Mao Trạch Đông - Ngàn năm công tội (21)
Mao Trạch Đông ngàn năm công tội
Tác giả: Tân Tử Lăng
Thông Tấn Xã
Việt Nam dịch và in 2009
Người gõ: Mõ Hà Nội
Chương 33. Tướng quân bách chiến thân danh liệt.
Sau thất bại ở Lư Sơn, Lâm Bưu muốn sử dụng vũ lực. Tháng 10-1970, Hạm đội liên hợp chính thức thành lập do Lâm Lập Quả làm Tư lệnh, Chu Vũ Trì làm Chính uỷ. Các thành viên nòng cốt của Hạm đội được bí mật lựa chọn kỹ từ Bộ Tư lệnh Không quân, các Quân đoàn không quân ở Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu, Nam Kinh, Hàng Châu.
Ngày 24-1-1971, Mao đột ngột quyết định cải tổ Đại quân khu Bắc Kinh. Diệp Quần sợ quá, giục Lâm Bưu sớm có quyết định. Nội bộ tập đoàn Lâm Bưu có hai mảng. Một là loại tướng tá lão thành, đứng đầu là Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác. Họ đều là thân tín của Lâm Bưu, từng cùng Lâm nam chinh bắc chiến, vào sinh ra tử, nhưng khi phải lựa chọn giữa Mao và Lâm, họ lại do dự, không dám phiêu lưu. Quyền điều động quân đội tập trung trong tay Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Mao Trạch Đông, điều động một trung đội cũng phải được Mao phê chuẩn, Lâm Bưu là Phó Chủ tịch Quân uỷ kiêm Bộ trưởng Quốc phòng không được quyền điều động một trung đội. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng trở xuống càng không có quyền ấy. Vì vậy, tuy Lâm có ý làm phản, nhưng không hề nói với Hoàng, Ngô, Lý, Khưu. Hai là các thành viên Hạm đội liên hợp do Lâm Lập Quả đứng đầu là những kẻ có dã tâm, dám phiêu lưu, sẵn sàng liều mạng để đạt mục đích. Trong tình hình bị Mao dồn ép từng bước, ý kiến của Hạm đội liên hợp chiếm tư thế. Tư tưởng chủ đạo của vợ chồng Lâm Bưu hồi đó là “nổi lên chống lại còn hơn ngồi chờ chết”. Lâm từng nói với Diệp:
- Bí quyết đảo chính là hai chữ QUYỀN và NHANH. Các cuộc đảo chính hiện đại có thể đoạt quyền trong một buổi sớm. Làm đảo chính, cái giá đoạt quyền phải nhỏ nhất, nhỏ nhất, nhỏ nhất, thu hoạch phải lớn nhất, lớn nhất, lớn nhất, thời gian phải nhanh nhất, nhanh nhất, nhanh nhất, nhưng tìm được một thích khách như Chuyên Chư cũng khó nhất, khó nhất, khó nhất.
Chỉ cần tìm được một thích khách như Chuyên Chư, giết phăng Mao Trạch Đông, là có thể nắm chính quyền trong tay. Trong giai đoạn đầu đảo chính, Lâm Bưu dựa vào Hạm đội của Lâm con, mà không sử dụng Hoàng, Ngô, Lý, Khưu, việc này có lý do của nó. Từ 21 đến 24-3-1971, tại căn hầm toà nhà số 889 đường Cự Lộ Thượng Hải, theo lệnh Lâm bố, Lâm con cùng Chu Vũ Trì, Vu Tân Dã, Lý Vĩ Tín, nghiên cứu thảo luận “kế hoạch khởi nghĩa vũ trang”. Cuộc đảo chính vũ trang do Lâm mưu tính đã bước vào giai đoạn thực thi.
Lâm Lập Quả nêu 3 khả năng Lâm Bưu tiếp quản quyền lực: một là quá độ hoà bình, đợi 5,6 năm vẫn chưa được tiếp quản, trong thời gian trên có thể thay đổi lớn, chưa chắc Lâm giữ được vị trí hiện nay; hai là Lâm bị người khác thay thế; ba là tiếp quản quyền lực sớm, biện pháp là trừ phăng B-52 (Mao), thực hiện khởi nghĩa vũ trang. Lập Quả thay mặt Lâm Bưu trao cho Vu Tân Dã nhiệm vụ vạch kế hoạch hành động, mang mật danh “Kỷ yếu công trình 571” (571 đồng âm với cụm từ “khởi nghĩa vũ trang”).
