Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Hồi Ký T. V. Giàu / HỒI KÝ TRẦN VĂN GIÀU (XI)

HỒI KÝ TRẦN VĂN GIÀU (XI)

- Trần Văn Giàu — published 24/01/2011 00:00, cập nhật lần cuối 27/02/2011 23:11
Chinh phục Bảo an binh - Đi tìm vũ khí - "Thế chiến quốc" ở Sài Gòn và Nam Kỳ



HỒI KÝ
TRẦN VĂN GIÀU

(XI)




Phần thứ tư

TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA




9) Binh vận thành công


Công tác “ binh vận ”, lạ thay là loại công tác đầu tiên nhất của tôi khi tôi mới vào Đảng Cộng sản. Năm ấy, năm 1929, ở thành phố Toulouse (miền Nam nước Pháp) tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp. Đáng lý công việc của tôi là thanh vận, sinh vận ; còn có các anh Đỗ Đình Thiện, Nguyễn Văn Dựt, Nguyễn Văn Nghĩa, Trần Thiên Tường, họ đang hoạt động trong hội tương tế của người Việt Nam. Tôi được khu ủy Đảng Cộng sản Pháp chỉ định làm công tác bất hợp pháp – dễ bị bắt bỏ tù nếu bị phát hiện là tuyên truyền cách mạng trong binh lính Việt Nam, đồn đóng trong vùng này. Miền Nam nước Pháp, khí hậu tương đối ấm, cho nên các đơn vị quân Đông Dương thường được bố trí ở miền Nam. Nói quân Đông Dương là chủ yếu nói quân Việt Nam, họ phải sẵn sàng hoặc để đàn áp các cuộc bãi công, biểu tình lớn của thợ thuyền Pháp, hoặc để đưa sang Maroc, Syrie “ dẹp loạn ” như hồi 1925,1927. Nói làm “ binh vận ”, chứ thực ra khi ấy tôi chưa có đủ trình độ chính trị để viết bài, tôi chỉ dịch ra quốc ngữ Việt Nam những bài tiếng Pháp do đồng chí Pháp viết. Dịch xong, tôi đánh máy vào bản giấy sáp rồi đem quay rônêô hàng trăm tờ, các đồng chí Pháp đem phát hành ở đâu, tôi không rõ, và kết quả tuyên truyền tới đâu tôi cũng không biết, chỉ biết rằng mỗi tờ báo “ Cờ Đỏ ” binh vận có hai bài ngắn và mấy cái tin còn ngắn hơn, hai trang thôi.


Về Sài Gòn, từ 1930 đến 1934, tôi không làm chút binh vận nào. Đến khi bị bắt, bị đày đi Côn Đảo (1935) thì tôi thấy có ba chú lính khố xanh hộ tống tôi, trong số đó có một chú cai lùn lùn, mập mập, má phị ra. Hỏi ra thì mới biết tay này là Trương Văn Giàu, người Chợ Giồng (Gò Công) không xa quê tôi, chỉ cách hai, ba làng. Ông Giàu đi giải ông Giàu ! Tôi đoán mò, đoán mò lại may là trúng, chắc cái thằng cha cai Giàu này, lính của Tây, có xa gần bà con với ông Quản Định đánh Tây ngày trước chăng ? Cùng họ Trương kia mà. Tôi bèn nói chuyện Trương Định khởi nghĩa ở Tân Hoà (Gò Công) hồi 1862. Trúng chỗ ngứa của cai Giàu rồi ; y ngồi nghe chăm chú mà không nói gì. Tôi bắt trớn tuyên truyền chống thực dân Pháp và tuyên truyền cho đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ba lính khố xanh này nói rằng hôm Tây đem tụi tôi ra toà xử án thì họ cũng thuộc toán lính đi canh gác cho phiên toà, họ đã nghe và còn nhớ những lời tôi đối đáp với toà Tây. Họ thích thú, khâm phục. Cai Giàu ước mong có ngày lại gặp tôi khi tôi mãn án. Từ chợ Tầm Vu qua Chợ Giồng cũng gần thôi. Năm năm sau (năm 1940), ông Giàu (tù nhân Tà Lài) lại gặp quản Giàu theo toán lính dẫn tù lên căng. Đúng là duyên nợ rồi ! Thế là tôi bắt được một cái mối quan trọng ở trong cơ binh khố xanh, tên gọi là “ Binh đoàn lưu động Gia Định ”. Không biết ông quản Trương Văn Giàu nói chuyện gì với các ông quản, thầy đội, chú cai xung quanh ông ở binh đoàn lưu động, rồi họ đồn đi đồn lại với nhau thế nào, mà mỗi kỳ đổi phiên, các anh ở binh đoàn đều kiếm tôi nói chuyện, nhất là sau khi Pháp bại trận đã đầu hàng Đức (tháng 7 năm 1940). Thực ra thì tụi tôi tìm đến các anh em ấy nhiều hơn. Tụi tôi đều là cán bộ làm dân vận hơi rành, dân vận gần như thành tập quán của chúng tôi, song ở cái đất căng Tà Lài, chỉ có một nhà người Thượng mà sự giao tiếp của chúng tôi có tính chất “ vụ lợi ” trước hết : nhờ y đi mua gà, mua rượu hay bất kỳ món gì lặt vặt. Rốt cùng, chỉ còn có trung đội lính khố xanh để mà tuyên truyền, với cả hai, ba thằng Tây, mấy thằng Tây này từ ngày Pháp bị Đức chiếm đóng thì cũng hay xuống trại tìm Văn với tôi để đàm đạo về tương lai, về chiều hướng của chiến tranh thế giới.


Làm cái nghề tuyên truyền này giống như cày ruộng khô rồi sạ lúa. Lúa sạ có thể bị chuột nhấm chim mổ một phần ; nhưng dưới đất xới vẫn còn phần nhiều những hạt no tròn, chờ ít đám mưa giông đổ nước trời xuống thì hạt lúa mọc nanh, lên lá, trông mỗi ngày thì không thấy lớn, đi đâu một vài tuần trở lại thì đồng ruộng đã xanh um.


Ở căng Tà Lài, tụi tôi làm binh vận ráo riết và có thể khoe là rất giỏi. Tôi đã có dịp kể lại việc đó ở chương I. Nói thật là cũng nhờ Tây : tụi nó nghi rằng chúng tôi cố làm binh vận, nên mỗi tuần chúng thay một bán đội hay một tiểu đội. Té ra, cả binh đoàn lưu động Chí Hoà - Gia Định đều luân phiên lên Tà Lài để chúng tôi tuyên truyền cách mạng. Rõ là nhiều khi cái ngốc của kẻ địch làm cái hay của mình.


