Hồi ức tuổi thơ: Những ngôi nhà xưa
Những ngôi nhà xưa
Văn Ngọc
Người
Hà Nội ít người gốc gác ngay tại đất cố đô, phần đông là người ở các
vùng quê lân cận kéo nhau lên đây làm ăn được vài ba đời nay là cùng.
Đó là dân các vùng Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải
dưong, Bắc Ninh, Sơn Tây, v.v.
Lịch sử phố phường Hà Nội cũng là lịch sử những con người từ nông thôn
lên thành thị làm ăn, rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây, để rồi một ngày nào
đó thấy mình nghiễm nhiên trở thành người Hà Nội.
Năm bố tôi rời quê từ dưới Hà Nam lên đây, cũng là lúc Pháp vừa đánh
chiếm xong thành Hà Nội. Ông nội tôi lúc trước là lính của cụ Hoàng
Diệu. Sau khi Hà thành thất thủ, ông bỏ về quê làm ruộng, sau lại phải
lần mò lên đây vì sinh kế, mang theo bố tôi lên. Bố tôi lúc đó mới có
mười tuổi..
Người làng kể lại rằng, lúc đó ông tôi không ở lại quê được vì đói khổ
quá. Có lần đói quá, ông tôi trèo vào vườn một nhà ở trong xóm để ăn
trộm chuối, rồi ăn ngay tại chỗ. Ăn xong, mệt quá nằm lăn ra ngủ ở ngay
gốc chuối. Vốn mắc bệnh xuyễn, lại ngáy to, nên người trong nhà nghe
tiếng ngáy, đổ ra xem. Thế rồi cũng không ai trách mắng gì ông tôi cả
vì mấy quả chuối đó. Người ta lại còn thương hại nữa.
Ông tôi và bố tôi dắt díu nhau lên Hà Nội để kiếm sống. Năm đó là cái
năm đau đớn của lịch sử dân tộc : Pháp vừa đánh chiếm xong được thành
Hà Nội và đặt nền bảo hộ lên cả ba miền đất nước.
Vào
thời kỳ đó, Hà Nội còn hoang dã lắm. Bố tôi thường kể lại rằng, thời đó
xung quanh Hồ Hoàn Kiếm chỉ toàn là ao chuôm, lầy lội. Khu " phố tây ",
mãi đến năm 1888, sau khi bắt ép được triều đình Huế phải nhượng bộ cho
họ quyền sở hữu đất đai trong thành phố, lúc đó viên Toàn quyền Paul
Bert mới cho đuổi dân các làng ở đây đi và phá huỷ hàng loạt đình chùa
để xây cất lên khu phố này. Những phố lớn đầu tiên được mở là phố Gia
Long (tức phố Bà Triệu ngày nay), phố Nhà Thờ Lớn, phố Paul Bert (tức
phố Tràng Tiền), phố Tràng Thi, rồi đến các phố Hai Bà Trưng, Lý thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, v.v.
Còn những phố cũ như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Bát
đàn, Hàng Bút, Hàng Thiếc, v.v. thì không biết có từ bao giờ, song
những tên phường , tên phố, thì có thể có từ thời nhà Đinh, khi kinh đô
còn ở Hoa Lư. Khi nhà Lý dời đô về Thăng long, chắc hẳn đã dời hết cả
về đây. Nhưng còn kiến trúc của các ngôi nhà cổ và đình chùa miếu mạo,
thì không biết có từ thời nào ?
Qua những cuộc binh biến, hoả hoạn ở Thăng Long, nhất là dưới thời vua
Lê chúa Trịnh và Nam Bắc phân tranh, chắc hẳn những dấu tích xưa nhất
còn lại rất ít ?
Tuy nhiên, cứ nhìn những tấm ảnh do Hocquard, Salles, Escande, chụp vào
những năm cuối thế kỷ XIX, cũng có thể thấy được rằng kiến trúc gạch
ngói của những khu phố cổ ở Hà Nội, hay Nam Định, có cùng một kiểu
dáng, cùng một số yếu tố vật liệu và trang trí có thể thấy được trên
những ngôi đình, miếu cổ còn lại cho tới ngày nay : mái ngói liệt
(dẹp), tường gạch trát vữa quét vôi trắng, đầu hồi đôi khi xây theo bậc
thang, v.v.