Cốt lõi của kế hoạch hành động này là giết Mao, nói Mao không phải người Mác xít chân chính, mà là hôn quân phong kiến lớn nhất trong lịch sử, thực hiện đạo Khổng Mạnh, khoác áo Mác-Lenin, cai trị kiểu Tần Thuỷ Hoàng; cuộc đấu tranh với Mao là cuộc đấu tranh “một mất một còn”, “hoặc chúng ta xơi gọn hắn, hoặc hắn nuốt chửng chúng ta”. Có hai thời cơ chiến lược: “một là khi chuẩn bị tốt rồi, có thể xơi gọn đối phương, hai là khi phát hiện kẻ thù há rộng miệng định nuốt chửng chúng ta, khi ấy dù chuẩn bị tốt hay chưa, cũng phải một trận sống mái”. Sách lược do kế hoạch trên đưa ra là: “Giương ngọn cờ B-52 đánh vào lực lượng của B-52”, “lợi dụng cuộc họp cấp cao quãng mẻ lưới bắt gọn, hoặc “trước tiên chặt hết móng vuốt, tạo ra sự thật đã rồi, buộc B-52 nghe lời”, hoặc “dùng các phương tiện đặc chủng như hơi độc, vũ khí vi trùng, máy bay ném bom, tên lửa, tai nạn ôtô, ám sát, bắt cóc, phân đội du kích ở thành thị… để giết Mao Trạch Đông”.
Sau đó, Lâm Lặp Quả cho thành lập đội huấn luyện quân sự cho cán bộ cơ sở, thực chất là các phân đội cơ động có sức chiến đấu mạnh ở Thượng Hải.
Hình như nhận ra dấu vết tập đoàn Lâm Bưu sắp nổi loạn, ngày 15-8-1971, Mao Trạch Đông rời Bắc Kinh tuần du phương Nam, nhằm nhắc nhở lãnh đạo các địa phương cần vạch rõ ranh giới với Lâm Bưu. Từ 16 đến 27-8 tại Vũ Xương, Mao lần lượt gặp Chính uỷ Đại quân khu Vũ Hán Lưu Phong, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam Lưu Kiên Huân, Tư lệnh Quân khu tỉnh Vương Tân, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam Hoa Quốc Phong, điểm tên phê phán Lâm Bưu và đồng đảng tổ chức tập kích bất ngờ tại Hội nghị Lư Sơn.
“Tôi không tin Hoàng Vĩnh Thắng chỉ huy nổi Quân Giải phóng làm phản! Bên dưới còn có các sư đoàn, trung đoàn, còn có các cơ quan chính trị, hậu cần, anh điều động quân đội làm phản, ai nghe theo?”
Ngày 28-8. Mao đến Trường Sa, lần lượt gặp lãnh đạo các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Mao nói với Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu Đinh Thịnh, Chính uỷ Lưu Hưng Nguyên:
- Các ông quan hệ với Hoàng Vĩnh Thắng mật thiết như vậy, Hoàng đổ, các ông thế nào?
Câu nói đáng chú ý nhất của Mao tại đây là:
- Tôi dự định 23-9 về Bắc Kinh, 25 đến 29-9 họp Hội nghị Trung ương 3 khoá 9. Hội nghị sẽ nêu ra sai lầm của Lâm Bưu, cử thêm Trương Xuân Kiều, Lý Đức Sinh vào Thường vụ Bộ chính trị, Trương Xuân Kiều làm Phó Chủ tịch Đảng.