Năm 1943, tôi từ rừng U Minh trở về Sài Gòn, tự nhiên tôi tìm cách nối lại liên lạc với Trương Văn Giàu và các bạn của anh ta. Lúc này ở Sài Gòn tụi Tây nó lập hai binh đoàn khố xanh : binh đoàn lưu động Gia Định (Brigade mobile de Gia Dinh) ; và binh đoàn phụ thuộc sở Sen Đầm Chợ Lớn (Brigade auxiliaire de la Gendarmerie de Cho Lon). Nghe nói cả hai đơn vị này cộng lại đến hơn hai ngàn, gần ba ngàn lính.


Làm đảo chính rồi, Nhật giữ nguyên số lính khố xanh này, từ nay gọi là Bảo an binh, bắt hết tụi Tây sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp, giao quyền cho mấy ông quản người Việt Nam, trong số cầm đầu Bảo an binh đó thì Trương Văn Giàu đóng vai nhứt nhì.


Một hôm, sau đảo chính 9 tháng 3 vài tuần, Bảy Trân và tôi ngồi bàn chuyện thời sự trên gác của nhà in Phú Hữu (gần chợ Sài Gòn), có người nhà chạy lên báo : hai người Nhật đến đứng trước cửa !


– Nhật hay ta ?


– Có lẽ Nhật, họ mang gươm dài.


– Để xem.


Ngó xuống, thấy đó là Trương Văn Giàu và một thầy đội (chú Bội, em vợ của chủ nhà in Nguyễn Phú Hữu).


– Đi đâu, làm gì mà để thợ thầy người ta hết hồn vậy ?


Trương Văn Giàu đứng nghiêm chào, nói : Đại biểu cho nhiều anh em, chúng tôi đi thăm ông.


Từ nay, Bảy Trân, Thạch cùng tôi phụ trách binh vận có nhiệm vụ chuyển hai binh đoàn cơ động bảo an thành lực lượng vũ trang mà Đảng có thể sử dụng trong khởi nghĩa sắp tới. Không chủ quan, tụi tôi nhận thấy rằng chắc chắn sẽ có sự chuyển biến tốt đó ; Pháp thì không còn nữa, Nhật thì không nắm được, nó sắp thua rồi, không ai lại đi phò một ông vua phi nghĩa sắp mất ngôi ; bù nhìn thì không có uy tín, triển vọng gì hết. Tương lai trước mắt thuộc về cách mạng do Đảng lãnh đạo. Bên Nga hồi cách mạng tháng Mười, Đảng Bôn-sơ-vích và Lenin đã từng nắm được những đơn vị bộ binh và hải quân quan trọng. Ta đây rồi cũng làm được như vậy. Khẩu hiệu công nông binh liên hiệp, Đảng ta đã nêu lên từ khi Đảng mới ra đời và thế hệ đồng chí nào cũng ra sức làm binh vận hết, đều đã “ sạ lúa ”. Vả lại, bọn tôi qua mấy ông quản, thầy đội mà làm binh vận thì thành công mau lẹ, gần y như bọn tôi qua các giáo sư mà vận động sinh viên, học sinh trung học và chuyên nghiệp vậy.


Đến tháng 6, tháng 7 thì Trân, Thạch và tôi đã có thể vào các trại Bảo an binh để nói chuyện với lính và hàng cai, đội, đội quản. Lần lượt không phải chỉ có Bảo an binh Gia Định, Chí Hoà, Chợ Lớn theo Đảng Cộng sản, theo Mặt trận Việt Minh, mà luôn cả Bảo an binh ở tất cả hai mươi tỉnh Nam Kỳ, không trừ một tỉnh nào, đều đi về với cách mạng, khi nổ ra tổng khởi nghĩa. Được như vậy, chủ yếu không phải nhờ tài ba đặc biệt gì của tụi tôi đâu, mà nhờ kết quả công tác của nhiều thế hệ trước, trước hết là nhờ Hồng quân Liên Xô đại thắng, lại nhờ Đảng đã tạo nên một cao trào yêu nước, cứu nước của nhân dân rộng lớn, có sức hút đa số đồng bào (gồm cả binh lính) vào cuộc chiến đấu chung ; nếu Đảng không huy động nổi một cao trào nhân dân sâu sắc (gồm công, nông, thanh) và rộng lớn (gồm đủ các tỉnh), thì thật cũng khó vận động cho được những đơn vị lính lớn, làm cho cả đại đa số (có thể nói là toàn bộ) Bảo an binh các tỉnh đi về với cách mạng.


Trong số các anh em Bảo an binh đã góp phần quan trọng vào sự thành công của binh vận của Đảng hồi 1945, hãy ghi nhớ tên tuổi các anh Trương Văn Giàu (Sài Gòn), người lập công đầu ; Nguyễn Văn Thiện (Gia Định), Nguyễn Văn Xuyên (Chợ Lớn), Oanh (Tân An), Thế (Biên Hoà), Hiển (Mỹ Tho), Đoàn Hồng Phước (Gò Công), Lê Văn Lâm (Thủ Dầu Một), v.v… hầu hết họ đều trở thành chiến sĩ, sĩ quan, cán bộ quân sự và chính trị của cách mạng. Trong cuộc cách mạng tháng Tám ở Nam Kỳ, không có một tỉnh thành nào mà Bảo an binh chống lại khởi nghĩa cả ; ngụy quyền không điều động được một đơn vị nhỏ nào để chống lại khởi nghĩa cả, chắc lẻ tẻ cũng có phần tử chống đối hay không tán thành, nhưng họ đều bị cô lập, không ra mặt chống đối.


Bọn tôi còn chú ý, tuy không nhiều lắm, đến việc vận động lính cảnh sát, trong cảnh sát có lính cứu hoả (trong cứu hoả có anh Giỏi làm việc rất giỏi, thu phục được đại đa số anh em, đưa họ ra chiến đấu). Tôi nhớ rằng, sau 9 tháng 3, Nhật giao quyền tổ chức và chỉ huy cảnh sát địa phương cho một số người thuộc một đảng thân Nhật. Những người này, lo xa, quyết định thải hồi một số cảnh sát cũ thời Pháp và chiêu mộ một số cảnh sát mới trong thanh niên có chút học thức. Họ mở lớp huấn luyện chính trị cho cảnh sát mới và cũ. Trong việc huấn luyện này, họ lại nhờ anh em sinh viên “ xếp bút nghiên ” đã hay đang theo lớp huấn luyện “ các vấn đề cách mạng Đông Dương ” của tôi. Vấn đề được đặt ra là có nên nhảy vào đây không ? Tôi cho là nên, là cần, là một dịp hiếm có. Người ta đưa thanh niên tới cho mình tuyên truyền mà mình từ chối là vô lý. Sao không có thể cảm hoá ít nhất là một phần, số thanh niên sắp làm nghề cảnh sát, một cái nghề đụng chạm với các cuộc đấu tranh của quần chúng. Tụi cầm quyền đế quốc hay bù nhìn thì muốn cho cảnh sát chống lại nhân dân. Ta thì muốn cho cảnh sát đồng tình với nhân dân. Vậy cứ nhận cái việc huấn luyện chính trị cho cảnh sát mới là phải, huống chi chương trình huấn luyện do huấn luyện viên – tức là người của ta – quyết định chứ không phải để thằng Nhật quyết định. Thật ra thì thằng Nhật không chú ý lắm vì nó đã có sở Kempeitai mạnh của nó rồi. Tôi đồng ý cho Huỳnh Văn Tiểng và mấy chú nữa đi dạy chính trị và văn hoá cho lớp học cảnh sát Sài Gòn. Lớp này đông người học. Và như dự đoán, số đông họ sẽ ngả về cách mạng ; ngả về cách mạng mạnh nhất là phe cứu hoả ; cảnh sát cứu hoả Sài Gòn sẽ là một đơn vị chiến đấu can đảm.


