Ảo tưởng về sức mạnh Trung Quốc
ẢO TƯỞNG VỀ SỨC MẠNH TRUNG QUỐC
David Sambaugh (bản tiếng Việt: Nguyễn Văn Nhã)
Sự thông thái qui ước cho rằng cỗ xe khổng lồ Trung Quốc không thể bị chặn lại, và thế giới phải điều chỉnh theo thực tế của người khổng lồ Á châu này, với tư cách là một cường quốc thế giới. Những nhà tiên tri về sự nổi lên của Trung Quốc đã xuất hiện từ nhiều thập kỷ vừa qua. Họ đều tô vẽ hình ảnh của thế giới vào thế kỷ thứ 21 với Trung Quốc là một tác nhân thống soái. Sự tin tưởng này là một điều có thể hiểu được, và rất phổ biến; nhưng thực ra, đó là một sai lầm.
Chúng ta hãy nhớ lại cách đây không lâu lắm, vào những năm 1980, người ta cũng tiên đoán là Nhật Bản sẽ là “số một” và tham gia vào Câu lạc bộ các đại cường, trước khi Nhật Bản chìm vào ba thập kỷ suy thoái, và cho thấy rằng họ chỉ là một cường quốc có một chiều không gian (kinh tế), và không có một nền tảng rộng lớn mang đặc tính quốc gia để dựa vào. Trước đó, Liên Xô cũng được gọi là một siêu cường thế giới (một giả định đã gây ra cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài nửa thế kỷ). Để rồi siêu cường này sụp đổ nhanh chóng vào năm 1991. Nghiên cứu sau này cũng cho thấy Liên Xô chỉ là cường quốc có một chiều không gian (quân sự), đã bị ngạt thở từ nhiều thập kỷ. Sau Chiến tranh Lạnh, một số học giả cho rằng Liên minh Châu Âu, sau khi được mở rộng và củng cố, sẽ nổi lên như một đại cường mới, và là một cực của hệ thống quốc tế. Nhưng Châu Âu chỉ cho thấy họ bất lực và không có khả năng trước nhiều thách thức toàn cầu. Châu Âu cũng tự phơi mình như cường quốc một chiều không gian (kinh tế). Do đó khi bàn tới Trung Quốc hiện nay, người ta nên điềm tĩnh và bi quan hơn một chút.
Chắc chắn Trung Quốc là một cường quốc đang nổi lên quan trọng nhất của thế giới, vượt xa các quốc gia khác như Ấn Độ, Brazil hay Nam Phi. Và trong một số phương diện, Trung Quốc đã vượt qua một số cường quốc hạng trung như Nga, Nhật, Anh, Pháp, Đức. Theo nhiều thước đo, Trung Quốc đã trở thành cường quốc lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ, và về một số phương diện, họ đã vượt qua người Mỹ. Trung Quốc có nhiều nhân tố để trở thành cường quốc thế giới: Một dân số đông nhất thế giới, một diện tích lục địa lớn, một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, một quĩ dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, một ngân sách quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới, một chương trình không gian, một mẫu hạm, một viện bảo tàng lớn nhất thế giới, một đập thuỷ điện lớn nhất thế giới, một hệ thống xa lộ lớn nhất thế giới, và một hệ thống đường xe lửa cao tốc tốt nhất thế giới. Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu về mậu dịch quốc tế, là người tiêu thụ năng lượng nhiều nhất thế giới, là người phát sinh ra nhiều nhất các loại khí thải gây ảnh hưởng nhà kính, là quốc gia đứng hàng thứ hai về nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và là quốc gia đứng hàng thứ ba về đầu tư ra nước ngoài (ODI- Oversea Direct Investment). Và là nước sản xuất nhiều nhất thế giới về nhiều loại hàng hoá.
Tuy thế, khả năng sản xuất chỉ là một chỉ số về sức mạnh của một quốc gia, và trên trường quốc tế; và không phải là chỉ số quan trọng nhất. Nhiều thế hệ các học giả xã hội học đã xác định được chĩ số quan trọng nhất của sức mạnh quốc gia là ảnh hưởng đối với nước khác. Đó là khả năng định hình các sự kiện và hành động của các quốc gia khác. Như học giả nổi tiếng Robert Dahl đã nhận xét : “ A có quyền lực trên B khi có khả năng xui khiến B làm chuyện gì đó mà B không thể làm khác được”. Các khả năng không được chuyển đổi thành hành động để đạt một số mục đích nào đó, thì không có giá trị gì nhiều. Sự hiện diện của các khả năng này có thể tạo ra ảnh hưởng đe doạ hay choáng ngợp lên người khác. Nhưng chỉ có khả năng ảnh hưởng lên hành động của người khác, hay lên kết quả của một sự kiện mới là điều đáng kể. Dỉ nhiên có nhiều cách thức mà các quốc gia có thể sử dụng để ảnh hưởng tới hành động của nước khác, hay tới diễn biến của một sự kiện: lôi kéo, chinh phục bằng ngôn từ, hợp tác, ép buộc, chi tiền, lôi cuốn hay đe doạ dùng vũ lực. Sức mạnh và sự thực hiện nó có quan hệ nội tại tự có. Sự sử dụng những phương tiện này nọ đối với kẻ khác để có thể ảnh hưởng lên tình hình có lợi cho bản thân họ.