Ngày 31-8, Mao đến Nam Xương, gặp Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Hứa Thế Hữu, Tư lệnh Đại quân khu Phúc Châu Hàn Tiên Sở, Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Giang Tây Trình Thế Thanh. Mao phê phán Lâm Bưu và phe cánh tổ chức tập kích bất ngờ, hoạt động bí mật, có kế hoạch, có tổ chức, có cương lĩnh… Mao nói:
- Hội nghị Lư Sơn mới giải quyết vấn đề Trần Bá Đạt, chưa đụng đến Lâm Bưu. Đương nhiên Lâm phải chịu một số trách nhiệm. Đối với Lâm vẫn phải theo phương châm ngăn trước ngừa sau, trị bệnh cứu người, song với những vụ mắc sai lầm về nguyên tắc lớn, sai lầm về đường lối, phương hướng, thì người đứng đầu cũng khó sửa lắm.
Trình Thế Thanh xin gặp riêng Mao, tố cáo ba việc:
1. Trong thời gian Hội nghị Lư Sơn, Diệp Quần bảo Trình phải kiên trì yêu cầu đặt chức danh Chủ tịch nước.
2. Thượng tuần tháng 7, Chu Vũ Trì đến Nam Xương, dùng máy bay chở đi số xe lội nước mà họ nhờ Nhà máy Giang Nam chế tạo.
3. Lâm Lập Hằng (con gái Lâm Bưu) có lần đến Nam Xương ở tại nhà Trình, đã nghiêm túc nói với bà vợ ông ta: “Sau này bớt đi lại với nhà họ Lâm, làm không tốt mất đầu đấy”. Thông tin trên khiến Mao thêm cảnh giác.
0 giờ ngày 3-9, Mao từ Nam Xương tới Hàng Châu, cho gọi lãnh đạo tỉnh Chiết Giang, và Chính uỷ Quân đoàn 5 Không quân Trần Lệ Vân đến gặp trên chuyên xa. Lệ Vân là thành viên Hạm đội liên hợp, được Lâm Lập Quả cử đứng đầu lực lượng này ở Hàng Châu. Lệ Vân vừa đến, Mao nghiêm mặt chất vấn:
- Quan hệ của anh với Ngô Pháp Hiến thế nào? Tại Lư Sơn, Ngô Pháp Hiến đã tìm gặp mấy người, trong đó có anh. Vương Duy Quốc ở Thượng Hải và một người nữa ở Phúc Kiến. Tám uỷ viên Trung ương trong Không quân các anh đã làm những gì rồi?
Trần Lệ Vân cúi gằm mặt. Mao nói tiếp:
- Các anh bị lừa dối. Đối với những người mắc sai lầm vẫn là trị bệnh cứu người. Phải theo chủ nghĩa Mác-Lenin, không theo chủ nghĩa xét lại, phải đoàn kết, chớ chia rẽ, phải quang minh chính đại, chớ giở mưu ma chước quỷ. Tôi cũng không hiểu mấy viên đại tướng hiện nay (chỉ Hoàng, Ngô, Lý, Khưu), cũng không rõ tình hình tư tưởng Hoàng Vĩnh Thắng hiện nay ra sao. Tôi không tin quân đội muốn tạo phản. Quân đội phải thống nhất, phải chỉnh đốn…
Nghe Mao nói, Trần Lệ Vân thấy như sét đánh ngang tai, đâu dám thực hiện nhiệm vụ của Hạm đội liên hợp nữa.
Lúc đó, từ biệt thự ven biển Bắc Đới Hà, Lâm Bưu và Diệp Quần tìm mọi cách thăm dò lịch trình của Mao trong chuyến đi này, cũng như việc Mao gặp những ai, nói những gì để lựa chọn thời cơ ra tay. Đêm 5-9, Tham mưu trưởng Không quân Quảng Châu Cố Đồng Chu mật báo Chu Vũ Trì nội dung cuộc đàm thoại giữa Mao với Hoa Quốc Phong, Đinh Thịnh, Lưu Hưng Nguyên. Chiều 6-9-1971, Chu Vũ Trì đáp máy bay lên thẳng tới Bắc Đới Hà trao cho Lâm Lập Quả. Đọc xong bản ghi qua điện thoại dài tới 16 trang, Lâm Bưu và Diệp Quần lòng như lửa đốt. Đến đoạn “Ngày 23-9 Mao về Bắc Kinh, 25 đến 29 họp Hội nghị Trung ương 3 khoá 9. Hội nghị sẽ nêu ra sai lầm của Lâm Bưu, cử thêm Trương Xuân Kiều và Lý Đức Sinh vào Thường vụ Bộ chính trị, Trương Xuân Kiều làm Phó Chủ tịch Đảng”, Lâm Bưu tức điên lên, quyết một trận sống mái.
