Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Hồ sơ / Hồi ức tuổi thơ - Văn Ngọc / Hồi ức tuổi thơ - Tuổi vỡ lòng

Hồi ức tuổi thơ - Tuổi vỡ lòng

- Văn Ngọc — published 20/11/2010 10:06, cập nhật lần cuối 27/02/2011 16:21
Một trong những kỷ niệm xa xưa nhất mà tôi còn nhớ được về thời thơ ấu ở Hà Nội, là lúc tôi bắt đầu đi học lớp vỡ lòng ở trường Nguyễn Văn Tòng, phố Hàng Cót.

- Chương 01 -

Tuổi vỡ lòng


Văn Ngọc


Một trong những kỷ niệm xa xưa nhất mà tôi còn nhớ được về thời thơ ấu ở Hà Nội, là lúc tôi bắt đầu đi học lớp vỡ lòng ở trường Nguyễn Văn Tòng, phố Hàng Cót.

Thời bấy giờ, vào khoảng những năm 39-40, “trường mẫu giáo" chưa có, hoặc có dưới một dạng hiếm hoi và hơi đặc biệt, là "trường bà xơ". Từ "mẫu giáo" lúc đó có lẽ cũng chưa ai dùng. Trong các gia đình cổ ở Hà Nội, không có thói quen cho con đi học sớm, một phần cũng vì trong cái nề nếp giáo dục của nhà nước bảo hộ, không có lớp "mẫu giáo", cũng như không có "nhà trẻ", ít ra cho dân bản xứ.

Trường Nguyễn Văn Tòng là một trường tư, và rất có thể thuộc loại có chức năng như trường mẫu giáo, hay ngay sau mẫu giáo, để chuẩn bị cho những trẻ em vào học lớp đồng ấu ở các trường công. Mặc dầu không nhớ được mình đã "học" cái gì ở đây, nhưng tôi vẫn nhớ rõ gương mặt tươi cười của ông giáo Thứ, với mái tóc lúc nào cũng chải bóng mượt và ông đốc trường người to béo như tây.
Ngày ấy, có thể tôi cũng đã có một chiếc cặp sách nhỏ đeo vai, nhưng chỉ là đeo cho oai, chứ trong cặp nào đã có sách vở gì đâu !

Thật ra, lớp mẫu giáo của bọn trẻ chúng tôi đã có sẵn ở trong nhà từ lâu rồi !

Quả là như vậy, cho đến năm lên 5 tuổi, suốt ngày, tôi chỉ quanh quẩn ở trong nhà với mẹ, với chị và vú em. Nhất là tôi lại hay thích xuống bếp để xem làm bếp, và hay lần mò vào các xưởng làm đồ da, đồ gỗ của thầy tôi để xem các bác thợ làm việc. Những người thợ da, thợ mộc này quí chúng tôi lắm, vì họ là người cùng quê, cùng làng với thầy tôi và do thầy tôi đào tạo từ hồi trẻ. Họ cho tôi tha hồ mó máy đến những cái tràng, cái đục, cái đinh, cái búa, dạy tôi cách bào, cách đóng đinh, cách gắn xi để trám các mắt gỗ, cách làm hồ, làm keo bằng bột gạo tẻ, gạo nếp... Các bác thợ mộc người Bắc Ninh thỉnh thoảng lại còn hát cho tôi nghe những câu hát ả đào, trống quân. Trong nhà lại đầy trẻ con, do cái cơ cấu đại gia đình của nhà tôi : nào là gia đình vợ cả, vợ lẽ, con ruột, con nuôi, cháu nuôi, v.v. Năm sáu chục người, kể cả thợ, sống chung dưới một mái nhà (thực ra là hai ngôi nhà ống ăn thông với nhau, mỗi nhà trung bình có hai tầng). Mỗi gia đình nhỏ ở một buồng, hay một khu buồng riêng. Thợ ở chung một nơi gọi là “gác thợ”. Đến bữa cơm phải chia làm bốn, năm mâm.

Đúng là bọn nhỏ chúng tôi đã được học khôn một phần lớn là ở ngay trong nhà, không cần phải đi đâu cả. Hơn nữa, cũng còn có cả bầy trẻ hàng phố và cái cửa hiệu mỗi ngày có đủ mọi hạng người lui tới mua hàng, kể cả người ngoại quốc nói đủ mọi thứ tiếng.

Nhưng "đi học" vẫn là một bổn phận thiêng liêng, được đặt lên trên hết cả, và quả thật, đây là một cái gì rất mới mẻ đối với thế hệ các bậc cha mẹ của chúng tôi lúc bấy giờ.

Các bậc cha mẹ ngày ấy thường nghĩ : "Đời mình đã như thế, con cái phải cho chúng nó đi học cho đến nơi đến chốn, cho nên người, sau này mới hòng mở mày mở mặt với người ta". Vì vậy, suốt dọc phố tôi, thế hệ trẻ, từ các anh chị lớn hơn tôi vài tuổi trở xuống, cho đến các em bé, đều được ăn học cả.
Còn các anh chị lớn con bà cả của thầy tôi thì không có cái may mắn ấy, họ chỉ được học đến cấp sơ học yếu lược, rồi dừng lại ở đó, và ở nhà giúp gia đình coi cửa hàng cho đến khi lấy vợ lấy chồng. Tại sao thế, sau này tôi vẫn tự hỏi ? Không lẽ vào thời các anh chị tôi, thầy tôi lại không có điều kiện để cho họ theo học cho đến cùng ? Nhưng cũng có thể chỉ vì khả năng tiếp thu của các anh chị bị hạn chế, không cho phép họ tiếp tục học lên cao ?