Khi chúng ta khảo sát sự hiện diện của Trung Quốc và cách hành xử của họ trên thế giới ngày nay, chúng ta cần bỏ qua những nét gây ấn tượng bề ngoài và tự hỏi : “ Liệu ngày nay Trung Quốc có được ảnh hưởng lên các quốc gia và lên quĩ đạo các sự kiện quốc tế trong các lãnh vực khác nhau ? Câu trả lời ngắn gọn là : “Không nhiều lắm, nếu không nói là chẳng có gì cả”.
Có rất ít các lãnh vực mà người ta có thể nói Trung Quốc thực sự có ảnh hưởng lên các quốc gia khác, tạo ra tiêu chuẩn toàn cầu hay định hình khuynh hướng toàn cầu. Họ cũng không cố gắng giải quyết các vấn đề quốc tế. Trung Quốc là một cường quốc thụ động, phản ứng của họ là né tránh những thách thức, và lẩn trốn khi có cuộc khủng hoảng quốc tế xảy ra. Các cuộc khủng hoảng hiện nay ờ Syria và Ukraina là những ví dụ điển hình vế tính thụ động của Bắc Kinh.
Hơn thế nữa, nếu khảo sát kỹ hơn về các khả năng của Trung Quốc, người ta thấy chúng không mạnh lắm. Nhiều chỉ số cho thấy đầy ấn tượng về mặt số lượng, nhưng không ấn tượng vế chất lượng. Chính vì thiếu sức mạnh chất lượng mà Trung Quốc thiếu ảnh hưởng thực sự. Người Trung Quốc có câu thành ngữ “wai ying, nei ruain” (cứng ngoài, mềm trong). Đó chính là tính chất của Trung Quốc ngày nay. Nếu lục lọi các con số thống kê đầy ấn tượng về Trung Quốc, bạn sẽ thấy những yếu kém tràn lan, những khó khăn quan trọng, và nền tảng yếu kém để trở thành đại cường thế giới. Trung Quốc có thể là con hổ giấy của thế kỷ thứ 21.
Điều này co thể được cảm nhận trong 5 lãnh vực: Chính sách ngoại giao quốc tế của Trung Quốc, khả năng quân sự, hiện diện văn hoá, sức mạnh kinh tế và các yếu tố nội địa làm giảm vị trí của Trung Quốc trên trường thế giới. Chúng ta sẽ xem xét từng khía cạnh.
1. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO:
Về nhiều khía cạnh, chính sách ngoại giao của TQ đã mang tính chất toàn cầu. Trong 40 năm qua, TQ đã đi từ tình trạng bị cô lập đối với cộng đồng quốc tế, và trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế. Ngày nay, Bắc Kinh có quan hệ ngoại giao với 175 nước; TQ trở thành thành viên của hơn 150 tổ chức quốc tế, và tham gia hơn 300 hiệp ước đa phương. Mỗi năm, Bắc Kinh tiếp đón nhiều chính khách nước ngoài hơn hẳn các quốc gia khác, và các nhà lãnh đạo TQ đi ra nước ngoài đều đặn.
Mặc dù hội nhập vào cộng đồng quốc tế, và chính sách ngoại giao tích cực của Bắc Kinh, lãnh vực ngoại giao chính là chỗ cho thấy Bắc Kinh chỉ giữ vai trò cường quốc bán phần một cách rõ nhất. Một mặt, Trung Quốc được coi là biểu hiệu của một đại cường thế giới; Họ là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, thành viên của nhóm G-20, và là người tham gia vào các hội nghị quốc tế thượng đỉnh quan trọng. Mặt khác, các viên chức Trung Quốc vẫn còn rụt rè và thụ động trong các hoạt động này, và trước những thách thức mang tính toàn cầu. Trung Quốc không lãnh đạo, họ cũng không định hình nền ngoại giao quốc tế, không hướng dẫn chính sách ngoại giao của nước khác, không thành lập được những đồng thuận toàn cầu, không thành lập được liên minh để giải quyết vấn đề.. Bắc Kinh không chủ động tham gia giải quyết những vấn đề lớn của thế giới, mà ngược lại, họ tỏ ra thụ động và hay phân vân khi tham gia vào những nỗ lực đa phương do nước khác tổ chức (thường là do Hoa Kỳ tổ chức).
Là cường quốc thế giới, bạn phải tham gia giải quyết các vụ tranh chấp, mang mọi phe phái ngồi lại với nhau, thành lập liên minh và đưa ra đồng thuận; và khi cần tới, cũng phải dùng áp lực. Bắc Kinh thích ngồi bên lề và chỉ giản dị kêu gọi các nước khác giải quyết tranh chấp bằng các “biện pháp hoà bình”, và tìm ra giải pháp “cùng thắng”. Những ngôn từ trống rỗng đó không giúp giải quyết được gì cả. Bắc Kinh cũng dị ứng với những biện pháp áp đặt, và chỉ đi theo những biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an LHQ, khi tình hình cho thấy rõ rệt là nếu không làm như vậy, Bắc Kinh sẽ bị cô lập, và hình ảnh quốc tế của Bắc Kinh sẽ bị hoen ố. Đó không phải là cách hành xử của một quốc gia lãnh đạo thế giới.