6 giờ sáng 6-9, nhân dịp cùng Tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên tới Vũ Hán, Lý Bằng đã bí mật gặp Chính uỷ Đại quân khu Vũ Hán Lưu Phong. Trở về Bắc Kinh trong ngày, Lý Bằng đã báo cáo Hoàng Vĩnh Thắng nội dung phát biểu của Mao tại Vũ Hán do Lưu Phong vừa mật báo. Hoàng thông báo ngay cho Diệp Quần qua đường điện thoại bảo mật.
Ngày 7-9, Chu Vũ Trì quay lại Bắc Kinh, trao cho Giang Đàng Giao nhiệm vụ chỉ huy giết Mao Trạch Đông, khi đoàn tàu chở Mao qua Thượng Hải trên đường trở về Bắc Kinh dự Quốc khánh.
Mao nghỉ tại biệt thự Uông Trang một tuần. Uông Đông Hưng kể lại, tối 8-9, một “đồng chí tốt” cho người đến ngầm nói với Mao: “ở Hàng Châu có người chuẩn bị máy bay, có người chỉ trích chuyên xa của Chủ tịch cản trở họ đi lại”. Uông nửa đêm gọi điện cho Trần Lệ Vân bàn việc di chuyển chuyên xa, Trần thoái thác “bận việc”, cho thư ký đến gặp. Tình hình đó thôi thúc Mao quyết đoán di chuyển sớm. 13 giờ 40 phút ngày 10, Mao rời Thiệu Hưng. 15 giờ 35 phút rời ga Hàng Châu, 18 giờ 10 phút tới Thượng Hải.
9 giờ tối 8-9, Lâm Lập Quả lên máy bay Trident số 256 về Bắc Kinh, mang theo lệnh viết tay:
“Làm theo mệnh lệnh do các đồng chí Lập Quả, Vũ Trì truyền đạt.
Ngày 8-9
Lâm Bưu”
11 giờ 30 tối 8-9, tại cứ điểm bí mật trong sân bay Tây Giao (Bắc Kinh), Lâm Lập Quả nói:
- Tình hình rất khẩn cấp, chúng ta đã quyết định ra tay tại Thượng Hải. Chúng ta nghiên cứu ba biện pháp. Một là dùng súng phun lửa, B.40 tấn công chuyên xa của Mao, hai là dùng pháo cao xạ 100 ly bắn thẳng vào chuyên xa. Ba là Vương Duy Quốc mang theo súng ngắn, nhân lúc gặp Mao, ra tay trên xe lửa.
Lập Quả quay sang Giang Đằng Giao:
- Ông xuống Thượng Hải thống nhất chỉ huy, chỉ có ông đảm đương nổi việc này. Sau khi Thượng Hải khởi sự, Vương Phi chỉ huy tiểu đoàn cảnh vệ trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân đánh vào Điếu Ngư Đài. Thủ trưởng (Lâm Bưu) nói rồi, ai hoàn thành nhiệm vụ, người đó là khai quốc nguyên huân.
Giang Đằng Giao nêu ý kiến:
- Nếu chuyên xa dừng tại sân bay Hồng Kiều Thượng Hải, thì cho nổ kho dầu gần đó, lợi dụng tình trạng nhốn nháo khi cứu hoả, xông lên thịt luôn B-52. Thêm một phương án nữa là đánh sập cầu Thạc Phóng, khi chuyên xa di chuyển giữa Thượng Hải và Tô Châu.