Còn một thứ lính người Việt do Nhật chiêu mộ, tổ chức, huấn luyện, trang bị sau 9 tháng 3 : lính gọi là Hai Hô 1. Hai Hô từa tựa như “ lính thủy đánh bộ ”. Họ được biên chế thành từng tiểu đoàn riêng lẻ, do sĩ quan Nhật trực tiếp chỉ huy. Binh vận của Đảng trong Hai Hô nhằm chống lại chủ nghĩa Đại Đông Á, nhằm làm tan rã các đơn vị xem như là đánh thuê đó. Bọn tôi mới hoạt động được chút ít thôi. Khi Nhật đầu hàng một số lính Hai Hô đi với nhóm “ Huỳnh Long ” rồi tan rã ; nhưng cũng có những sĩ quan (hay học viên sĩ quan) và binh lính đi về với cách mạng, theo Đảng như các anh Sĩ, Phương, Tiến, họ trở thành cán bộ quân sự hay cán bộ tuyên truyền của kháng chiến. Không có Hai Hô bênh vực nguỵ quyền Sâm, Ngà.




10) Tuyệt đại đa số nông dân xung quanh Sài Gòn
vẫn đứng dưới cờ Đảng Cộng sản như trước nay



Xứ ủy và Thành uỷ tin tưởng vào lực lượng nông dân và nhân dân xung quanh Sài Gòn, tin tưởng vào cái “ vành đai đỏ ” nổi tiếng. Tôi nắm chắc lịch sử địa phương, từ cuộc khởi nghĩa 1885 đến cuộc khởi nghĩa 1940, qua các cuộc khởi nghĩa 1913, 1916 ; qua những phong trào nhân dân 1925, 1926, đặc biệt là phong trào cách mạng 1930, 1931 ; 1936, 1937, (những năm này quân khởi nghĩa, dân biểu tình phần lớn là từ ngoại thành vào nội thành cả ngàn, cả vạn ; trước sau cái truyền thống đó được giữ gìn và phát triển) ; cho nên tôi vững tâm giao việc vận động quần chúng ở hai tỉnh Gia Định và Chợ Lớn cho hai Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Chợ Lớn do anh Hoành làm bí thư, Tỉnh uỷ Gia Định do anh Khung làm bí thư (Khung là thợ Ba Son, cùng ở căng Tà Lài với tôi, Hoành là nông dân bản địa có mặt trong khởi nghĩa 1940 ở tỉnh nhà). Tin thì tin lắm. Nhưng tôi cũng có cách kiểm tra, tin chắc nhất khi nào tận mắt tôi thấy, tận tai tôi nghe những cuộc biểu tình, thị uy tuần hành và các khẩu hiệu được hô lên từ quần chúng đông đảo.


Tôi nhớ đâu là hồi tháng 7, sau cuộc tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong tại vườn Ông Thượng 2, chúng tôi nhờ Tỉnh ủy Chợ Lớn tổ chức một cuộc tập hợp nhân dân Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn, dưới danh nghĩa Thanh niên Tiền phong ; tập hợp ở Chợ Đệm, căn cứ chính trị của bọn tôi, quê nhà của Bảy Trân. Chỉ kêu gọi dân ở Tam Tân và ở ven đường số 4, vậy mà hôm đó tập hợp được hơn mười ngàn người, chật nít trong ngoài nhà máy xay của ông Võ Lợi Trinh. Nhà máy xay này lớn nhất nhì trong tỉnh. Bản thân nhà doanh nghiệp Võ Lợi Trinh cũng thuộc ban lãnh đạo Thanh niên Tiền phong Chợ Lớn. Người ta thấy trên bàn chủ tịch đoàn có kỹ sư Kha Vạng Cân, thị trưởng thị xã Chợ Lớn, đồng thời là một thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong. Các diễn giả quen thuộc với đồng bào từ hồi Ủy ban hành động, Đông Dương Đại hội (1936), nói không hạn chế, không phải dè dặt gì hết. Về tình hình chiến tranh thế giới, về tình hình Việt Nam, về cách mạng giải phóng dân tộc, về nhiệm vụ cần kíp giành độc lập, thống nhất, tự do. Họ được hoan hô như sấm dậy. Chủ toạ cuộc mít tinh, kỹ sư Cân nói với mấy người ngồi hai bên : “ Giống y như hồi 1930 hay 1936 ”. Mà xem chừng anh ấy đã chẳng e ngại gì lại còn tự hào về Thanh niên Tiền phong của anh. Trân và tôi đi vòng ngoài xem người ta, nghe dân nói chuyện để đánh giá ý thức chính trị của quần chúng, đánh giá khí thế của nhân dân. Không phải chỉ ở Trung Huyện (là huyện sát thành phố) mà ở huyện nào của tỉnh Chợ Lớn cũng vậy : Cần Giuộc, Cần Đước, Đức Hoà đều có tập hợp biểu tình lớn.


Ở Gò Vấp các anh Khung, Chiêu (và cả ông chủ quận đương quyền lúc ấy) cũng tổ chức mít tinh biểu tình rất thành công, tập hợp hàng ngàn, hàng vạn người. Ở các huyện khác phong trào lên đều.


Chúng tôi tin chắc trăm phần trăm là cái “ vành đai đỏ ” nổi tiếng của Sài Gòn bây giờ vẫn đỏ như trước và đỏ hơn lúc nào hết ; khi cần, có thể nhanh chóng đưa từ ba trăm ngàn đến bốn trăm ngàn dân của Chợ Lớn, Gia Định biểu tình võ trang vào thành phố, tiếp ứng với công nhân, thanh niên và binh lính. Chắc chắn như hai cộng hai bằng bốn. Nếu cần thì sẽ huy động nhân dân ở nam Biên Hoà, nam Thủ Dầu Một và bắc Tân An nữa, đường đi 30, 35 cây số có xa xôi gì, đêm đi thì sáng tới.