Thực thế, chính sách ngoại giao của Bắc Kinh thực sự là màn tuồng trình diễn, chỉ mang tính tượng trưng hơn là có nội dung. Chúng có mục đích hàng đầu là củng cố tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với quần chúng trong nước; bằng cách cho thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc vai kề vai với các nhà lãnh đạo thế giới. Cùng lúc báo hiệu cho cộng đồng thế giới là đất nước đã trở lại vị trí đại cường sau nhiều thế kỷ bất lực. Vì thế, chính phủ Trung Quốc đã cố dàn xếp, kéo dài mang đầy kịch tính những cuộc gặp gỡ quan khách quốc tế. Mặc dù vậy, nền ngoại giao Trung Quốc cố tránh rủi ro, và nằm dưới sự dẫn dắt của quyền lợi quốc gia thiển cận. Bắc Kinh bình thường chọn những giải pháp có mẫu số chung thấp nhất, chọn lựa những vị trí an toàn nhất, ít gây tranh cãi nhất, và họ thường chờ đợi thái độ của các quốc gia khác trước khi bộc lộ quan điểm của mình.
Tính chất thụ động này có những ngoại lệ, nằm trong các vấn đề được coi là quyền lợi cốt lõi và hạn hẹp của họ: Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương, nhân quyền và tranh chấp lãnh thổ. Trong những vấn đề này, Bắc Kinh tỏ ra siêu cứng rắn, và có chính sách ngoại giao áp chế. Nhưng những nỗ lực để bảo vệ quyền lợi của họ thường tỏ ra vụng về và phản tác dụng cho hình ảnh và mục đích của họ. Ngoài việc bảo vệ các quyền lợi quốc gia thiển cận, chính sách ngoại giao của họ tỏ ra thụ động cùng cực, đối với một đất nước to lớn và quan trọng như vậy.
Khi bàn tới việc quản trị thế giới, việc này đòi hỏi phân phối ngân sách tùy theo khả năng tổng thể của mỗi quốc gia, cách hành xử của Bắc Kinh bình thường mang tình tiêu cực, và đầu óc thiển cận trong ngoại giao. Trung Quốc có đóng góp trên nhiều vấn đề quản trị thế giới: Các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc, hoạt động chống cướp biển vùng vịnh Eden, các biện pháp chống khủng bố ở Trung Á, viện trợ phát triển cho nước ngoài, chống sự phổ biến vũ khí hạt nhân, y tế công, cứu trợ thiên tai, và chống tội phạm quốc tế. Trong những lãnh vực này, Bắc Kinh có đóng góp xứng đáng. Tuy nhiên, Trung Quốc nên làm và có thể làm nhiều hơn thế nữa. Nhưng họ “đấm boxe” dưới trọng lượng của họ, vì không đóng góp tỷ lệ với tầm vóc của sự giàu có, hay ảnh hưởng tiềm ẩn của họ. Thế giới nên trông đợi và đòi hỏi Trung Quốc đóng góp nhiều hơn nữa.
Tại sao chính sách ngoại giao quản trị thế giới của Trung Quốc lại bị gò bó như vậy ? Có ba lý do chính:
Thứ nhất, có sự bi quan sâu xa ở trong nội bộ Trung Quốc về những ý tưởng tự do và về quan điểm cơ bản trong quản trị thế giới. Họ nghĩ đó là những cái “bẫy” cuối cùng do Phương Tây lập ra (nhất là Hoa Kỳ) để làm chảy máu Trung Quốc khi đề nghị Trung Quốc can thiệp vào những cuộc khủng hoảng và những nơi mà Trung Quốc không có quyền lợi trực tiếp. Như thế sẽ làm phân tán nguồn lực, và ngăn cản “sự nổi lên” của Trung Quốc.
Thứ hai, người dân Trung Quốc sẽ phê phán chính phủ Trung Quốc phân tán của cải ra nước ngoài, trong khi ở trong nước vẫn còn nhiều nhu cầu khẩn cấp.
Thứ ba, Trung Quốc có một phương án tiếp cận mang tính “đổi chác”, để mở rộng nỗ lực, nhất là khi liên quan tới tiền bạc. Điều này bắt nguồn từ văn hoá thương mại, nhưng được nới rộng ra cho nhiều lãnh vực trong cách hành xử của Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn biết chính xác họ sẽ được lợi cái gì, và khi nào, từ những dịch vụ đầu tư nào đó. Như thế, quan niệm toàn bộ về hoạt động từ thiện, và đóng góp bất vụ lợi cho phúc lợi quần chúng rất xa lạ đối với lối suy nghĩ của Trung Quốc.
Kết quả là trong lãnh vực ngoại giao – quản trị song phương, đa phương và toàn cầu- Bắc Kinh đã cho thấy sự thụ động rõ rệt và ngập ngừng tham gia. Họ còn lâu mới trở thành người “stakeholder” (người nắm cổ phần) có trách nhiệm như Robert Zoellick kêu gọi vào năm 2005. Ngoại giao của Bắc Kinh giữ nguyên tính chất ích kỷ, thiển cận, và sự tham gia của họ vào chính sách quản trị toàn cầu là tối thiểu và mang tính chất chiến thuật, chứ không phải là mang tính cách tiêu chuẩn và chiến lược. Tính chất thực sự của ngoại giao Trung Quốc là kinh doanh. Hãy coi kỹ những phái đoàn tháp tùng Chủ tịch nước hay Thủ tướng của Trung Quốc đi ra nước ngoài, người ta thấy có rất nhiều CEO của các công ty, đi tìm nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, cơ hội mậu dịch hay đầu tư. Chính sách ngoại giao trọng thương như vậy không giúp cho Bắc Kinh được sự kính nể của thế giới, và thực ra thì đã có sự phê phán và thầm thì khắp thế giới. (Nhất là ở châu Phi và châu Mỹ La tinh).