Đến Thượng Hải, Mao ở luôn trên chuyên xa. Uông Đông Hưng lệnh cho lực lượng cảnh vệ địa phương rút hết ra ngoại vi. Uông trực tiếp chỉ huy cảnh vệ thiện chiến thuộc Trung đoàn cảnh vệ trung ương, bố trí bảo vệ nghiêm ngặt, đặt cả trạm gác tại kho dầu sân bay cách chuyên xa 150 mét. Mao cho gọi Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Hứa Thế Hữu đến ngay Thượng Hải. Sáng 11, Hứa vừa xuống máy bay, liền cùng Vương Hồng Văn (Phó Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Thượng Hải) được đưa ngay lên chuyên xa gặp Mao. Vương Duy Quốc nhận nhiệm vụ mưu sát Mao, y giấu súng ngắn trên xe hình như bị phát giác; nên không được tiếp cận chuyên xa. Mao bảo Vương Hồng Văn mời Hứa Thế Hữu và mọi người ăn trưa, Hồng Văn cố tình kéo cả Duy Quốc cùng đi. Bữa trưa kéo dài hai giờ, Vương Duy Quốc không sao rời nổi bàn ăn.
13 giờ 12 phút ngày 11-9, Mao hạ lệnh đoàn tàu lập tức chuyển bánh, không cho một ai biết. Nghĩa là vào lúc Vương Duy Quốc và đồng đảng còn đang do dự, đùn đẩy nhau về các phương án mưu sát Mao, thì đoàn chuyên xa của Mao đã rời Thượng Hải, chạy như bay trên tuyến đường sắt Phố Khẩu-Thiên Tân. Trạm đầu tiên là Tô Châu. Cầu Thạc Phóng nằm giữa Tô Châu và Vô Tích, Hạm đội liên hợp đã xem xét địa hình, thiết kế vị trí đặt thuốc nổ, nhưng họ vẫn theo phương án ngày 23-9 Mao về Bắc Kinh, nên mọi việc chưa triển khai. Đoàn chuyên xa của Mao an toàn qua cầu, 18 giờ 35 phút đến Nam Kinh, dừng lại 15 phút, Hứa Thế Hữu đứng trên sân ga chỉ huy bảo vệ đoàn tàu. Qua Nam Kinh là thoát khỏi vùng nguy hiểm. 13 giờ 10 phút ngày 12-9-1971, đoàn tàu về đến ga Phong Đài. Do Uông Đông Hưng thông báo trước, Tư lệnh Đại quân khu Bắc Kinh Lý Đức Sinh, Chính uỷ thứ hai Kỷ Đăng Khuê, Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Bắc Kinh Ngô Đức, Tư lệnh khu cảnh vệ Bắc Kinh Ngô Trung đã có mặt. Mao hỏi han tình hình Bắc Kinh, rồi lệnh cho Lý Đức Sinh điều một sư đoàn thuộc Quân đoàn 38 đến cửa Nam Bắc Kinh chờ lệnh. 16 giờ 5 phút ngày 12, đoàn tàu về đến ga Bắc Kinh, trong sự bảo vệ nghiêm ngặt.
Mao lên ôtô về Trung Nam Hải.
Đêm 11-9, Vương Duy Quốc gọi điện thoại cho Chu Vũ Trì, hối hả nói, quên cả mật danh và ám ngữ: “Chuyên xa của Mao Chủ tịch đã rời Thượng Hải trưa nay”.
Lâm Lập Quả nghe tin bật khóc. Tại biệt thự số 6 trên núi Liên Phong, Bắc Đới Hà, Lâm Bưu nghe tin mặt tái xanh, đôi mắt trân trân như tượng gỗ. Kế hoạch mưu sát Mao Trạch Đông hoàn toàn phá sản, Lâm Bưu quyết định thực hiện phương án 2, đem theo 5 uỷ viên Bộ chính trị Hoàng, Ngô, Diệp, Lý, Khưu xuống Quảng Châu, lập Trung ương riêng, đối kháng Mao. Tám máy bay, trong đó có 2 chiếc Trident, 2 chiếc Il-18, 1 chiếc lên thẳng Skylark được chuẩn bị để thực thi phương án này, phía Quảng Châu đã được lệnh sẵn sàng tiếp nhận máy bay hạ cánh, và bố trí phòng ở trên núi Bạch Vân.
15 giờ 12-9, Diệp Quần tổ chức lễ đính hôn cho con gái là Lâm Lập Hằng và Trương thanh Lâm. Buổi tối tổ chức chiếu phim Hồng Công, số cảnh vệ và nhân viên phục vụ không trực ban đều bị hút cả nào đó. 20 giờ 10 phút, Lâm Lập Quả từ Bắc Kinh trở về, lưng giắt súng ngắn, tặng chị một bó hoa tươi chúc mừng, rồi vội vã vào phòng Lâm Bưu.