11) Tìm súng đạn cho các đội xung phong
của công nhân và thanh niên



Đây là vấn đề “ đau đầu ” nhất, nhưng giải quyết cũng không khó lắm.


Trong Nam Kỳ chúng tôi không có chủ trương làm chiến tranh du kích ; nhưng cho dầu không đánh du kích cũng phải có vũ khí thì mới khởi nghĩa thành công. Chúng tôi tính làm khởi nghĩa kiểu cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, không tính làm theo kiểu cách mạng Tàu. Vài năm nay, nhất là từ đầu năm 1945, chúng tôi tập trung nghị lực và trí tuệ vào việc xây dựng một “ đạo quân chính trị ” lớn. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân ; riêng lực lượng của Đảng không làm nổi cách mạng ; phải có sự tham gia, nổi dậy của hàng triệu đồng bào. Nhưng tay không thì dù đông mấy cũng không giành chính quyền được trong khi các lực lượng chống lại cách mạng có đầy đủ vũ trang. Vậy phải gấp rút chuẩn bị vũ trang cho ta.


Vũ trang thì có hai thứ : Vũ khí thô sơ thì dễ kiếm, ai cũng có thể có như mác thông, tầm vông, vạt nhọn, đao kiếm, mũi chĩa, xà búp, phảng kéo ngay ra, nhân dân tự vũ trang lấy. Thứ này coi vậy mà cần lắm, không phải vô ích đâu, xem thường không được. Nhưng, ở cái thời kỳ kỹ thuật máy móc này, rõ ràng quả là những vũ khí thắng quân Tống, đánh Nguyên, đánh Minh, diệt Thanh không đủ nữa. Cần phải có súng đạn càng nhiều càng tốt để trang bị cho các lực lượng xung kích, cần có tinh thần cao mà cũng phải biết sử dụng mấy loại súng nhỏ hiện đại. Khỏi cần phải bàn cãi.


Lấy đâu ra súng đạn đó mới là vấn đề.


1) Xin, mua, giật, đánh cắp của Nhật ; ở đâu cũng làm, người nào cũng làm ; lẻ tẻ làm, mà cũng làm có tổ chức ; kết quả không đến đỗi quá ít. Lặn mò dưới sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, kiếm cũng được khá nhiều ; Pháp rồi Nhật đều có ném vũ khí xuống cho Bà Thủy cất dùm.


2) Đào mấy hầm súng đạn ta chôn hồi 1940,1941 : chẳng còn gì ráo, rỉ sét hết sạch, không dùng được. Nhưng đào lấy những hầm súng mà Pháp nó giấu trước ngày 9 tháng 3, thì kết quả khá, súng đạn còn tốt vì bọn Pháp biết bảo quản, giấu có kỹ thuật và cũng mới giấu đó thôi, mấy tháng trước đảo chính.


3) Mở kho của Pháp còn lại sau đảo chính. Lấy cơ quan của Nhật do người Việt Nam quản lý.


Việc Phạm Ngọc Thạch kiếm súng đạn có kết quả lớn nhất mà không ly kỳ bằng việc Thanh niên đi “ ăn cắp ”, bí mật hoặc công khai. Hãy kể một số vụ :


1. Lợi dụng sự lơ đễnh và sự tín nhiệm của Hồ Vĩnh Ký và Huỳnh Văn Phương (chánh và phó giám đốc Sở Công an mật thám Nam Kỳ dưới quyền thống đốc Nhật Minoda), Thanh niên Tiền phong lấy ở bót Catinat non già 200 khẩu rulô Mauser nhưng không có nhiều đạn.


2. Ta lấy ở Bộ Tư lệnh Hải quân (bến Chương Dương sau này) gồm 30 hòm súng lục và nhiều lựu đạn.


3. “ Chơi tay trên ” với Nhật, những anh em Thanh niên có dự vào việc lấy khẩu cung mấy thằng cò Tây bị Nhật bắt (tụi này khai những chỗ chôn súng đạn trước ngày 9 tháng 3), ta liền tổ chức mấy chuyến đi đào cấp tốc, đến khi quân Nhật đi đào thì thấy đã có ai đào trước rồi, tụi Nhật phải về tay không, tức mình lại cho đám cò Tây thêm mấy trận đòn đáng kiếp. Bằng kiểu “ chơi tay trên ” đó, trong tháng 7 (1945), ta lấy được ở Thủ Thừa, (tỉnh Tân An, cửa ngõ Đồng Tháp Mười, chính nơi tôi định lập một chiến khu) 350 khẩu súng mút với 2.000 trái lựu đạn. Ta lấy ở Bến Súc (tỉnh Thủ Dầu Một, cửa ngõ của rừng Đông Nam Kỳ) một số súng cũng bằng số súng lấy ở Thủ Thừa. Và ta lấy ở nhà một cô đầm, đường Frostin 3, 60 khẩu mút, súng lục, và nhiều đạn. Nực cười là “ đáng lý ” các đảng thân Nhật được những của quý này, nhưng lại là ta ! (Sau rồi, vài ba ngày sau khi khởi nghĩa giành chính quyền tôi mới có đủ bằng cớ rằng nhóm Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn Phương cũng đã lợi dụng cái thế chánh, phó giám đốc Công an mật thám để thu tóm một số súng đạn đáng kể mà họ tính dùng vào việc chống đối chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mà họ gọi là chính quyền Kerensky).


4. Ly kỳ nhất trong cái vụ “ ăn cắp ” súng ở Sài Gòn là vụ lấy 380 khẩu tiểu liên Sten (rất ít đạn), 15 cây trung liên (càng ít đạn) và 2.000 trái lựu đạn ở kho gọi là Pyrotechnie, gần đầu cầu Thị Nghè, mút đường Chasseloup 4, ngó qua Sở Thú 5. Anh em Thanh niên, trong đó có Huỳnh Văn Tiểng làm kế “ nội ứng ngoại công ”, khoét tường thành, từ ngoài vào khuân vũ khí ở trong đưa ra. Hôm sau Tiểng đi họp, đầu bị băng như để tang ! Tụi Thanh niên có “ vốn ” cũng dám chia một mớ cho công nhân. “ Bồ ” với nhau mà !


5. Thương lượng với Nhật liền sau khi Nhật đầu hàng để nó “ nhả ” một số súng đạn, ít nhất là súng đạn mà chúng đã lấy của Pháp ngày 9 tháng 3.