2. SỨC MẠNH QUÂN SỰ
Khả năng quân sự của Trung Quốc là một lãnh vực khác cho thấy tính chất đại cường bán phần của nước này. Họ ngày càng trở thành cường quốc khu vực, nhưng không bao giờ là cường quốc mang tính toàn cầu. Trung Quốc không có khả năng viễn phóng sức mạnh quân sự của họ ra khỏi vùng phụ cận ở châu Á (hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa, chương trình không gian, và khả năng chiến tranh mạng). Và ngay cả với châu Á, khả năng viễn phóng sức mạnh (mang quân ra nước ngoài) cũng bị giới hạn, mặc dù có tăng lên. Không ai chắc chắn là Trung Quốc có khả năng triển khai sức mạnh 500 dặm (800 km) xa hơn biên giới của họ (Ví dụ tại Biển Hoa Đông và Hoa Nam). Và có thể chịu đựng đủ lâu dài để chiến thắng trong tranh chấp. Lực lượng quân sự của họ không có kinh nghiệm chiến trường, họ không có chiến tranh từ năm 1979 (chiến tranh biên giới Việt Nam).
Chắc chắn là Trung Quốc đã hiện đại hoá quân đội từ 25 năm qua. Hiện nay ngân sách quốc phòng của họ đứng thứ hai trên thế giới (131.6 tỉ USD cho năm 2014). Họ có đạo quân thường trực lớn nhất thế giới, chế tạo nhiều vũ khí tối tân, một hải quân ngày càng du hành xa bờ hơn nữa ở miền Tây Thái Bình Dương, đôi khi qua tới Ấn Độ Dương, và một tầu sân bay hiện đại. Do đó, quân đội Trung Quốc không dễ bị đánh bại. Chắc chắn nó có đủ sức để bảo vệ Tổ quốc, và có thể gây chiến thành công với Đài Loan (Nếu không có sự can thiệp nhanh chóng của Hoa Kỳ). Trung Quốc được nhìn nhận như một đại cường quân sự khu vực ở châu Á, và như vậy, làm thay đổi cán cân sức mạnh trong khu vực. Nhưng lực lượng quân sự Trung Quốc vẫn còn chưa có sức mạnh viễn phóng ra toàn thế giới: Trung Quốc không có căn cứ quân sự ở nước ngoài, không có mạng lưới viễn thông và hậu cần dài tay, hệ thống vệ tinh bao phủ thế giới còn thô sơ; hải quân chủ yếu vẫn là lực lượng ven bờ; Không quân không có khả năng tấn công tầm xa, hay khả năng tàng hình được chứng thực; và bộ binh không có khả năng triển khai nhanh chóng.
Hơn thế, về chiến lược mà nói, Trung Quốc là một “đại cường cô đơn”, thiếu bạn bè thân thiết và không có đồng minh. Ngay cả đối với người bạn thân cận nhất (Nga), có nhiều yếu tố bất tín nhiệm, và nghi ngờ mang tính lịch sử, nằm sâu dưới cái vỏ quan hệ hài hoà giữa hai nhà nước. Không một quốc gia nào trông vào Bắc Kinh để tìm kiếm an ninh và bảo vệ (ngoại trừ có lẽ Pakistan). Điều này chứng tỏ Trung Quốc thiếu một ảnh hưởng chiến lược, với tư cách là một đại cường. Ngược lại, các quốc gia khác ở châu Á lại tìm cách tăng cường liên kết quân sự với Hoa Kỳ, và tìm cách cải thiện quan hệ giữa họ với nhau. Nguyên nhân chính vì sự bất trắc và mối đe doạ họ nhìn thấy từ Trung Quốc.
3. QUYỀN LỰC MỀM
Chuyển từ quyền lực cứng qua quyền lực mềm, Trung Quốc đã xây dựng sức mạnh văn hoá toàn cầu của họ ra sao ? Không tốt lắm! Không một xã hội nào tìm cách bắt chước nền văn hoá Trung Quốc. Không một xã hội nào tìm cách sao chụp hệ thống chính trị Trung Quốc. Và hệ thống kinh tế Trung Quốc không được bắt chước ở nước khác. Mặc dù chính phủ Trung Quốc đã có nhiều chi phí và nỗ lực để xây dựng quyền lực mềm, và để cải thiện hình ảnh trên khắp thế giới kể từ năm 2008. Trung Quốc tiếp tục có uy tín toàn cầu từ mức trung bình tới xấu. Các cuộc thăm dò dư luận tại các quốc gia trên thế giới, người ta nhìn Trung Quốc một cách trung bình hay tiêu cực, và ngày càng có thêm những vấn đề.
Trung Quốc không phải là cục nam châm cho mọi người bị cuốn hút. – Cả về văn hoá, xã hội, kinh tế hay chính trị - Vấn đề của Trung Quốc là cả trong bốn lãnh vực này, chúng đều mang tính riêng biệt (sui generis). Trung Quốc thiếu sự hấp dẫn phổ quát ngoài biên giới và ngoài các cộng đồng người Hoa. Lý do chính chỉ vì tính quá riêng biệt trong các lãnh vực văn hoá, kinh tế, xã hội, chính trị. Tính hấp dẫn của quyền lực mềm của Trung Quốc đi từ yếu tới không hiện hữu.