Gia đình nhà tôi không phải là một gia đình có truyền thống khoa cử, cho nên một khi các bậc cha mẹ đã không được trang bị tri thức để kèm dạy cho con cái học, thì chúng phải tự học lấy thôi, và cha mẹ cũng đành chỉ biết vùi đầu làm ăn, buôn bán, phó mặc việc dạy dỗ con cái cho nhà trường.

Các cụ phần đông không có chữ nghĩa gì mấy, đến cái bằng tiểu học cũng không có. Nhu cầu văn hoá vẻn vẹn chỉ là thỉnh thoảng vào giờ nghỉ trưa nhàn hạ, giở một cuốn truyện nôm ra đọc : khi thì Truyện Kiều, khi thì truyện Phan Trần, Cúc Hoa. Nhưng không phải vì thế mà các cụ không có khả năng suy luận, xét đoán, và nhất là khả năng diễn đạt bằng cái ngôn ngữ dân gian rất nôm na, nhưng cũng đầy hình tượng của mình.

PhoCoHaNoi
Và như thế là thầy mẹ tôi đặt tất cả hy vọng vào ba đứa con cuối cùng, là ba chị em chúng tôi, con của bà vợ thứ ba, để học cho nên người.

Bản thân các cụ trước kia có được ăn học gì đâu. Thầy tôi rời đất Hà Nam, Phủ Ly, lên Hà Nội làm ăn từ khi mới lên 10 tuổi. Lúc đầu, phải đi bán nước chè, nước vối để kiếm ăn, sau phải đi khuân vác thuê ở ngoài bờ sông, chỗ Cột Đồng Hồ. Sau, học được nghề làm giày da, rồi nhờ khéo tay và có đầu óc kinh doanh, cụ mới bắt chước những mẫu sản phẩm trên các "catalôgơ" của hãng chế tạo các hàng thông dụng ở bên Pháp (Manufacture de Saint-Etienne) gửi sang chào hàng, mà làm ra những đồ da, đồ gỗ và đồ du lịch nội hoá đầu tiên, rồi cụ kéo cả làng lên làm nghề này ở phố Hàng Bát Đàn, vào những năm đầu thế kỷ XX.

Sau này, vào những năm 30, một bộ phận những người làng này, trong đó có mấy người là con nuôi của thày tôi, kéo nhau vào Nam lập nghiệp, và mở ra nhiều cửa hiệu đồ da ở phố Lý Thánh Tôn. Trong một cửa hiệu ở phố này, người ta vẫn để bài vị của thầy tôi và thờ cụ như người thuỷ tổ của nghề làm đồ da ở Việt Nam.

Thầy tôi quả là đã có một thời kỳ “oanh liệt”, nhưng tiếc thay, tôi đã không được mục kích những sự kiện xảy ra vào cái thời kỳ ấy, bởi một lẽ đơn giản là tôi “sinh sau đẻ muộn”. Mãi đến năm 60 tuổi cụ mới có tôi. Cụ vẫn thường hãnh diện khoe với các bạn già đến chơi nhà như thế.
Tôi là con út của bà vợ thứ ba của thầy tôi.
Hai bà vợ cả và vợ hai là hai chị em ruột, một người được gọi là bà Hàng Giấy vì có cửa hàng bán giấy bản ở đầu phố Hàng Bút, như mẹ tôi sau này. Một bà được gọi là bà Hàng Hòm, luôn luôn ở với thầy tôi ở cửa hàng làm và bán đồ da ở số nhà 13-15 phố Hàng Bát Đàn. Còn mẹ chúng tôi được gọi là bà Ba. Thoạt đầu, mẹ tôi được thừa hưởng cái cửa hàng bán giấy bản nhỏ xíu của đẻ Hàng Giấy sau khi đẻ mất. Sau này, vào những năm 40, mẹ tôi bỏ nghề hàng giấy, chuyển sang mở cửa hàng bán đinh khoá ở ngay số 7 phố Hàng Bát Đàn, cũng là để cung cấp luôn đinh khoá cho xưởng làm đồ da của thầy tôi và những người họ hàng làm đồ da ở trong Nam ra mua hàng.
Lai lịch của hai chị em đẻ Hàng Giấy và đẻ Hàng Hòm cũng khá ly kỳ. Đẻ Hàng Hòm lúc trước là vợ của một ông Án sát, nhà ở ngay trước mặt nhà thầy tôi, lúc đó chưa phải là ngôi nhà số 13-15 Hàng Bát Đàn. Thầy tôi lúc trẻ chắc tráng kiện lắm, cụ cao đến 1m84, đối với người Việt Nam, thời ấy thế là cao lắm rồi. Cụ đang sức trai tráng, lại ăn nói có duyên, thế là đẻ Hàng Hòm mê thầy tôi luôn, rồi một hôm bỏ ông án sát kia, sang ở hẳn nhà thầy tôi. Lúc bấy giờ thầy tôi còn nghèo lắm, trong nhà chỉ có độc một chiếc trõng tre dành cho bố già. Thế mà rồi thầy tôi đã làm nên nhanh chóng.

Đó là vào khoảng những năm 1910-20. Có lúc cụ đã có cả đồn điền ở trong Chi Nê (Hoà Bình), rồi ở trên Đa Phúc (Vĩnh Yên). Kịp đến khi xảy ra vụ khủng hoảng kinh tế vào những năm 29-30, thầy tôi phải bán hết tất cả ruộng nương cho cụ đô thống Đỗ Đình Thuật, rồi rút về Hà Nội tập trung vào nghề làm đồ da.