Công đầu trong việc thương lượng với kẻ thù đã đầu hàng để lấy súng đạn thuộc về Phạm Ngọc Thạch có Ngô Tấn Nhơn giúp. Làm việc này, Thạch không tự ý mà có xin chỉ thị của Xứ ủy và sau khi đã thảo luận riêng với tôi. Có thảo luận với tôi, có sự đồng ý của tôi, nhưng nếu không có một người dám nghĩ, dám làm và có uy tín xã hội lớn như Phạm Ngọc Thạch thì cũng không ai làm được.


Khi Chính phủ Nhật đã tuyên bố hạ khí giới không điều kiện, miễn là ngôi báu của Thiên Hoàng tồn tại, thì ở Sài Gòn, nhiều sĩ quan Nhật làm harakiri, mổ bụng quyên sinh, số khác khóc lóc, đau khổ, hoặc lấy rượu mạnh giải phá thành sầu. Quân Nhật ở Đông Dương chưa đánh trận nào với Mỹ trên đất này : bấy lâu nay họ tưởng đâu còn có dịp đánh một trận cuối cùng hết sức đẫm máu, một trận quyết định, xáp lá cà khi quân Mỹ hoặc đổ bộ lên Trung Kỳ của Việt Nam, hoặc đổ bộ lên quần đảo Nhật Bản. Nhưng thực tế lịch sử không diễn ra như vậy. Mỹ không đổ bộ lên Đông Dương, cũng không đổ bộ lên quần đảo Nhật mà Đông Kinh đã đầu hàng, sau khi Mỹ ném bom nguyên tử và đại quân của Liên Xô tiến đánh quân Nhật ở Mãn Châu. Trước, người Nhật hy vọng và hùng hổ bao nhiêu, thì bây giờ, họ thất vọng và tiêu điều bấy nhiêu. Phạm Ngọc Thạch, tụi tôi định sử dụng cái tâm lý đó để làm lợi ích cho cách mạng Việt Nam. Thạch, và đi với Thạch là Ngô Tấn Nhơn, đến xin gặp thống chế Terauchi, tổng tư lệnh quân Nhật ở Đông Nam Á. Gặp được. Khi người ta thất thế rồi, mất cái oai phong rồi, thì người ta “ dễ ” hơn trước. Nhưng Thạch trân trọng “ phân ưu ” với ông thống chế, đồng thời nói thẳng với Terauchi :


Nhật bại trận rồi ; người Việt Nam không còn lý do gì để chống Nhật ; trái lại, kẻ thù của ông hôm qua (đế quốc phương Tây) là kẻ thù của người Việt Nam ngày nay và ngày mai, Việt Nam quyết tiếp tục cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Rồi đây, đế quốc Anh, Pháp, Mỹ sẽ sớm vào Đông Dương, sẽ ra sức gác lại ách đô hộ cũ trên cổ của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam sẽ ra sức đánh bại chúng nó để bảo vệ độc lập tự do. Nay chúng tôi thay mặt Thanh niên Tiền phong, cũng là thay mặt tất cả những người yêu nước ở miền Nam Việt Nam, yêu cầu ông hai điều :


- Điều thứ nhất là chúng tôi yêu cầu quân đội Nhật đừng can thiệp vào việc nội bộ của người Việt Nam, của nước Việt Nam đang ở trong thời kỳ biến động lớn.


- Điều thứ hai là chúng tôi cần súng đạn chống đế quốc thực dân, chúng nó sắp trở lại Đông Dương, chúng tôi không yêu cầu quân đội Nhật ở Sài Gòn tiếp sức, chỉ yêu cầu quân đội Nhật giao lại cho chúng tôi súng đạn mà Nhật đã lấy của Pháp, và một phần súng đạn của Nhật mà nay mai Nhật phải bị tước đi ; những vũ khí đó, chúng tôi xem là mình có quyền và có lý được tiếp nhận, sử dụng. Lẽ nào quân đội Nhật lại giao hết những vũ khí đó cho Anh, Mỹ, Pháp là bọn thực dân xâm lược mà không trao trả cho người Việt Nam chống xâm lược ? Thống chế nghĩ sao ? ”.


Thống chế Terauchi như muốn khóc. Ông suy nghĩ một phút rồi ông trả lời cho Thạch và Nhơn :


Tôi là sĩ quan của quân đội Nhật có kỷ luật. Tôi chỉ có thể làm theo lệnh của Đông Kinh. Tôi không thể giao nạp súng đạn Nhật cho những người yêu nước Việt Nam được, nhưng có thể giao nạp súng đạn Pháp cho các ông, xem như đó là tài sản hợp pháp lý của Việt Nam. Đó là điều thứ hai mà ông bác sĩ yêu cầu. Còn điều thứ nhất thì : chắc chắn là trong tình cảnh bại trận, sắp bị giải giáp đưa về Nhật, quân Nhật sẽ không can thiệp làm gì vào nội bộ của Việt Nam. Còn riêng tôi thì nay mai tôi sẽ bị treo cổ. Tụi nó không giết tôi thì tôi cũng sẽ tự kết liễu cuộc đời. Thua thì chết, tất nhiên. Tôi chúc ông và các bạn của ông những điều may mắn nhất ”.


Phạm Ngọc Thạch và Ngô Tấn Nhơn từ giã ra về, thì bất ngờ Têrauchi lễ phép trao cho Thạch hai món vũ khí tượng trưng : một con dao găm sáng ngời, cán bằng sừng đen, sắc nhọn, dài chừng hơn hai tấc và một cây súng lục cỡ 6/35 bịt bạc ở cán. Terauchi nói : “ Bác sĩ và kỹ sư hãy xem đây là tượng trưng cái ý tôi muốn nộp vũ khí cho dân tộc Việt Nam để chống bọn da trắng chứ không phải nộp cho kẻ thù đã ném bom nguyên tử xuống nước Nhật của tôi ”.


Thạch cảm động nhận dao và súng – hai món vũ khí “ tư trang ” của sĩ quan cao cấp để tự sát khi cần thiết mà không để bị địch bắt làm tù binh.


Thạch thành công trong cuộc thương thuyết tế nhị, tưởng là khó, té ra là dễ. Anh đem hai món vũ khí về giao lại cho tôi. Hàng chục anh em chứng kiến. Tiểng cứ săm soi mãi, muốn chia của làm kỷ niệm (như lời Tiểng thường nói : kỷ niệm Nhật đầu hàng Việt Nam). Chú Nguyễn An Tịnh, con trai của Nguyễn An Ninh, bấy giờ còn là thằng nhóc săm soi hai món vũ khí cứ xin mãi. Tôi không xem rẻ hai món “ đồ chơi ”, súng để bắt ghen, dao để xẻ bưởi ; quan trọng ở chỗ khác, nhưng khi ấy tôi không có một chút ý thức nào về giá trị bảo tàng của hai vật. Cuối tháng 10, khi tôi phải rời chiến trường thì tôi để lại Tổng hành dinh ở Chợ Đệm hai món kỷ niệm kia, không biết chúng nó về tay ai, nhưng chắc chắn là không phải về tay của những ai biết của, biết người.