Các sản phẩm văn hoá Trung Quốc – nghệ thật, phim ảnh, văn chương, âm nhạc, giáo dục- vẫn còn tương đối được ít người biết đến ở bên ngoài Trung Quốc. Và những sản phẩm này không tạo được chiều hướng văn hoá toàn cầu. Ngay cả nền kinh tế phát triển đáng ngưỡng mộ của Trung quốc, chỉ là sản phẩm của một tập hợp riêng biệt các nhân tố (features), không thể đem áp dụng cho các quốc gia khác.- Kinh tế cạnh tranh tầm vóc lớn, kế hoạch hoá nhà nước theo kiểu Liên Xô, kinh doanh cá thể, một lực lượng lao động lớn có kỷ luật, một định chế lớn cho Nghiên cứu và Phát triển (R&D), và một FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) khổng lồ. – Ngay cả nếu có một “mô hình Trung Quốc”, (điều này còn phải bàn cãi), nó cũng không thể xuất khẩu được, bởi vì các nhân tố trong tập hợp này không hiện hữu ở những nước khác. Hệ thống chính trị Trung Quốc giống như một hỗn hợp điện tử, gồm có Chủ nghĩa Mác-Lê nin, chủ nghĩa chuyên chế Á châu, chủ nghĩa Khổng giáo truyền thống, và một nhà nước có guồng máy an ninh nội bộ mạnh mẽ. Sự đặc thù của Trung Quốc không thể được nhân rộng ra -. Không có một quốc gia nào khác muốn thử nghiệm làm như vậy; và người ta cũng không thấy một người nước ngoài nào muốn xin tị nạn chính trị hay quốc tịch của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
4. SỨC MẠNH KINH TẾ.
Sức mạnh kinh tế Trung Quốc có gì lạ ? Đây là lãnh vực mà người ta hy vọng Trung Quốc sẽ là một đại cường mang tính toàn cầu, và là người định hướng cho thế giới. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Trung Quốc lên thế giới quá nông cạn so với kỳ vọng. Giống như mọi lãnh vực khác, số lượng của Trung Quốc gây ấn tượng, nhưng chất lượng quá kém. Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng hàng hoá xuất khẩu thường là hàng tiêu dùng cấp hạng thấp; hàng của họ cũng có ít thương hiệu nổi tiếng quốc tế. Chỉ có một số nhỏ công ty đa quốc gia của họ thành công ở nước ngoài. Toàn bộ số vốn Trung Quốc mang đầu tư hải ngoại (ODI- Oversea direct investment) chỉ đứng hàng thứ 17 trên thế giới; và các chương trình viện trợ nước ngoài chỉ là một phần nhỏ của quĩ viện trợ của Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản hay Ngân hàng Thế giới.
Khi khảo sát về chất lượng thay vì số lượng, dung mạo kinh tế mang tính toàn cầu của Trung Quốc không có gì ấn tượng. Nó còn là một nền kinh tế chế biến và lắp ráp, chứ không phải là nền kinh tế sáng tạo và sáng chế. Hầu hết hàng hoá sản xuất ở Trung Quốc để xuất khẩu ra nước ngoài, đã được sáng tạo ra ở nước khác. Tình trạng ăn cắp phổ biến quyền sở hữu trí tuệ, và chính sách nhà nước “sáng tạo bản địa” (đã đổ hàng tỷ USD cho R&D mỗi năm), là chỉ dấu cho thấy rõ rệt họ đã thất bại trong việc sáng tạo ra các mặt hàng. Điều này có lẽ sẽ thay đổi với thời gian, nhưng cho tới nay, Trung Quốc đã không tạo được tiêu chuẩn quốc tế trong công nghệ hay dây chuyền sản xuất. (Cũng giống như trong khoa học tự nhiên, khoa học y tế, xã hội và nhân văn). Tương tự, Trung Quốc chỉ có hai trường đại học nằm trong danh sách 100 đại học tốt nhất thế giới (theo báo cáo của Times Higher Ranking - World University Ranking for 2013-2014).
Nếu Trung Quốc muốn đẩy mạnh sáng tạo, dĩ nhiên họ phải đầu tư thêm cho R&D. Theo National Science Foundation (Quĩ quốc gia về Khoa học) vào năm 2009, Trung Quốc chỉ dành có 1,7% GDP cho R&D; so với Mỹ 2,9%, Đức 2,8%, và Nhật Bản 3,3%. Chi phí cho R&D của Trung Quốc cũng không nằm trong danh sách 20 quốc gia chi phí nhiều nhất cho R&D của thế giới. 80% quĩ này ở Trung Quốc được dùng cho phát triển hàng hoá, và chỉ có 5% dùng cho nghiên cứu cơ bản. Một chỉ dấu cho hiện tượng này là Trung Quốc không có nhiều giải Nobel. Từ 1949-2010, có 584 giải Nobel được phát ra, người gốc Hoa chỉ được có 10 giải. Nhưng 8 trong số 10 người này lại sống ở nước ngoài. Chỉ có 2 ngoại lệ là Lưu Hiểu Ba được Giải Hoà bình 2010, và Mặc Ngôn, giải Văn chương 2011. Một chỉ dấu khác là những bài viết có trích dẫn sách Trung Quốc. Số bài viết (trong mọi ngành khoa học) của Trung Quốc được trích dẫn là 4%, so với Mỹ 49%.