Thầy tôi đã làm đủ mọi thứ nghề, đã từng khai thác phân dơi trong các hang động ở Chi Nê, đã từng khử đất, trồng thử cam Bố Hạ ở một vùng đồng bằng nhưng không thành công, đã từng thử sản xuất miến tầu, theo kỹ thuật của người Trung Hoa, nhưng cũng không đạt, v.v. Song ít ra, thầy tôi cũng đã thành công trong nghề làm đồ da. Những sản phẩm bằng da cụ chế tạo ra đã được đưa đi sang các hội chợ đấu xảo ở bên Pháp vào những năm 20-30 và cụ đã đoạt được huy chương vàng và huy chương bạc.

Điều mà cụ hãnh diện nhất, là đã làm được nhiều việc có ích cho làng quê của mình, làng Dũng Kim. Cụ đã xây đình, xây miếu, xây chùa, đào ao, đào giếng ở đây cho làng nước, đã đào tạo cả mấy thế hệ trai tráng trong làng để trở thành thợ da ở trên Hà Nội. Sau này một số người đã vào trong Nam lập nghiệp và thành đạt vào những năm 30.



Chuyện về đẻ Hàng Hòm ly kỳ ở chỗ, là bà có một người con với ông án sát, là anh phán Huấn anh họ tôi, nhưng đến khi ở với thầy tôi thì bà lại không có con, nên mới đem người chị ruột mình giới thiệu cho thầy tôi. Thế là, hai chị em lấy chung một chồng, nhưng chị lại là vợ thứ ! Đẻ Hàng Giấy được ba mụn con gái với thầy tôi. Nhưng khi bà mất đi, thì đẻ Hàng Hòm lại giới thiệu mẹ tôi cho thầy tôi !

Khi tôi sinh ra, thì đẻ Hàng Giấy đã mất. Đẻ Hàng Hòm cũng đã bắt đầu có tuổi, và đẻ gần như chỉ còn thiết tha với đạo Phật thôi, mọi việc khác mẹ không phải lo, vì ở nhà đã có đủ đàn bà để lo mọi việc khác rồi. Đẻ gần như tu tại gia, nên thầy tôi xây cho đẻ một căn gác gọi là “gác thờ” ăn thông với buồng của đẻ ở tầng thứ nhất. Mỗi sáng, đẻ lên đấy ngồi tụng kinh, niệm Phật từ rất sớm. Nhiều khi tôi được lên ngồi với đẻ, xem đẻ tụng kinh và lần tràng hạt. Tôi được đẻ cưng chiều lắm, chắc hẳn vì tôi cũng làm cho đẻ đỡ buồn vì bà không có con với thầy tôi.

Đẻ Hàng Hòm quê ở làng Cói bên Bắc Ninh. Đẻ còn có một người em gái nữa, là dì Bát, có trang trại ở trên Bắc Giang. Dì có dáng vóc khoẻ mạnh, tính tình xởi lởi, mạnh bạo, hay thích đùa giỡn, nói chuyên rất ăn ý với thầy tôi. Mỗi lần dì Bát về qua Hà Nội lại đem cho chúng tôi những đặc sản của vùng dì ở, đặc biệt là mật ong. Ôi, cái loại mật ong đặc biệt của núi rừng, ăn vào cứ thấy khe khé ở cổ, nhưng sao mà ngon thế !

Các đẻ già tôi còn có hai người em trai, cậu Trương và cậu Vỹ. Cậu Trương, chính là nhà văn Lê Văn Trương, còn cậu Vỹ thì tôi chưa bao giờ được gặp. Người ta chỉ biết Lê Văn Trương là người Hà Nội ở phố Chùa Vua, nhưng có lẽ ít người biết được gốc gác làng Cói của cậu ở bên Bắc Ninh.

Bọn trẻ con trong nhà tôi thích cậu Trương lắm, nhất là chị tôi, lúc đó đã biết đọc sách, đọc truyện nhiều. Chúng tôi chỉ thích nhất là khi được nghe cậu kể chuyện. Cậu ít khi đến nhà chúng tôi lắm, không phải chỉ vì thầy tôi dữ, mà chắc vì cậu cũng bận. Đời nhà văn cái thời ấy chắc hẳn phải khá bận rộn, vất vả. Vả lại, đến nhà tôi, chắc cậu cũng thấy hơi bị lạc lõng. Mỗi lần đến nhà, là cậu lên ngay buồng đẻ thăm bà chị trước, chúng tôi lần lên theo, vây lấy cậu, thế là cậu lại thao thao bất tuyệt kể chuyện núi rừng cho tụi tôi nghe.

Sau này, tôi hiểu được phần nào tại sao cậu Trương lại ít đến nhà tôi. Có lẽ vì cậu cũng không muốn mang tiếng là lại thăm chị, chỉ là để chị dúi cho ít tiền tiêu xài. Mặt khác, thầy tôi vốn không thích những mẫu người lãng tử, bạt mạng, nói nhiều, như cậu, hoàn toàn trái ngược với cái bản chất phần nào rất “thực dụng” của cụ. Cậu Trương, dù thế nào cũng là một người cấp tiến đối với thời đại của cậu, cái quan niệm về con người, về xã hội của cậu dù sao cũng khác xa với cái quan niệm rất hạn hẹp là chỉ biết “làm ăn” của thầy tôi, một quan niệm đã dẫn cụ đến chỗ không theo kịp được thời thế, để cuối cùng đã hoàn toàn thụ động khi chiến tranh bùng nổ.