Lập Hằng lặng lẽ theo dõi, thấy tình hình khác thường, liền thông qua Đại đội trưởng cảnh vệ Phương Tác Thọ, báo cáo Trung ương. Mao Trạch Đông ra lệnh Trung Nam Hải và Điếu Ngư Đài vào báo động chiến đấu cấp 1.
22 giờ 30 phút, Uông Đông Hưng báo cáo Chu Ân Lai, lúc ấy đang họp tại Nhà Quốc hội. Một lát sau, Uông lại nhận được báo cáo thứ 2 của Lâm Lập Hằng: “Có một máy bay Trident đậu trên sân bay Sơn Hải Quan”.
Chu cho ngừng ngay cuộc họp, trở về phòng làm việc, gọi điện bảo Ngô Pháp Hiến làm rõ việc này. Pháp Hiến báo cáo:
- Đúng là có một máy bay đến Sơn Hải Quan, Hồ Bình nói đây là máy bay bay thử, sau khi sửa chữa. Tôi yêu cầu cho máy bay quay lại, Hồ Bình nói máy bay có chút trục trặc, tạm thời chưa thể bay trở lại.
Sân bay Sơn Hải Quan thuộc Hải quân, Chu gọi điện cho Lý Tác Bằng nêu rõ:
- Phải có 4 người Chu Ân Lai, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng cùng ra lệnh, chiếc máy bay ở Sơn Hải Quan mới được cất cánh. Sự nhạy bén, lão luyện của Chu khiến người ta khâm phục, một cú điện thoại trên đã phá tan âm mưu của Lâm Bưu chạy xuống Quảng Châu lập Trung ương riêng.
23 giờ 30 phút, Lâm Lập Quả nhận được điện thoại của Chu Vũ Trì:
- Hỏng rồi, Thủ tướng đã điều tra chiếc máy bay 256. Thủ tướng đòi đưa máy bay trở lại Bắc Kinh.
Đang lúc nhà họ Lâm bàn đối sách, chuông điện thoại lại reo lên.
Diệp Quần nhấc ống nghe, tiếng Chu Ân Lai quen thuộc:
- Đồng chí Diệp Quần, Lâm Phó Chủ tịch khỏe không?
- Đồng chí Lâm Bưu rất khỏe.
- Bắc Đới Hà có một chiếc máy bay, đồng chí có biết không?
- Có biết, con tôi bay đến đấy. Bố cháu nói nếu ngày mai thời tiết tốt, sẽ bay dạo trên trời.
- Phải chăng rời đi nơi khác?
- Vốn định đi Đại Liên, ở đây thời tiết lạnh rồi.
- Bay đêm không an toàn đâu.
- Chúng tôi không bay đêm, đợi sáng mai hoặc trưa mai thời tiết tốt mới bay.
- Đừng bay nữa, không an toàn. Nhất định phải nắm chắc tình hình thời tiết.
Chu Ân Lai chủ yếu nhắc nhở họ thời tiết chính trị không tốt hành động phiêu lưu không an toàn, rồi nói tiếp:
- Tôi muốn xuống Bắc Đới Hà thăm đồng chí Lâm Bưu.
Diệp Quần cuống lên:
- Thủ tướng đừng đến, đồng chí đến thì Lâm Bưu sẽ căng thẳng, Thủ tướng dứt khoát đừng đến.
Lâm và Diệp cho rằng kế hoạch của họ bị lộ rồi. Chu Ân Lai đến thì chỉ còn nước ngồi chờ làm tù binh. Lâm bảo Diệp:
- Tôi cũng không nghỉ ngơi nữa, đằng nào thì đêm nay cũng không ngủ nổi. Mọi người nhanh chóng lấy đồ đạc. Chúng ta đi ngay.