Kết quả là Trung Quốc bị thâm hụt sáng chế triền miên. Quốc gia này đang tiến tới “cái bẫy thu nhập trung bình”. Con đường duy nhất để tránh cái bẫy này là sáng chế, giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đã làm trước đây. Và điều này đòi hỏi nhiều thứ hơn là quĩ đầu tư cho R&D của chính phủ. Nó đòi hỏi hệ thống giáo dục dựa trên tư duy phê phán, và tự do khám phá. Điều này lại đòi hỏi một hệ thống chính trị tương đối cởi mở và dân chủ, và không cho phép chính sách kiểm duyệt hay “vùng cấm” trong nghiên cứu. Sinh viên và trí thức phải được tưởng thưởng, chứ không phải bị đàn áp hay trừng phạt khi họ dám thách thức sự khôn ngoan qui ước và phạm phải lỗi lầm. Chờ tới lúc đó, Trung Quốc sẽ rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình” - lắp ráp và sản xuất, chứ không sáng tạo và phát minh-.
Nhìn theo cách này, cỗ xe khổng lồ Trung Quốc rất yếu, so với cái vỏ bề ngoài. Các điểm yếu tương tự của Trung Quốc cũng nằm trong ODI (Đầu tư trực tiếp hải ngoại). Mặc dù chính phủ dành đặc quyền cho các công ty đi ra ngoài, nhưng tới giờ đầu tư hải ngoại của Trung Quốc còn quá nhỏ. Như đã nói ở trên, vốn ODI của Trung Quốc chỉ nằm trong danh sách 20 quốc gia hàng đầu thế giới, mặc dù tiền vốn chảy ra ngoài tăng rất nhanh, và đứng hàng thứ ba trên thế giới (88,2 tỷ USD vào năm 2012). Tuy vậy, số tiền này chỉ bằng ¼ số tiền ODI của Mỹ, cùng vào thời điểm đó.
Điều đáng nói hơn, như mọi lãnh vực hoạt động khác của Trung Quốc, người ta cần nhìn vào thống kê số lượng để đặt ra câu hỏi về chất lượng: Những số vốn này đi đâu? Và có phải là đầu tư thực thụ không ? Điểm đến và cơ cấu của ODI Trung Quốc thay đổi nhanh chóng từ năm 2011. Nhưng một số lớn là quĩ porfolio (đầu tư vào chứng khoán hay gửi ngân hàng) chảy qua các vùng như Virgin Islands thuộc Anh, hay đảo Grand Cayman. Chúng là điểm đến thứ 2 và thứ 3 của vốn Trung Quốc. Như thế, một số không phải là đầu tư hải ngoại. Chúng là những số tiền mang ra nước ngoài để trốn thuế. Điều này không chỉ đúng với chính phủ Trung Quốc, mà còn đúng cho vốn của các cá nhân nữa. Trong Sách Xanh về Di dân Trung Quốc trên thế giới do Center for Chinese Globalization ấn hành, người ta báo cáo là từ năm 1990, đã có 9,3 triệu người Trung Quốc di cư ra nước ngoài, mang theo với họ 2.800 tỷ Nhân dân tệ (46 tỷ USD). Đây không phải là điều mới mẻ, nhưng khuynh hướng này ngày càng tăng trong thập kỷ vừa qua. Khi giới tinh hoa kinh tế rời bỏ đất nước với số lượng lớn như vậy, và quá lo lắng bảo đảm an toàn cho số tiết kiệm cá nhân của họ, điều đó nói lên sự thiếu tin tưởng vào hệ thống chinh trị, kinh tế của chính phủ họ.
Tuy nhiên, gần đây, cách thức đầu tư hải ngoại của Trung Quốc có thay đổi: Trung Quốc tăng cường đầu tư và mua sắm khắp châu Á, Mỹ la tinh, châu Âu và Hoa Kỳ. Người mua Trung Quốc mua hết các loại tài sản – bất động sản thương mại hay gia cư, xí nghiệp, khu công nghiệp, cơ sở nghiên cứu, nông trại, rừng, mỏ, mỏ dầu khí, và các tài nguyên khác. Các công ty Trung Quốc tích cực mua hoặc hoà nhập với công ty nước ngoài. Các tư nhân Trung Quốc cũng mua nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị trên thị trường đấu giá. Như thế, cách thức đầu tư hải ngoại của Trung Quốc đã thay đổi, nhưng hậu quả thế nào chưa ai biết rõ.
Còn các công ty đa quốc gia Trung Quốc đang làm gì ? Ở nước ngoài, họ có sức cạnh tranh không ? Cũng như các loại hình hoạt động khác, họ có nhiều yếu kém hơn sức mạnh. Về mặt bề ngoài, theo số liệu của Fortune Global 500, các công ty Trung Quốc xếp hàng thứ hai, chỉ thua các công ty đa quốc gia của Mỹ. Nhưng việc xếp loại này chỉ dựa trên tổng thu nhập và lợi nhuận, chứ không dựa vào nơi chốn công ty làm ra tiền. Khi quan sát danh sách công ty Trung Quốc trong năm 2013, người ta thấy ngay rất ít công ty này hoạt động ở nước ngoài, và chỉ có một số nhỏ kiếm được hơn nửa số thu nhập ở hải ngoại. Như thế, chúng không phải là những công ty đa quốc gia thực thụ, mà đúng hơn, chỉ là những công ty hoạt động nội địa.