Tết năm ấy, tôi đang ngồi xem mẹ tôi sửa soạn làm cỗ, thấy tôi ngoan, mẹ tôi lựa lời hỏi ướm : " Thế sang năm, con lớn lắm rồi, mẹ cho con đi học nhé ? Đi học có nhiều bạn bè, vui lắm cơ ! ". Nghe nói đến đi học, là tôi lại khóc lóc, không chịu. Mẹ tôi dỗ dành mãi, hứa cho tôi hết thứ này đến thứ nọ, cuối cùng tôi đành phải nhận lời là sang năm lên 6 tôi sẽ đi học.
Đi học ở trường Nguyễn Văn Tòng phố Hàng Cót, mỗi sáng tôi được đi cùng với chị tôi. Lúc đó chị tôi đương học ở trường Hàng Cót, hai trường ở ngay trước mặt nhau. Trường Hàng cót ngày ấy dành riêng cho con gái. Trường này có từ xưa lắm rồi, vì các chị lớn của tôi cũng đã từng học ở đây. Trước kia, bà đốc trường là một mụ đầm nổi tiếng là khinh người và ác. Đến thời “chị bé" của tôi học ở đây, thì bà đốc đã là người Việt, tên bà là bà Thục Viên, xem ra có vẻ bà được các chị quý mến lắm.

Mỗi sáng chị tôi đưa tôi đến tận cổng trường. Buổi chiều, tan học ra, tôi chạy ngay sang bên trường chị để về cùng với chị. Đúng hơn là để được về cùng với "các chị", bởi vì chị tôi không bao giờ về một mình cả, bao giờ cũng có ba chị khác đi kèm.

Chị tôi thuộc bộ "Tứ tử" của trường Hàng Cót lúc bấy giờ. Sau này, cả bốn chị lên học trường Đồng Khánh và nổi tiếng "hoa khôi" Hà Nội một thời. Các chị không những chỉ nổi tiếng về sắc đẹp, mà còn nổi tiếng là chua ngoa và đanh đá ! Các anh con trai dù bạo đến đâu cũng chỉ dám "chiêm ngưỡng" từ xa. Các chị có những cái tên rất mới và cũng rất lãng mạn : Tố Loan, Lệ Xuân, Ích Ngân, Nguyệt Thi… Thời ấy, ngoài cái tên khai sinh do bố mẹ đặt ra, nhiều khi rất nôm na, vì các cụ phần đông xuất thân từ nông dân, không phải cụ nào cũng dòng dõi nhà nho, nên nhiều khi các cô gái tân thời, các cô nữ sinh, cứ phải lấy tên hiệu cho thanh nhã hơn, để ra trường chúng bạn khỏi cười.

Giây phút sung sướng nhất đối với tôi mỗi ngày vẫn là lúc tan học ra, được về cùng với chị tôi và các cô bạn tinh nghịch của chị. Hình ảnh cậu bé mặc chiếc quần tây cộc, với đôi cẳng gầy khẳng khiu, vừa đi vừa nhảy nhót tung tăng như một con chim sẻ suốt dọc đường phố Hàng Cót vẫn còn nắng, qua bao niêu năm vẫn hiện rõ nét trong trí óc tôi như mới ngày hôm qua. Đằng sau cậu bé là bộ "Tứ tử", bốn chị bước đi hàng ngang, chiếm gần hết cả hè phố, vừa đi vừa cười đùa, nghịch ngợm như một lũ quỉ sứ, đôi khi lại còn lấy thằng em ra để giễu cợt, gọi đùa tôi là "ông tây gỗ" ! Chắc điệu bộ của tôi ở vào cái tuổi ấy trông cũng cứng nhắc thật ! Song vì "mê" các chị, nên dù bị chế giễu, tôi cũng không biết giận. Tuổi ấy cũng là tuổi tôi gần với người chị ruột của tôi nhất. Sau này, lớn lên, chúng tôi sẽ ngày càng xa nhau, không phải chỉ vì hoàn cảnh đưa đẩy mỗi người phải sống một nơi, trong những môi trường khác nhau, mà vì cái con người trong chúng tôi đã thay đổi, mỗi người có một cách nhìn cuộc sống, một lối suy nghĩ khác hẳn nhau, điều mà trước kia tôi không bao giờ ngờ đến.

Ngày ấy, nhìn các chị vui vẻ, yêu đời, tôi cũng thấy vui lây. Thật ra, lúc bấy giờ tôi mới chỉ biết suy nghĩ theo bản năng trẻ thơ của mình mà thôi. Đến ngay cả người lớn, cũng đã có mấy ai biết nghĩ gì xa xôi đâu, huống hồ các chị lúc đó chỉ mới 14, 15 tuổi đầu, và tôi thì mới chỉ lên 6, lên 7. Sau này nghĩ lại, tôi thấy ở cái tuổi ấy, vào cái thời ấy, các chị đã tỏ ra khá già dặn rồi. Tuổi trẻ ngày ấy, nói chung, chỉ biết học hành và đùa nghịch, nhưng ngay cả trong việc học hành, cũng chưa mấy ai có được một chút ý thức gì về cái lợi ích thật sự của nó. Các bậc cha mẹ lo cho con cái ăn học để "nên người", nhưng thực ra các cụ cũng không hình dung được một cách rõ ràng cái ý niệm "nên người" là như thế nào. Có lẽ, thời đó "nên người" là làm nên ông tham, ông phán, bà đốc, bà giáo, v.v.