Còn sau đây là nội dung bản báo cáo của Trương Văn Giàu gửi cho tôi ngay sau khi anh ấy nhận được số súng đạn Pháp mà Terauchi hứa hẹn (bản này Trương Văn Giàu cũng có ghi trong lý lịch của anh, mà chắc quân đội còn giữ) :


- 2.000 (hai ngàn) khẩu mút cơ tông.


- 10.000.000 (mười triệu) viên đạn


- Súng hỏng hơi nhiều, đạn lép không ít.


Xứ ủy và Thành ủy đã ra lệnh cho bên Tổng Công đoàn, cho bản thân Nguyễn Lưu lập tức chọn 1.500 đoàn viên công đoàn đưa vào quân ngũ. Một số súng đạn được giao thẳng cho Tổng Công đoàn. Lúc này Tổng Công đoàn (và Thanh niên Tiền phong) đã sử dụng bãi tập cảnh sát để huấn luyện quân sự cho từ 3.000 đến 5.000 người mỗi đợt.


Được một lần đến 2.000 khẩu súng, 10 triệu viên đạn, tôi mừng mà cũng lo, lo lắm. Tiểng hỏi tại sao lo ? Tôi nói thật : bọn Pháp riêng ở Nam Kỳ, nếu tính mỗi lính một cây súng thì phải có ít nhất 20.000 khẩu. Hôm 9 tháng 3, nghe nói trong số tụi Pháp bị bắt giam có 17.000 quân Pháp. Vậy còn hơn 15.000 khẩu súng nữa ở đâu ? Về ai ? Nhật đã trao bao nhiêu súng đạn cho các đảng thân Nhật, cho các giáo phái thân Nhật ? Những tổ chức lâu nay thân Nhật, cố nhiên là liền sau khi Nhật hạ khí giới, họ cũng đã yêu cầu, cũng đã tìm cách có súng đạn, súng đạn chỉ có thể là súng đạn Pháp là chính. Mối lo lớn của tôi là ở đó. Tiểng cho là phải, nhưng Tiểng khẳng định rằng ngay cả quân đội Cao Đài cũng không có nhiều súng đạn lắm đâu ! Ai biết chắc ?




12) Tương quan lực lượng
ở Sài Gòn giữa tháng Tám



So sánh lực lượng – khi ấy gọi là “ tương quan lực lượng ” – là một vấn đề mà ở thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, ta phải xem kỹ như người thợ máy xem cây kim áp lực trên bàn cầm lái. Chỗ hơn thua, sống chết, thành bại không thể coi thường.


So sánh các lực lượng chính trị ở Sài Gòn và ở Nam Kỳ vào nửa đầu tháng Tám năm 1945, tôi rất mừng và nhận thấy rằng những mục tiêu về lực lượng so sánh mà Xứ ủy và Thành ủy đặt ra, thoạt tiên tưởng đâu là chủ quan, quá cao, không thực hiện nổi, thì bây giờ trở thành sự thật, sự thật trông thấy, rờ được. Hồi đầu năm, khi đặt mục tiêu về lực lượng so sánh (tức là ở Nam Kỳ, toàn bộ Nam Kỳ, phải làm sao cho Đảng và mặt trận trở thành đoàn thể mạnh nhất, lớn nhất, tất nhiên là có tổ chức chặt chẽ và kỷ luật nghiêm túc nhất, còn ở Sài Gòn, trung tâm kinh tế chính trị số một của Nam Kỳ, thì Đảng và Mặt trận phải mạnh hơn tất cả các đảng phái cộng lại). Bọn tôi không phải không biết rằng đó là việc khó, rất khó, phải thực hiện những bước nhảy vọt liên tục mới được. Đặt mục tiêu thì căn cứ vào đâu ? Hiển nhiên là không thể chỉ căn cứ vào ý muốn riêng của mình. Có ý muốn của mình, một ý muốn vĩ đại : làm cuộc khởi nghĩa thành công, giành lại độc lập cho nước nhà, tự do cho đồng bào, danh dự cho dân tộc ; ý muốn vĩ đại tất phải sanh ra nghị lực vĩ đại. Song không đủ. Chúng tôi còn căn cứ vào cái “ vốn ” sức mạnh đã có : Đảng bộ Nam Kỳ lập lại được cơ sở và hệ thống, Tổng Công đoàn kể cũng khá đông, ảnh hưởng chính trị to lớn mà Đảng đã tích luỹ từ ngày thành lập đến giờ, và đặc biệt quan trọng, là cái thế của cách mạng. Thế đó rất lớn : Thế tiến công, chiến thắng của Liên Xô (và của Đồng Minh), và thế thất bại mau chóng và không tránh khỏi của Đức, kế đó của Nhật, mà Đảng và Mặt trật từ mấy năm nay chống lại trục phát xít quân phiệt Đức-Ý-Nhật, nên được uy tín cao của người đoán trước đúng, lại phải kể đến cái thế càng ngày càng xìu, càng ngày càng bết của các chánh đảng và giáo phái thân Nhật ; tất cả những điều mà lãnh tụ của họ, cán bộ của họ đã nói từ mấy năm nay, nay hoá ra sai, là láo hết, họ mất hết uy tín. Quần chúng tự kinh nghiệm mà thức tỉnh. Do có cái thế đó mà ta có nhiều khả năng xây dựng lực lượng thật nhanh. Không có gì là chủ quan. Không có gì là “ ý chí chủ nghĩa ”. Ở đời, nhất là trong đời hoạt động chính trị, lắm khi phải táo bạo, táo bạo có tính toán. Tôi nhớ Lenin khen Danton là nhà chiến lược tài ba của cuộc đại cách mạng Pháp 1789 với lời hô hào bất hủ : “ Phải táo bạo, táo bạo hơn nữa, luôn luôn táo bạo ! ” (De l’audace, encore de l’audace, toujours de l’audace !).


Trong cuộc “ chạy đua với thời gian ” (“ chạy đua với đồng hồ ”) chúng tôi đạt thắng lợi mong muốn. Nhiều đồng chí nói chơi : “ Nhờ thời trời ! ”. “ Trời ” đây là thời thế khách quan như vừa nói. Cho nên, tôi cũng lại nói chơi “ có trời mà cũng có ta ”, được vậy là do nỗ lực phi thường của tất cả các đồng chí. Vui thật, trong cách mạng mà nhớ truyện Kiều ; thú thật ! Những cái vui thú nho nhỏ này làm giảm bớt căng thẳng của tâm hồn.