Khu biệt thự yên tĩnh bỗng trở nên rối loạn. 23 giờ 40 phút, chiếc xe Hồng Kỳ chống đạn cỡ lớn của Lâm Bưu lao ra với tốc độ trên 100 km/giờ. Đại đội trưởng Không Tác Thọ đứng giữa đường ra hiệu cho xe dừng lại. Diệp Quần ra lệnh:
- Bộ đội 8341 không trung thành với Thủ trưởng, láo quá!
Nếu Tác Thọ không đề phòng từ trước, chắc đã bị cán chết. Tham mưu cảnh vệ Lý Văn Phổ ngồi bên lái xe vẫn tưởng chuyến này đi Đại Liên, khi nghe Lâm Bưu hỏi Lập Quả “Đến Irkutsk còn bao xa?”, liền lớn tiếng hét dừng xe, lái xe phanh lại theo thói quen. Lý nhảy xuống xe, hỏi: “Các người đưa thủ trưởng đi đâu?” Lâm Lập Quả rút súng bắn luôn. Chiếc xe lại lao vút lên như điên, đến sân bay Sơn Hải Quan lúc 0 giờ 18 phút ngày 19-9-1971.
14 phút sau, chiếc Trident số 256 chở đoàn Lâm Bưu do Phan Cảnh Diễn điều khiển cất cánh bay về hướng Irkutsk, trong tình trạng không có lái phụ, hoa tiêu và nhân viên báo vụ. Sân bay điện báo cáo Lý Tác Bằng, ý thoái thác “có thể trực tiếp báo cáo Thủ tướng”. Chu Ân Lai được tin, lệnh cho Sở chỉ huy Không quân dùng đài đối không liên lạc với Phan Cảnh Diễn, yêu cầu bay trở lại, có thể hạ cánh tại sân bay Thủ đô hoặc Tây Giao. Ngô Pháp Hiến trực tiếp cầm máy liên tục gọi Phan, nhưng không thấy trả lời. Ngô gọi điện cho Uông:
- Máy bay của Lâm Bưu sẽ từ hướng Trương Gia Khẩu bay khỏi Hà Bắc, đi vào Nội Mông, có cho máy bay tiêm kích chặn lại không?
Uông báo cáo Mao, Mao nói:
- Lâm Bưu vẫn là Phó Chủ tịch Đảng ta. Trời phải mưa, con gái phải lấy chồng, cứ để ông ta bay đi.
1 giờ 50 sáng 13-9-1971, chiếc máy bay 256 vượt biên giới, bay vào vùng trời Mông Cổ. Chu Ân Lai cho ban bố lệnh cấm không: không một máy bay nào được cất cánh, nếu không có lệnh do Chủ tịch Mao Trạch Đông, Phó Chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng và Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến liên danh ký tên.
Hơn 3 giờ sáng 13-9, Bộ Tư lệnh Không quân báo cáo: chiếc máy bay lên thẳng số 3685 bay khỏi sân bay Sa Hà, trên máy bay có Chu Vũ Trì, Vu Tân Dã, Lý Vĩ Tin, lái chính Trần Vân Tu, lái phụ Trần Sĩ Ấn. Trần Vân Tu không làm theo lệnh của các thành viên Hạm đội liên hợp, cho máy bay vòng lại, hạ cánh xuống một hẻm núi ở ngoại thành Bắc Kinh. Chu Vũ Trì nổ súng bắn chết Trần Vân Tu, Trần Sĩ Ấn nằm im vờ chết. Ba thành viên Hạm đội liên hợp hẹn nhau cùng tự sát. Chu Vũ Trì và Vu Tân Dã chết ngay. Lý Vĩ Tín bắn chỉ thiên, bị bắt.
Chiều 14-9, Thủ tướng Chu nhận được báo cáo
của Đại sứ Trung Quốc tại Mông Cổ: 3 giờ sáng
13-9; chiếc máybay Trident số hiệu 256 của Hàng
không dân dụng Trung Quốc bị rơi tại tỉnh
Chentij gần Underkhan Mông Cổ, cả 9 người trên
máy bay đều chết. Sau qua giám định, được
biết 9 người trên gồm Lâm Bưu, Diệp Quần, Lâm
Lập Quả, Lưu Bái Phong, cùng phi công, lái
xe, và 3 kỹ sư cơ khí.
Các thao tác trên Tài liệu