Thời kỳ kinh tế khủng hoảng đã qua, từ những năm 30 trở đi, các ngành buôn bán đã làm ăn phát đạt trở lại. Các chị phần đông thuộc vào các tầng lớp khá giả, nên những lo âu về mặt vật chất gần như xa lạ đối với các chị. Những chuyện buồn bực thường chỉ là những chuyện xích mích giữa người lớn trong nhà, do cái cơ cấu đại gia đình phức tạp và cổ hủ từ xưa để lại.

Nhà nào nhà nấy sống gần như khép kín, thu mình lại, với những thành kiến và mặc cảm khác nhau. Sự giao du giữa các con cái và chúng bạn bị các cụ cấm đoán nghiêm khắc. Các anh, các chị tôi không bao giờ được tiếp bạn bè ở nhà, dù thân đến đâu. Hoạ hoằn, một đôi khi, chị tôi mời một bạn gái đến chơi và rủ lên buồng mình, nhưng ra vào vẫn cứ phải lén lút như đi ăn trộm. Rủi mà "cụ bô" nhìn thấy thì thôi lại được vài ba cái lườm ! Con gái rời khỏi nhà để đi đâu, làm công việc gì, cũng là cả một chuyện. Chị tôi chỉ đi mượn sách ở phố Hàng Nón thôi, nghĩa là ở ngay một phố đằng sau nhà, thế mà cũng phải kéo thằng em nhỏ đi kèm !



Chính trong những điều kiện khó khăn đó, mà bọn trẻ chúng tôi lại học hỏi được nhiều nhất ! Cái khung cảnh đại gia đình phức tạp kia, nơi diễn ra thường xuyên những tấn bi hài kịch, thực ra là cả một trường học khôn. "Những điều trông thấy" bó buộc chúng tôi phải suy nghĩ. Ngoài ra, cũng còn nào là chúng bạn ở trường, ở phố, nào là sách báo, phim ảnh, v.v... Những gì không làm được ở trong nhà, chúng tôi làm lén lút ở ngoài, chẳng hạn như học đàn, học hát, một điều vẫn bị coi như là "vô tích sự".

Tôi còn nhớ, chị tôi thích đọc sách lắm, nhất là tiểu thuyết. Chị cứ vừa đan áo vừa đọc, và đọc rất nhanh. Chị đọc đủ cả truyện ta, truyện tây. Cứ vài ngày lại thấy chị đi mượn về hàng chồng sách, hoặc ngồi rọc những trang sách vừa mới mua còn mới tinh ra để đọc. Khi nào có câu chuyện nào hay, chị lại kể cho tôi nghe.Tôi học được của chị cách "đọc chéo", nên sau này dùng để đọc truyện cũng đỡ, nhất là truyện kiếm hiệp !
PhoHangNon
Thời bấy giờ, ở phố Hàng Nón, ngay bên cạnh đình Hàng Nón, có một hiệu cho thuê sách, có tủ kính đàng hoàng. Phố Nhà Hoả (Hàng Điếu) cũng có một hàng cho thuê sách, nhưng ông hàng sách này không có quầy hàng gì cả, mà bày thẳng sách lên hè, hoặc kẹp sách thành nhiều tầng trên những sợi giây gai chăng ngang, dựa vào một cửa hiệu không mấy khi thấy mở cửa. Nhưng nổi tiếng nhất, và đông khách nhất, là hiệu Trường Xuân cho thuê truyện ở cửa chợ Đồng Xuân, vì ở đây chuyên cho thuê truyện kiếm hiệp ! Truyện kiếm hiệp thời đó không phải như truyện chưởng của Kim Dung sau này, mà có những cái tên rất khêu gợi như : Bồng Lai hiệp khách, Huyền Không Động, Nhất Chi Mai đại hiệp sĩ, v.v. và luôn luôn là do Thanh Đình dịch, lại có nhiều hình minh hoạ rất hấp dẫn. Sau này, lúc bắt đầu biết đọc kiếm hiệp, chúng tôi cũng bắt chước vẽ theo những hình minh hoạ đó, cho đến khi thuộc lòng cách vẽ các nhân vật nam, nữ, biết múa kiếm, múa chuỳ, biết phi thân, phun kiếm, v.v....

Hồi đó, ở ngay phố tôi cũng có một cửa hiệu bán sách báo. Người coi cửa hiệu là một chị người trạc độ 30 tuổi, có một cái tên rất ngộ, vào cái thời ấy chúng tôi nghe mãi rồi cũng quen đi, không thấy có gì là lố lăng cả. Người hàng phố gọi chị là cô Sâm "đơ" (deux = 2), vì trong phố có hai chị tên Sâm, một người là Sâm "oong" (un = 1). Tôi còn nhớ, trong tủ kính của hiệu sách này có bày bán tất cả những tạp chí mà các anh các chị tôi thích đọc thời ấy. Sau này, vào những năm 42-43, hiệu sách đó tự nhiên dọn đi đâu mất, có lẽ vì ít khách quá chăng ? Kể cũng lạ, từ khi tôi sinh ra và lớn lên ở phố này, cứ thấy cửa hiệu này thay đổi chủ đến ba bốn bận. Tôi tiếc hồi đó mình còn nhỏ quá, nên chưa biết "đọc" gì hết, chỉ biết "nhìn" và "quan sát" mà thôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ cả đến những hình ảnh trên các trang bìa của những tờ tập san mang những cái tên đượm màu dĩ vãng : Phong Hoá, Ngày Nay, Trung Bắc chủ Nhật, Tiểu thuyết Thứ Bảy, Tiểu thuyết Thứ Năm, v.v... Giá mà được nhìn lại những tờ tập san ấy bây giờ trong một thư viện nào, thì thích thú biết bao !