Nói so sánh lực lượng ở đây, lúc này (tháng 8 năm 1945), theo quan niệm bọn tôi không phải là so sánh lực lượng ta với lực lượng Nhật. Nhật đang thua và sắp đầu hàng. Nó đầu hàng rồi thì nó không còn là đối tượng đánh đổ của cách mạng nữa. (Nhận định và lập luận này rất quan trọng đối với chúng tôi, một lập luận có khác với lập luận của một số đồng chí khác chủ trương tiến đánh đồn trại của Nhật, thừa khi Nhật đầu hàng). Vả lại, cho dù nó thua to ở các đảo Thái Bình Dương và bị dội bom cực kỳ dữ dội trên đất Nhật, ở Đông Dương (và nói chung trên lục địa Á Châu) chúng còn thừa sức ngăn chặn ta, đánh lui và tiêu diệt một phần lực lượng vũ trang non yếu của ta nếu ta tiến công vào đồn trại của chúng ; nếu ta xem việc đánh đồn trại của Nhật là việc chính của khởi nghĩa cách mạng sau khi Nhật đã hạ khí giới, đầu hàng Đồng Minh rồi, thì khởi nghĩa cách mạng sẽ không thành công được. So với Nhật đã thua trận, ta vẫn yếu hơn rất nhiều, rất nhiều. Không so sánh lực lượng như vậy được. Nói so sánh lực lượng ở đây, lúc này, là so sánh lực lượng của ta với lực lượng của các chánh đảng và giáo phái thân Nhật, thân Pháp lâu nay ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn. Chúng ta thấy :


- Đảng quốc gia độc lập (xem như Đảng cầm quyền khi Nhật sắp giao hay đã giao trả Nam Kỳ cho Nam Triều) là một đảng không có chân đứng ; bên trên thì nó gồm mấy nhóm trí thức rời rạc, mất tin tưởng, mất tinh thần, đang tìm cách tháo lui “ có trật tự ” ; bên dưới, nó chẳng có quần chúng nhân dân. Chỗ dựa “ dân sự ” của nó cho tới nay là bộ máy cai trị của Pháp được Nhật duy trì, nhưng bộ máy này từ sau 9 tháng 3 đã rệu rã lắm, mất hiệu lực, từ xã ấp đến quận tỉnh, bộ máy này đã có nhiều dịp, nhiều cớ để khiếp sợ nhân dân sắp nổi dậy. Chỗ dựa quân sự của chúng là Bảo an binh thì hầu hết (nếu không phải là tất cả) đã ngả về nhân dân yêu nước, về cách mạng rồi ; lực lượng cảnh sát thì mỏng, không tin được, cũng ngả nghiêng về phía ta, họ chẳng có một sư, một lữ, một trung đoàn, một tiểu đoàn, một đại đội nào để mà dựa, chính quyền bù nhìn Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm giống như một cái hàng rào mục, hễ bị xô là đổ nhào.


- Đạo Cao Đài phái Trần Quang Vinh thì tín đồ còn đông. Nghe nói tất cả các phái Cao Đài cộng lại có đến vài triệu. Vài triệu đó là kể cả nam phụ lão ấu. Mà đã có vài ba phái Cao Đài đang nghiêng về phía Mặt trận Việt Minh rồi (theo báo cáo của Tào Tỵ thì ở Bạc Liêu, phái Cao Đài hiệp nhất của Cao Triều Phát từ bấy lâu nay đã hứa hẹn đi với ta, còn theo báo cáo của Bảy Trân, Cao Đài cứu quốc của anh Khảm, viên chức cao cấp ở soái phủ Nam Kỳ, thì phát triển lực lượng rất nhanh ngay tại Sài Gòn). Tín đồ Cao Đài thấy mình bị đánh lừa, Nhật đánh lừa, lãnh tụ của họ đánh lừa. Tuy vậy, tín đồ Cao Đài thường nghe theo và ít suy nghĩ sâu, thực lực Cao Đài còn lớn và họ còn hai, ba vạn quân dưới dạng lính và dạng thợ tập trung ở Sài Gòn và ngoại ô. Dù sao thì số này so với lực lượng nửa quân sự của ta ở thành phố cũng không đông đảo bằng – chưa kể về mặt tinh thần.


- Đạo Hoà Hảo nhỏ hơn đạo Cao Đài ; ở Sài Gòn họ cũng ít người hơn, ít nào cũng mấy ngàn.


- Năm, bảy nhóm chính trị khác, vài ba nhóm đông đến trăm hay hơn nữa. Mà ở Sài Gòn thì số trăm, số ngàn đó có là bao nhiêu đâu ?


- Trốtkít mới tổ chức lại với danh nghĩa “ nhóm trí thức ”, “nhóm Tranh đấu”, hãy còn yếu ớt thôi. Nhưng cái nguy cơ trốtkít bây giờ không phải ở số lượng của họ, mà chính là ở cái tính “ mưu sĩ ” của họ ; một số người đâm bị thóc, thọc bị gạo, kéo phe này chống phe kia, tự nó không tổ chức nổi một đảng thống nhất nhưng nó lại có khả năng làm một thứ keo lỏng lâm thời gắn những tổ chức chống cộng sản đệ tam, có khả năng làm “ quân sư ” cho mỗi tổ chức ấy.


- Mấy năm, mấy tháng trước đây, nhiều tổ chức thân Nhật được tập hợp hết sức lỏng lẻo trong “ Phục quốc ”, đồng minh do Trần Văn Ân chủ trương (theo gậy chỉ huy của Nhật), nói là tôn phù Cường Để. Bấy giờ họ đang vận động tập hợp dưới danh nghĩa “ Mặt trận quốc gia thống nhất ” trước mắt họ không tỏ dấu hiệu gì chống lại Việt Minh. Dầu cho tập hợp lại, họ vẫn rời rạc trên thực tế vì không có nòng cốt nào lãnh đạo, mấy ông quân sư hay gọi là “ thầy dùi ” trốtkít của họ ở Sài Gòn nói thì hay mà chẳng có sức mạnh, nhất là chẳng có đường lối gì cho những đảng quốc gia đi theo được.