Ở Hà nội, mỗi phố cổ đều có một hay hai ngôi đình. Mỗi khu có khi còn
có cả đền, chùa. Như ở phố Hàng Bạc, có đình Hàng Bạc, Hàng Gai có đình
Hàng Gai, Hàng Bồ có đền Hàng Bồ, phố Nhà hoả có đình Nhà Hoả, Hàng Nón
có đình Hàng Nón, v.v. Những ngôi đình, ngôi đền này đều được xây theo
lối kiến trúc cổ truyền.
Nhà
cửa ở các phố buôn bán cổ phần lớn là loại nhà ống, hẹp ngang và rất
sâu, thường là nhà hai tầng. Tầng dưới (tầng trệt) là cửa hiệu buôn
bán, nên để cửa lùa. Tầng trên là các phòng sinh hoạt và phòng ngủ. Mặt
tiền trông ra phố, thường mở rộng, để chấn song gỗ, đôi khi có chạm
khắc, theo kiểu " thượng song, hạ bản ", và buông mành mành cho vừa kín
đáo, vừa thoáng mát. Không có nhà nào có cửa kính, mà chỉ có cửa chớp.
Cũng có nhà làm cửa sổ nhỏ, tuỳ theo hướng của dãy phố.
Ở bên trong, gần như nhà nào cũng có ít ra một, hai cái sân lộ thiên.
Sân thứ nhất, là chỗ có bể nước, hòn non bộ, cây kiểng. Sân thứ hai ở
tít tận trong cùng là chỗ bếp núc và nhà tiêu. Những nhà to và có bề
sâu năm sáu chục mét, có tới hai, ba sân trong, và còn có cả những gác
sân ở mỗi tầng. Ở phố tôi, có nhà ở bên trong xây lên tới ba bốn tầng,
mỗi tầng đều có ít nhất một cái gác sân nhỏ, lát gạch lá nem, làm chỗ
tắm giặt, phơi phóng, và cũng là nơi để cây kiểng. Gác sân của tầng
trên cùng được gọi là gác sân thượng. Vào mùa hè nóng nực, chiều chiều
bọn trẻ chúng tôi thường rủ nhau lên gác sân thượng hóng mát. Đây là
nơi lý tưởng để chiêm ngưỡng cái đẹp của bầu trời và chân trời Hà Nội,
thường có những màu sắc tuyệt vời, và để ngắm trăng sao.
Những chiếc gác sân thượng xinh xinh này thường nằm chụm vào với nhau ở
phía giữa mỗi khối phố. Do đó, đây cũng còn là nơi bọn trẻ trong cùng
một khối phố có thể lên đây nói chuyện với nhau từ gác sân thượng này
sang gác sân thượng khác, đôi khi còn đùa nghịch, leo lên cả những nóc
mái, để đi từ nhà này sang nhà khác.
Sân trong quan trọng nhất là nơi có bể nước, có hòn non bộ và chậu
cảnh. Về mặt kiến trúc, có thể so sánh chiếc sân lộ thiên của ta với
cái atrium của người La Mã và của những dân tộc vùng Địa Trung Hải, nói
chung. Nhà cửa ở thành phố Pompei, mà xưa kia bị núi lửa vùi lấp hoá
thạch, đều có những chiếc sân trong lộ thiên giống y hệt.
Sân trong là chỗ mát mẻ nhất nhà, vì ở chỗ đó luôn luôn có nước ướt át
và có gió lùa. Ở Hà Nội, với cái nóng như thiêu vào tháng sáu, tháng
bảy, không có một nơi mát mẻ ở trong nhà, thì không thể nào chịu nổi.