Trở lại ngôi trường nhỏ bé của tôi ở phố Hàng Cót. Sở dĩ sau này tôi chỉ nhớ nhất có cái sân trường, mặc dầu nó không có một đặc điểm gì hết, chỉ vì một hôm, tan học ra, tôi chờ mãi chẳng thấy có ai đến đón cả. Hình như dạo ấy chị tôi đương bị ốm, phải nghỉ học, nên mỗi ngày tôi đi học đều có người nhà đưa, đón. Hôm đó tôi bị bỏ quên một mình trong cái sân trường vắng tanh, vắng ngắt ấy cho mãi đến sẩm tối, sợ ơi là sợ !

Lớn lên đến năm lên 8, lên 9, tôi còn bị một mẻ sợ thứ hai nữa cũng tương tự. Thực ra, cái cảm giác mà đứa trẻ có ở những lúc đó không chỉ là sợ hay lo mà thôi, mà còn là một cảm giác "bị bỏ quên", bơ vơ, hoang mang, trống rỗng, khó tả !

Năm đó, vào khoảng năm 42, hay 43, trường Đồng Khánh chạy xuống Hưng Yên tránh bom Mỹ-Nhật. Chị tôi cũng đi theo trường và ăn ở ngay trong trường. Một hôm, nhân có hai mợ, mợ Năm và mợ Tám, vợ của hai cậu ruột tôi, rủ nhau đi lễ cầu tự ở đền Lảnh, gần thị xã Hưng Yên, mẹ tôi muốn cho tôi đi theo hai mợ xuống thăm chị tôi luôn thể. Mẹ tôi dặn dò cẩn thận và giao phó tôi cho hai mợ. Thế mà đến nơi, hai mợ quẳng vội tôi cho ông chủ quán trọ, rồi cứ tỉnh như không, lấy xe đi ngay vào đền Lảnh. Hai mợ bảo trưa hôm sau sẽ về, nghĩa là tôi phải ngủ lại một mình ở quán trọ ! Cả buổi chiều hôm ấy, tôi đành tha thẩn đi chơi một mình, chờ đến hôm sau vào trường thăm chị. Năm đó chắc tôi chỉ độ lên chín tuổi là cùng. Tôi đi quanh quẩn trong thị xã Hưng Yên, đếm được vẻn vẹn có 7 phố tất cả. Quen với Hà Nội rồi, xuống đây tôi thấy phố xá sao mà buồn tẻ thế. Lần đầu tiên tôi được đặt chân đến một tỉnh nhỏ. Đêm đến, ở quán trọ, người ta kê phản ra ngủ cả ở ngoài hiên, vì trời tháng 5 bắt đầu nóng bức. Tôi cũng chỉ được ngủ trên một chiếc phản gỗ, có manh chiếu đắp, vì về sáng có sương xuống lạnh, người ta bảo thế. Mà quả là lạnh thật. Càng về khuya, tôi càng cảm thấy cái hiu quạnh của tỉnh lỵ này và nỗi cô đơn của mình giữa một nơi xa lạ. Không có những tiếng động quen thuộc như ở một thành phố lớn. Nửa đêm, chuột kéo nhau ra rúc rích ở dưới chân. Tôi sợ cứng người, không dám động đậy, không dám gọi ai cả, cứ nằm thức như vậy cho đến gần sáng mới chợp đi được một giấc.

Cũng may, là cả ngày hôm sau Chủ nhật, tôi được vào chơi trong trường với chị tôi và các bạn của chị. Gặp ngày cả trường các chị được đi ra ngoài dạo chơi, tôi được phép đi theo đến một nơi có di tích lịch sử, bây giờ tôi không còn nhớ rõ là từ thời nào. Các chị ngồi rải rác từng đám trên bãi cỏ và trên những bực đá. Một vòng đông xúm lại xung quanh tôi, các chị bắt tôi hát những bài mà tuổi trẻ thời ấy đang thích hát, như "Lục đầu giang", "Hận Ô giang", "Tráng khí ca", v.v. Sau đó, một hai chị cũng hát cho tôi nghe. Trong đám các chị, có chị Châu giọng thật là ấm, một hai chị khác hát cũng rất hay. Sau này, vào khoảng năm 43-44, chị Châu đã được tuyển lựa để đóng vai Nhã Tiên trong vở ca kịch “Tục Luỵ" của Thế Lữ và Lưu Hữu Phước.

Kịch "Tục Luỵ" ra mắt công chúng ngày ấy là cả một sự kiện văn hoá quan trọng. Chị tôi mỗi ngày đi học về lại dạy tôi hát một đoạn. Toàn bộ vở kịch, mà lời là của Khái Hưng và Thế Lữ (nhưng chủ yếu là của Thế Lữ) đã được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, lúc đó còn là sinh viên trường thuốc, phổ nhạc. Hàng ngày các chị được tập hát với ông Hiếu, lúc đó là cây đàn piano số 1 ở Hà Nội đệm đàn. Khi vở kịch "Tục Luỵ" được đưa ra diễn chính thức ở Nhà Hát Lớn, vào khoảng giữa năm 44, có cả một giàn nhạc đệm do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát điều khiển.

Về Hà Nội, tôi kể lại chuyện ngủ đêm một mình ở nhà trọ cho mẹ tôi nghe, cả nhà ai nấy đều vừa buồn cười, vừa thương hại, và cứ trách mãi hai mợ. Tội nghiệp cho hai bà mợ yêu quý của tôi !