Nhiều công ty có lẽ kỳ vọng vươn ra thế giới. Nhưng tới nay, nhiều công ty đã thử sức nhưng không thành công. Có nhiều câu chuyện thất bại hơn là thành công cho những công ty đa quốc gia Trung quốc. Những vụ mua bán, sáp nhập công ty bình thường đổ vỡ, bởi vì lãnh đạo công ty Trung Quốc không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ, hoặc vì va chạm văn hoá. Về nhiều mặt, điểm yếu kém của các công ty đa quốc gia Trung Quốc là nguồn nhân lực, nhất là trong quản lý.
Có một số ít quản trị gia quí hiếm, biết nhiều ngôn ngữ và nhiều văn hoá, và các công ty Trung Quốc bình thường không thuê người nước ngoài có chuyên môn làm quản trị cao cấp (hai trường hợp ngoại lệ là Huawei và Haier). Công ty Trung Quốc và ban quản trị của họ thường xuyên cho thấy họ không thoát khỏi văn hoá công ty và cách hành xử kinh doanh mang tính quốc gia. Vì họ chú trọng tới thứ bậc, và vị trí nhân viên rõ ràng, người Trung Quốc không thích hợp với cách quản trị ngang hàng, nguồn gốc của phân quyền và sáng kiến cá nhân. Khuynh hướng này đã mang lại hậu quả là sự va chạm văn hoá trong các vụ sáp nhập công ty Trung Quốc với công ty Tây phương. Các công ty Trung Quốc còn cho thấy họ có khó khăn thích ứng với môi trường luật lệ, thuế má, chính trị của nước ngoài. Sự minh bạch trong quản trị công ty bình thường không được thực hiện. Qui trình lấy quyết định của họ bình thường bị mờ đục, cách hành xử trong kinh doanh bình thường tham nhũng, qui trình kế toán bị gian dối. Người ta đã khám phá ra nhiều công ty Trung Quốc đã khai man với các cơ quan kiểm tra chứng khoán ở Mỹ, trước khi phát hành IPO (bán cổ phiếu lần đầu tiên cho công chúng).
Sự yếu kém của công ty Trung Quốc trong cạnh tranh nổi rõ trong nhãn hiệu quốc tế về hàng hoá. Chỉ có một số ít công ty có khả năng hoạt động ở nước ngoài: Bia Tsingtao, sản phẩm trắng của Haier, viễn thông của Huawei, Hàng không Trung quốc, ô tô Geely, và một số ít nhãn hiệu khác. Và không có một công ty TQ nào được xếp vào bảng sắp hạng 100 công ty hàng đầu của Tạp chí Business Week.
5. MỘT SỐ THƯỚC ĐO KHÁC
Một số thước đo khác về sản xuất nội địa cũng cho thấy không có cấp hạng tốt. Năm 2014, Freedom House xếp hạng Trung Quốc thứ 183 trên tổng số 197 quốc gia về tự do báo chí. Từ năm 2002, Chỉ số Quản trị Toàn cầu (Worldwide Governance Indicators) của Ngân hàng Thế giới luôn luôn xếp hạng Trung Quốc trong nhóm 30% từ dưới lên về ổn định chính trị và kiểm soát tham nhũng ; nhóm 40% từ dưới lên cho chất lượng kiểm tra và pháp trị, và 10% từ dưới lên về tính giải trình được. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) trong bảng chỉ số cạnh tranh thế giới năm 2013, đã xếp Trung Quốc hạng thứ 29, về tham nhũng, hạng thứ 68; và đạo đức làm việc, hạng thứ 54. Tổ chức Minh Bạch quốc tế còn xếp hạng Trung Quốc thấp hơn nữa về chỉ số tham nhũng (hạng thứ 80) trong bảng xếp hạng chỉ số tham nhũng năm 2013. Trong hầu hết các phạm trù này, thứ hạng của Trung Quốc đã xấu đi nhiều trong thập kỷ vừa qua. Qua những thước đo như vậy, rõ rệt là uy tín trên trường quốc tế chỉ ở mức trung bình là cao nhất. Trong nhiều khía cạnh, Trung Quốc đứng ngang hàng với các quốc gia có thành tựu thấp, và ít được kính trọng trên thế giới.
Bảng báo cáo về Sự Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc năm 2013 cho thấy rõ: mặc dù những tiến bộ kinh tế, xã hội, đáng khâm phục của Trung Quốc từ thập kỷ 1980, quốc gia này vẫn mang tình chất của một nước đang phát triển. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đứng hàng thứ 101 trên tổng số 187 quôc gia về chỉ số tổng hợp. Thu nhập bình quân đầu người (tính theo mãi lực tương đương -ppp) khoảng 8000 USD/năm, tuy thế 13,1% dân số vẫn sống dưới mức 1,25USD/ngày. Về tuổi thọ, tử vong trẻ sơ sinh, bảo hiểm y tế, chất lượng giáo dục, và bất bình đẳng xã hội… Trung Quốc còn thua xa các quốc gia công nghiệp. Sự huỷ hoại môi trường và ô nhiễm đứng vào hạng xấu nhất trên thế giới, và là nguyên nhân của sự phát triển mạnh mẽ của bệnh ung thư. Mặc dù những nỗ lực gần đây của chính phủ: Mở rộng hoạt động y tế, bảo hiểm sức khỏe, hầu hết người dân Trung Quốc phải đối mặt với những bất trắc lớn khi bị bệnh tật. Chỉ số Gini (để đo độ bất bình đẳng xã hội, với 0 là bình đẳng hoàn toàn, 1 là bất bình đẳng hoàn toàn) nằm gần mức 0,5 thuộc hạng cao nhất thế giới. Các trường học sơ cấp và trung cấp đã có thành tựu ngang tầm quốc tế, nhưng hệ thống đại học còn chậm lụi rất nhiều so với các trường tốt trên thế giới.