- Những tổ chức có vũ trang ở Sài Gòn có khá nhiều. Có những tổ chức tập hợp được hàng trăm súng (không kể quân Cao Đài). Riêng một nhóm như Huỳnh Long của Lý Hoa Vinh đã có tới vài ba trăm khẩu (tôi biết được vì có người tay trong). Nhóm Quốc Dân quân Vũ Tam Anh cũng tương đương với nhóm Huỳnh Long. Nhóm Quốc Gia của Nguyễn Hoà Hiệp không chịu kém hơn Vũ Tam Anh và Lý Hoa Vinh. Phiền nhất là tôi không biết chắc họ có bao nhiêu súng, bao nhiêu đạn ? Những con số đều là đồn đại. Bao nhiêu người thì không quan trọng lắm, là vì, lúc này, ai có súng, có gạo, có áo quần thì có quân, muốn mấy ngàn cũng có được. Các giáo phái thì ngoài súng, họ có dân đông, nên có vô số vũ khí thô sơ, lâu nay họ lập nhiều lò rèn, họ tập quân sự ráo riết lắm. Như vậy đang hình thành ở Sài Gòn và ở Nam Kỳ nhỏ hẹp này một cái thế mà khi ấy tôi gọi cho vui là “ thế Chiến quốc ”, “ thế Xuân Thu ”. Nam Kỳ nhiều đạo giáo, nhiều chính đảng, nhiều bè nhóm tan hợp bất thường, cũng nhiều những tay thuộc lòng chuyện Tàu, nào Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc, Tuỳ Đường, nào Thủy Hử, Anh Hùng Náo v.v…


Trong tình hình chung rối rắm đó, lực lượng của Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh nổi bật lên như là lực lượng có tổ chức, kỷ luật nhất, có đông đảo nhân dân đi theo nhất, nhất là có đường lối cách mạng giải phóng dân tộc sáng ngời, có cả một quá khứ mười mấy năm tranh đấu, hy sinh vì đại nghĩa. Dựa trên lực lượng của công nhân, thanh niên, binh lính, nông dân ngoại thành ở Sài Gòn, ta có một “ đạo quân chính trị ” hùng hậu không ai bì kịp. Ở cả Nam Kỳ cũng vậy. Vẫn hãy còn mấy vùng “ trắng ” về cơ sở Đảng, song ở đó vẫn có Thanh niên Tiền phong. Đạo quân chính trị càng lớn thì càng có sức thu hút nhân dân, thu hút các nhóm và tổ chức yêu nước, thu hút đồng bào không thuộc đảng phái nào.


Mỗi ngày qua, sức ta thêm, thế ta tăng, uy tín cách mạng lên vùn vụt. Nếu nói từ sau tháng Ba, tháng Tư đến tháng Tám năm 1945 ở Nam Kỳ đã có một hiện tượng “ Phù Đổng ” thì đó là một sự thật lịch sử.


Mỗi ngày qua, dưới áp lực của một cao trào nhân dân rầm rộ và đều khắp do ta tổ chức, bộ máy ngụy quyền thêm rệu rã. Hình thành một cái thế mà bọn tôi gọi là “ lưỡng quyền tương tranh ” (Huỳnh Văn Tiểng thích cái nhóm từ “ lưỡng quyền tương tranh ” lắm – dualité des pouvoirs), giữa ngụy và ta ở toàn bộ nông thôn, mà chẳng phải chỉ có ở nông thôn thôi, thế lưỡng quyền đó lan đến tỉnh lỵ và cả Sài Gòn nữa ; bên kia là ngụy mục nát, bên này là ta phát triển và củng cố nhanh chóng, được dân tín nhiệm ; bên kia là ngụy, chỉ có hình thức chính quyền ; bên này là ta, có thực lực, một thực lực có tổ chức, có hệ thống hoạt động công khai, công khai nêu lên trước đồng bào cái quyết tâm giành chính quyền về tay nhân dân, giành độc lập tự do cho đất nước.


Với tương quan lực lượng đó, có thể khởi nghĩa thành công được một cách chắc chắn, nếu ta tổ chức và chiến đấu khởi nghĩa có khoa học, có nghệ thuật.








1 Hai Hô : Heiho (兵補 : Binh Bổ) đơn vị vũ trang bản xứ do quân đội Nhật Bản thành lập ở các nước bị Nhật chiếm đóng.


2 Vườn Ông Thượng : sau 1955 là vườn Tao Đàn, nay là công viên Văn Hóa. Thời Pháp thuộc, mang tên Pháp là Jardin de la Ville (Vườn hoa Thành phố), ta gọi là Vườn Ông Thượng hay Vườn Bờ Rô. Ông Thượng là Thượng công Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định. Còn cái tên Bờ Rô thì theo Vương Hồng Sển (trong Sài Gòn năm xưa) “ đến nay còn phân vân bất nhứt, mạnh ai nấy nói và giải thích, không ai nhượng cho ai :

- Một thuyết, do anh giáo Trần Văn Xường, dạy ở Chợ Lớn, nay đã khuất, Xường, tiếng Tàu, tức là Tường, vẫn cho rằng, hoặc người Tây coi sóc vườn có tên là ông Bureau, hoặc giả, ông nầy làm thêm văn phòng (bureau) và khi người phu muốn lãnh tiền thì lên "bureau" mà lãnh, nên gọi vườn như vậy. Nay anh Xường đã không còn, tôi xin miễn luận.

- Một thuyết thứ 2 là theo như tôi đã nghe người tuổi tác dẫn giải cho biết, thì "Bờ Rô" có lẽ do chữ "préau" của Pháp. Vả lại, hiển nhiên "Préau" là sân có lợp nóc để tránh mưa gió của các tu viện, bịnh viện, ngục thất và học đường, mỗi lycée nào cũng có, trường chasseloup có một préau, không biết nay ra thể nào, và préau nầy ở mé đường Lê Quý Đôn, sát cửa vào.

Vậy tôi xin chừa danh từ "vườn Bờ Rô" cho người cao kiến dạy lại. Riêng như tôi biết và chứng cớ rành mạch thì nơi mé sân túc cầu, phía đường Huyền Trân, lúc đầu tôi có thấy một bệ khá cao và rộng, đời Tây, họ làm nơi diễn tuồng, diễn thuyết, có khi dọn làm sân đánh võ "boxe" và gọi là "préau". Qua năm có bày hội chợ, gọi kermesse, lối những niên 1930-35 gì đó, thì họ đặt thêm nhiều chậu kiểng cau vàng và lấy préau nầy làm "théâtre de verdure" - "rạp hát ngoài trời hoặc lộ thiên" gì gì đó.


3 Đường Frostin : Đường Bà Lê Chân, Tân Định (nối Hai Bà Trưng với Trần Quang Khải).


4 Đường Chasseloup-Laubat : sau đổi thành đường Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai


5 Sở Thú : Thảo Cầm Viên.


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
MCFV: Lettre d’information – Newsletter Rentrée 2024 08/09/2024 - 29/11/2024
Galerie BAQ: Lêna Bùi 12/09/2024 - 02/11/2024 — 15 Rue Beautreillis, 75004 Paris
Indochine: 70 ans après les Accords de Genève 21/11/2024 16:00 - 18:00 — BnF site François-Mitterrand, Quai François Mauriac, 75706 Paris Cedex 13
Les Accords de Genève, espoirs et désillusions au cœur de la guerre froide. De l’indépendance à la division du Vietnam 11/12/2024 16:30 - 18:00 — Bibliothèque François-Mitterrand, Quai François Mauriac - 75706 Paris Cedex 13
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us