Kỷ niệm cuối cùng liên quan đến thời kỳ tôi học ở trường Nguyễn Văn Tòng và chị tôi ở trường Hàng Cót, là kỷ niệm về một món quà của học trò, mà bây giờ chắc không còn ai có dịp thưởng thức nữa ! Quà ở Hà Nội thì thời nào cũng có quà ngon, nhưng cứ mỗi dạo lại có thêm dăm ba món mới. Đối với bọn trẻ con học trò, thì những quà bán ở trong các sân trường có một giá trị và một thi vị đặc biệt. Đó là một cái gì không thể thiếu được vào giờ ra chơi, cũng như thể những hòn bi để chơi, quả bóng để đá, những đồng "xèng" (nút chai bia đập dẹp) để đánh đáo, hay gốc đa để lấy nhựa !

Ngày ấy, trong giới học trò ở Hà Nội, vừa mới có cái mốt ăn "bánh tây cặp chả cốm", một món quà không biết đã được ai bày đặt ra, mà sao ngon thế ! Nhưng nghĩ lại, thấy nó cũng hơi đài các ! Chả lợn đã là một món ăn sang rồi, lại còn cho cốm vào trong, mà cốm thì như chúng ta biết, chỉ đến mùa mới có thôi, và đâu phải là rẻ. Nhưng hồi đó bọn trẻ chúng tôi cứ thấy lạ miệng là thích thôi, và thấy cái món "đặc sản" ấy rất hợp với khẩu vị của mình ! Cũng như món "bánh mì cặp bánh tôm nóng, rưới nước mắm tỏi", một "đặc sản" khác của hàng bánh tôm vẫn hay đến đỗ ở phố tôi vào buổi sáng.
Ở bên trường chị tôi, trường Hàng Cót, vợ chồng người cai trường có một quầy bán hàng quà, gồm có độc một chiếc tủ kính và một cái phản gỗ, đặt ở dưới hiên chơi. Sau này, vào những năm 48-49, khi trường Chu Văn An đến “đóng đô” tạm ở đây trước khi chuyển đến phố Hàng Bài (trường Đồng Khánh cũ), thì chiếc quầy bán quà vẫn y hệt như thế. Giờ ra chơi, học trò cũng xúm vào đây để mua quà.

Trở lại ngôi trường Hàng Cót của các chị, lúc đó vợ chồng người cai trường chế ra món "bánh tây cặp chả cốm", nên rất ăn khách, tiếng đồn lan sang cả trường Nguyễn Văn Tòng. Bên trường này, hoặc vì người gác trường ít vốn hơn, hoặc vì ông ta nghĩ rằng chúng tôi còn nhỏ quá, nên không làm cái món quà cầu kỳ ấy làm gì. Cũng có thể là ông ta không muốn tranh với bên trường bên kia. Và như thế, là cứ đến giờ ra chơi, tôi lại chạy sang bên trường chị tôi, thập thò ở ngoài hàng rào, để đưa tiền nhờ chị mua hộ cho mấy xu "bánh tây cặp chả cốm". Ăn quà vào giờ ra chơi, lúc bụng đã hơi đoi đói, sao mà thấy ngon thế !



1941, lên 7 tuổi, tôi vào học lớp đồng ấu ở trường Cửa Đông, tức trường Bùi Xuân Phái. Năm đó cũng là năm thời cuộc có nhiều chuyển biến quan trọng. Nhật bắt đầu tràn vào Đông Dương. Phố phường bắt đầu đầy lính Nhật. Tuy vậy, Pháp vẫn còn hống hách đối với dân bản xứ và lính Pháp vẫn còn đóng ở trong thành Cửa Đông, cho đến ngày Nhật đảo chính, mồng 9-03-1945.

Thời kỳ này, từ lúc tôi học lớp đồng ấu lên đến lớp Moyen 1, mỗi sáng trước khi vào lớp, học trò phải xếp hàng để chào cờ, một bên là "cờ tam tài", một bên là "cờ Bảo Đại". Ngày đó, chúng tôi thỉnh thoảng lại còn phải hát bài ca xưng tụng thống chế Pétain nữa !

Thời kỳ này cũng là thời kỳ Việt Minh hoạt động mạnh. Tuần nào cũng thấy truyền đơn dán đầy trên bức tường rào quanh trường. Đám tang ông Phan Thanh, một trí thức yêu nước thời ấy, giáo sư trường Thăng Long, là một sự kiện chính trị đầu tiên đập mạnh vào trí tưởng tượng non nớt của tôi và làm cho tôi xúc động.

Kỷ niệm của tôi về trường Cửa Đông gần như còn nguyên vẹn, không một chi tiết nào bị phai mờ. Trước hết, là cái khung cảnh quen thuộc của nó, với cây đa cổ thụ nằm ngay ở giữa sân. Những hôm trời mưa to, cả khu phố bị lụt lội, trong sân trường, nước ngập đến tận đầu gối, chúng tôi đứa thì leo lên cây đa, đứa thì bơi nghịch trong nước bẩn, đương nhiên là có lẫn cả nước cống. Cả các lớp học cũng bị ngập nước, chỉ trừ có mỗi lớp "élémentaire" của thầy Thu ở trên tầng gác thì không bị. Tan học, chúng tôi phải lội về đến hết phố Cửa Đông, tới đầu phố Hàng Bát Đàn mới hết bị lụt.

Ngoài ra, tôi nhớ nhất là những món đòn của các thầy giáo, còn chuyện học hành, quả thật không nhớ đã học những gì, học như thế nào, và với ai ! Ai đã từng học qua cái trường tiểu học Bùi Xuân Phái hồi nhỏ, hẳn còn nhớ ông giáo Quảng dạy lớp đồng ấu, ông Lợi dạy lớp dự bị, ông Thu dạy lớp "élémentaire" và ông Thiện "chột" dạy lớp Moyen 1.