Sân trong có cái " lỗ thông thiên ", sau này gọI là cái " giếng trời ",
đứng ở đó nhìn lên thấy được một mảnh trời. Đây là một cách thông hơi
cổ truyền, làm cho ngôi nhà ống luôn luôn thoáng mát. Không khí được
hút vào nhà qua cái nơi mát mẻ này, rồi bị lùa ra những nơi nóng hơn
như phía ngoài đường nắng, hay phía sân sau có nắng, tuỳ theo hướng của
ngôi nhà.
Do có " giếng trời " cắt ngang, nên cũng có những " gác nhà cầu " để
nối liền, ở tầng lầu, phần nhà phía trước trông ra đường với phần phía
sau trông ra các sân sau.
Kết
cấu sàn của những ngôi nhà cổ này thường là bằng gỗ. Vấn đề cách âm
thường không được đặt ra để giải quyết. Nhà cửa ở Hà Nội, nhất là nhà
cổ, không có lò sưởi. Nói chung, dân ta không có khái niệm về sưởi ấm
nhà cửa. Ở nông thôn miền bắc trước kia, mùa rét đến, người ta cũng chỉ
biết sưởi bằng lửa bếp, và nằm ổ rơm cho ấm.
Trong khi đó, ở Trung Quốc, nước láng giềng của chúng ta, trước kia
cũng là một nước nông nghiệp lạc hậu, người dân ở nông thôn đã sớm biết
một kỹ thuật sưởi ấm về mùa rét rất là khoa học và đơn giản. Giường ngủ
của họ, trông giống như một cái sập, gọi là cái kang, được xây bằng
gạch trên vòm cuốn, như một cái lò, có ống thông khói lên đến tận mái,
chỗ hầm trống ở bên dưới được dùng để đốt củi sưởi ấm cho cái gường và
cho cả căn nhà.
Trong ngôi nhà cổ của ta ở thành phố, vấn đề ánh sáng cũng chưa được
chú ý đúng mức cho lắm. Những căn buồng ở trong nhà chưa được bố trí
một cách chặt chẽ. Có buồng hoàn toàn thiếu ánh sáng, vì không những bị
mái hiên của giếng trời che mất ánh sáng, mà lại còn phải để mành mành
cho kín đáo. Chỉ có những buồng trông ra gác sân là có đủ ánh sáng.
Về căn bản, những ngôi nhà ống cổ ở Hà Nội được xây theo quan niệm nhà
phố cổ truyền của người Á Đông nói riêng, và của những xứ nóng ẩm, nói
chung, với sân trong, hay vườn trong, khác với quan niệm của phần lớn
các dân xứ lạnh, là vườn nằm ở đằng trước, đằng sau, hay ở xung quanh,
vì ngôi nhà ở những xứ này cần được xây gọn lại thành một khối để chống
lạnh.
Trường hợp những ngôi nhà ống cổ ở Hà Nội là một trường hợp khá điển
hình về óc sáng tạo của các cụ ta ngày xưa. Ngôi vườn cảnh, hay chiếc
sân trong, với giếng trời, đã đáp ứng được cả ba nhu cầu cần thiết của
con người : thiên nhiên (thu nhỏ, với cây kiểng và hòn non bộ, bể
nước), không khí và ánh sáng.
Nực cười là từ khi người Pháp sang cai trị Đông Dương, ở Hà Nội có
nhiều nhà quan lại, hay nhà giàu có, sính ở nhà tây, điều đó hoàn toàn
có lý, vì ở nhà tây mới có được những không gian sáng sủa, rộng rãi.
Nhưng ở đây, họ thích ở nhà tây trước hết vì cái mã " hiện đại " ở bên
ngoài. Có điều là, nhiều chủ nhân của những ngôi nhà này đã không biết
tận hưởng những tiện nghi của chúng : nhà xây theo kiểu biệt thự tây,
nghĩa là có lò sưởi, ống khói hẳn hoi, song vì không quen dùng lò sưởi,
không biết bảo quản ống khói, nên đến mùa rét họ vẫn không dám đốt củi
để sưởi, và nhà vẫn lạnh như băng, có khi lại còn lạnh hơn cả nhà ống !
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Chương 07: Ăn Tết làng dừa
Chương 08: Hà Nội mến yêu
Các thao tác trên Tài liệu