nhưng sao mà thuận tiện ! Vậy mà cách đây chỉ độ một tháng, người
ta vẫn
chưa hình dung được những lợi ích của chúng.
Lần
theo những lỗ tường, chúng tôi dần dần mất hết ý niệm về nơi chốn mình
đang đi
qua. Nhưng rồi không bao lâu đã đến phố Hàng Hòm. Ở đây, chúng tôi đã
được ra
đường đi tự do. Gặp đứa cháu họ làm tự vệ phố Hàng Hòm đương đứng ở đó,
cả nhà
mừng quá, vội đưa chùm chìa khoá cho nó, dặn đưa lại cho anh tôi.
Qua
Cửa Nam, một chiếc xe Jeep trên chở đầy lính mũ đỏ phóng nhanh qua ngã
ba.
Không khí rất là căng thẳng. Ra tới ga Hang Cỏ, chúng tôi may mắn vừa
kịp đáp
chuyến tàu cuối cùng về Nam. Tàu tới ga Đồng Văn vào lúc chập tối,
chúng tôi
ngủ lại ở đây một đêm, sáng sớm hôm sau mới lấy đò về Dũng Kim.
Hai
chiếc xe kéo, bánh đặc đã mòn gần hết cao-su, chạy lọc cọc cách quãng
nhau trên
con đường đê từ Đồng Văn về đến bến đò. Gió sớm vào mùa này hơi lành
lạnh.
Hình
ảnh hai chiếc xe kéo nửa tỉnh, nửa quê lúc này ở đây, như một cái gì
lạc lõng,
lỗi thời, cũng như cái cảnh bơ vơ của gia đình nhà tôi đang " chạy loạn
" về một miền quê mà mình đã bỏ đi từ lâu, không biết rồi ra sinh sống
ra
sao !
Nỗi
lo lắng mỗi lúc một hiện rõ trên nét mặt của thày tôi và chị tôi. Thực
ra, mỗi
người chúng tôi mang trong lòng một nỗi lo riêng. Thày tôi lo, không
phải vì
không chạy được một món tiền nào để về sống ở nhà quê, mà chỉ vì anh
tôi còn ở
lại trong thành, không biết sống chết ra sao. Chị tôi lo vì những
chuyện khác.
Chị lo về chuyện đời riêng của chị, cũng như lo cho cái tương lai của
chúng
tôi. Đẻ già tôi (vợ cả của thày tôi) ngồi lần tràng hạt.
Riêng
phần tôi từ nãy vẫn mải miết ngắm những cánh đồng và những luỹ tre ở
hai bên
đường. Tôi như vừa khám phá ra một thế giới mới lạ đang đem đến cho
mình những
cảm giác thoải mái. Ở cái tuổi mười hai, có lẽ tôi cũng chưa biết lo
buồn gì
thật. Vả chăng, có những việc chưa phải là phận sự của tôi ở tuổi này.
Tôi chỉ
thầm tiếc là đã không được ở lại Hà Nội với anh tôi và các anh tự vệ
phố để
tiếp tục làm những việc mà tôi cho là có ích lúc ấy.
Sau
này, ròng rã gần hai năm trời, chúng tôi ở vào một vùng hậu địch, ngay
bên cạnh
đường số một, nên chỉ lo chạy càn và chạy gạo là hết ngày, hết buổi.
Riêng tôi,
không học hành, không làm được gì cả trong suốt hai năm ấy. Có chăng là
được
gần gũi hơn với đồng ruộng và hiểu biết thêm về quê hương, đất nước
mình.
Vào
khoảng 8, 9 giờ tối ngày hôm ấy, chúng tôi lên gác sân thượng nhà tôi ở
Dũng
Kim để nhìn về phía chân trời Hà Nội đang rực lên một ánh hồng. Nghe
những
người vừa đi về nói ở trên ấy đã đánh nhau.
Thày
tôi
nước mắt rưng rưng không nói gì cả. Mọi người im lặng. Trong đêm tối,
tôi bỗng
liên tưởng tới từng khuôn mặt của những người phố tôi hiện đương chiến
đấu.
Hình
ảnh dãy phố quen thuộc bỗng hiện lên rõ nét, với những ụ cát, với hố
giao thông
hào, với những chiếc bát úp, những cây cột đèn giờ đây đã đổ, và tít
đằng xa,
trên bức tường đá phía cầu Cửa Đông, nơi mặt trời lặn, khẩu hiệu "
VIETNAM
TO THE VIETNAMESE" viết bằng vôi trắng ngày nào vẫn nhìn về phố tôi như
nhắc nhở.
Chương 07
Chương 08
Chương 09
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Các thao tác trên Tài liệu