Các thầy mỗi người có một cách phạt, cách đánh riêng. Thầy Quảng có lẽ là người hiền lành, dễ dãi hơn cả, tôi không nhớ đã bị thầy phạt lần nào. Thầy Lợi thì suốt từ sáng đến chiều sừng sộ, quát tháo, bạt tai, đá đít học trò như chơi, có khi còn đuổi theo học trò ra đến tận ngoài sân để đánh tiếp ! Thầy Thu có cái thước kẻ bằng gỗ lim nổi tiêng từ thế hệ các anh tôi. Thầy chuyên đánh theo lối cổ điển, "chân truyền", bắt học trò phải giơ thẳng cánh tay, bàn tay để ngửa và đếm từng roi một. Đánh như vậy, vừa đau, lại vừa không để lại thương tích. Thầy Thiện "chột" không hay đánh, nhưng hay phạt, và thầy rất đáng sợ, vì mình không biết thầy nhìn về phía nào, vào đứa nào, thành thử bao giờ thầy cũng nhìn thấy mình trước khi mình còn đương ngó nghiêng, toan tính, định làm một chuyện gì !

Tôi bị đánh lên đánh xuống, hết lớp này sang lớp khác, đau quá, mỗi lần bị đòn về lại kể cho mẹ nghe. Mẹ tôi thương con, có lần đến tận cửa trường gặp thầy giáo và cứ hàng năm, đến ngày Tết nhất, tôi lại phải theo mẹ đi lễ Tết thầy giáo !

Các ông giáo, ở trường thì oai lắm, hét ra lửa với đám học trò đấy, nhưng thực ra, khi nhìn vào đời tư của các ông thì lại chẳng thấy có cái gì là oai vệ cả. Ông nào ông nấy nghèo xác xơ.

Tôi còn nhớ, vào ngày trước Tết, mẹ tôi cứ phải lần mò đi vào những ngõ phố hiểm hóc để lễ thầy. Các thầy thường sống trong những xóm lao động nghèo khổ : ngõ Yên Thái, dốc Hàng than, khu bờ sông, khu Yên Phụ, v.v. nhà cửa thường là những căn gác chật chội, đồ đạc giường tủ lôi thôi, vợ con nheo nhóc.

Hình ảnh còn khắc sâu trong trí nhớ của tôi về thời kỳ này và về người mẹ đáng thương của tôi, là một ngày cuối năm, trời tối, gió lạnh hun hút, hai mẹ con cuốc bộ leo lên một con đường dốc, đâu như về cuối phố Hàng Than, mé gần bờ sông Cái. Mẹ tôi đội ở trên đầu một cái tráp quả lớn, trong có cả một con cá chép to, bác tôi vừa đánh được và mang từ dưới Thái Hà Ấp lên. Những năm khác, mẹ tôi thường có những lễ vật đơn giản hơn. Năm đó, mẹ tôi bảo đây là của hiếm, chẳng mấy khi có, để đem biếu thầy giáo.

Thế là sau Tết vào học lại, tôi cũng đỡ bị "trù" trong một thời gian khá lâu, và năm ấy tôi toàn được điểm tốt !



Bao nhiêu năm đã trôi qua, kể từ những ngày thơ dại ấy ! Biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu quãng đời chồng chất, không làm phai mờ những kỷ niệm xưa. Thời gian và không gian dường như chỉ càng làm cho người ta thêm nhớ day dứt. Một câu, một chữ, chợt nhớ lại, đôi khi cũng là cả một kỷ niệm.

Tôi còn nhớ mẹ tôi ngày ấy hay dùng hai tiếng “Ngày sau…" để nói lên những điều mà mẹ tôi mong ước cho tôi, vào những buổi trưa im ắng, hai mẹ con ngồi với nhau ở cửa hàng của mẹ, mẹ tôi kéo tôi vào lòng, âu yếm vuốt tóc, và thủ thỉ với tôi những lời mà ngày ấy tôi chưa hiểu hết ý nghĩa.

Ngày sau… Ôi cái ngày xa xôi ấy có lẽ đã đến với tôi từ lâu rồi, và nhiều khi tôi vẫn tự hỏi mình đã làm được gì xứng đáng để đền đáp lại tấm lòng của mẹ ?

Ngày sau… Không biết thế hệ những đứa con của chúng ta sẽ có những kỷ niệm gì, một khi mà chúng chưa từng được sống trên mảnh đất của tổ tiên, chưa từng có những kỷ niệm mà chúng ta đã có ? Điều làm tôi băn khoăn nhất vẫn là : chúng sẽ trở nên những con người như thế nào, biết yêu, biết ghét ra sao ?

Nhưng tôi vẫn tin rằng kỷ niệm của mỗi cá nhân, mỗi thế hệ, có thể khác nhau, vì cuộc đời có bao giờ lặp lại, nhưng con người không thể sống không trí nhớ, cũng như không thể không có tình thương, là cái gạch nối giữa con người với đồng loại, vượt qua không gian và thời gian.



Quay về:

Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà Nội

Các thao tác trên Tài liệu

được sắp xếp dưới: Văn Ngọc
Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Yda: Un court-métrage Hanoi - Warszawa 29/11/2024 19:00 - 21:00 — Médiathèque Jean-Pierre Melville, 79 rue Nationale, Paris 75013, M° Olympiades
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us