KẾT LUẬN
Những nhận xét này không phải để làm giảm bớt những thành tựu phát triển thần kỳ của Trung Quốc trong ba thập kỷ vừa qua, nhưng chúng chỉ giúp ta nhận thức rõ là Trung Quốc không đứng đầu thế giới trong các thể loại phát triển.
Đó là cái nhìn về Trung Quốc ngày nay, 10 hay 20 năm nữa, vị trí Trung Quốc trên thế giới có thể cải thiện trong các thể loại này, và Trung Quốc có thể hoạt động trên cơ sở toàn cầu cũng như Hoa Kỳ. Nhưng vào lúc này, cùng lắm, Trung Quốc chỉ là một đại cường thế giới bán phần. Tuy thế, người ta không nên giả định là quĩ đạo phát triển của Trung Quốc sẽ tiếp tục mãi mãi như vậy. Còn có hai khả năng có thể xảy ra: tù đọng và suy thoái.
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng quốc gia này đã đi tới điểm ngoặc về nhiều phương diện: Tăng trưởng tổng thể đang nằm ngang (lý do vì chi phí sản xuất tăng cao, và lợi thế so sánh giảm), và chính phủ đang cố duy trì mức tăng trưởng 7%, rất quan trọng để tạo đủ công ăn việc làm cho người dân, thâu nhận nhân công mới vào thị trường lao động, và duy trì ổn định xã hội. Có lẽ họ đã thử làm, nhưng chính phủ không thể chuyển đổi nền kinh tế từ phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư sang một nền kinh tế dựa trên tiêu thụ nội địa, và một nền kinh tế dựa trên trí thức sáng tạo. Nền sản xuất không leo lên được bậc thang cao hơn về giá trị và công nghệ, và “cái bẫy thu nhập trung bình” đã xuất hiện, và có thể tồn tại lâu dài. Nợ của nhiều địa phương tăng cao, và nhiều địa phương nằm bên bờ vực phá sản. Bất bình đẳng xã hội trở nên gay gắt, và tham nhũng tràn lan ở cả trong nhà nước và ngoài xã hội, mọi lãnh vực xã hội đều bất mãn. Số người giầu có chạy trốn khỏi đất nước ngày càng tăng, giới trung lưu bị tù hãm, hệ thống chính trị bị hoá thạch và trở nên đàn áp. Cùng lúc đất nước không chấp nhận cải tổ chính trị và luật pháp, rất cần cho giai đoạn tăng trưởng sắp tới, bởi vì chúng va chạm trực tiếp tới tính độc quyền của Đảng Cộng sản Trung quốc.
Nhiều nhà Trung Quốc học hiện nay cho rằng chính Đảng Cộng sản Trung Quốc là chướng ngại cho sự tăng trưởng và phát triển trong tương lai của Trung quốc. Đảng trở thành một định chế ngày càng bất an, sơ cứng, yếu ớt, đã bị tê liệt từ năm 2008. Một phần lý do của sự tê liệt này là sự chuyển đổi lãnh đạo xảy ra vào năm 2012 và cuộc đấu tranh phe phái (vụ Bạc Hi Lai là một). Họ còn phải đối phó với các cuộc nổi loạn ở khắp nước (đặc biệt là ở Tây Tạng và Tân Cương). Còn có thêm một số nhân tố khiến Đảng co cụm lại, và tăng cường đàn áp trong 5 năm qua, kể cả mối lo sợ do Mùa xuân Ả Rập mang lại.
Nhưng người ta không nhận thấy tiến triển về cải tổ từ khi Tập Cận Bình được chuyển giao quyền lực. Ngược lại, đàn áp chính trị lại được tăng cao từ khi Tập nắm quyền. Ngay cả cuộc họp thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-2013, được loan báo là sẽ có cải tổ chính trị, cuối cùng chỉ là một mơ ước chứ không phải là sự thật.
Đó là những vấn đề cháy bỏng rất nguy hiểm mà các chuyên gia về Trung Quốc nghĩ rằng quốc gia này đang đối mặt. Đó là một loạt thách thức cho người dân và chính phủ Trung Quốc phải giải quyết. Như thế, người quan sát không thể mù quáng nghĩ rằng tương lai Trung Quốc sẽ có được động lực như 30 năm qua, hay đó là con đường đi tới qui chế đại cường thế giới sẽ tiếp tục.
David Sambaugh
giáo sư về chính trị và chính sách đối ngoại
Đai học George Washington
Giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc
Thành viên của Viện nghiên cứu Brookings
Tác giả sách: China goes global: The Partial Power
Oxford University Press 2013.
Nguồn. Nguyên tác: The illusion of Chinese power (The National Interest 25-6-2014), bản tiếng Việt do dịch giả gửi Diễn Đàn
Các thao tác trên Tài liệu