Aung San Suu Kyi, Diễn từ Nobel
Diễn
từ nhận giải Nobel hoà bình
của
bà Aung San Suu Kyi
Oslo 16.6.2012
Kính thưa Đức Vua và Hoàng hậu, Quý Ngài, Quý vị thành viên Ủy Ban Nobel Na Uy, các bạn thân mến,
Cách đây đã rất lâu, có khi tưởng như trong nhiều kiếp trước, tôi ở Oxford ngồi nghe chương trình Desert Island Discs trên đài phát thanh với con trai tôi, cậu bé Alexander. Đây là một chương trình rất phổ biến (và hình như vẫn còn tiếp tục ) phỏng vấn những nhân vật nổi tiếng đủ mọi thành phần về những gì họ sẽ chọn nếu được mang theo đến một hoang đảo 8 đĩa hát, một quyển sách ngoài Thánh kinh và toàn bộ tác phẩm của Shakespeare, và một vật xa xỉ. Hai mẹ con thích thú nghe và khi chương trình chấm dứt, Alexander hỏi tôi có nghĩ là ngày nào đó sẽ được mời lên nói ở Desert Island Discs không. “Tại sao không?”, tôi trả lời vui. Alexander , vì biết là chỉ có những người nổi tiếng mới được mời lên tham dự, nên thật tình hỏi tôi nghĩ là được mời với lý do gì. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi trả lời : ”Có thể vì mẹ được giải Nobel văn chương” và hai mẹ con cùng bật cười. Viễn tượng ấy đẹp thật đấy nhưng cũng rất xa vời.
(Tôi không nhớ tại sao đã trả lời như thế, có lẽ vì lúc ấy vừa đọc một quyển sách của một tác giả đoạt giải Nobel, hay vì nhân vật phát biểu trên chương trình Desert Island hôm ấy là một nhà văn nổi tiếng.)
Năm 1989, khi người chồng đã quá cố của tôi, Michael Aris, đến thăm lúc tôi bị quản thúc lần đầu, anh bảo tôi là John Finnis, một người bạn, đã đề cử tôi cho giải Nobel hoà bình. Tôi cũng bật cười. Thoạt tiên Michael có vẻ ngạc nhiên và anh hiểu ra ngay tại sao tôi cười. Giải Nobel hoà bình ư ? Viễn tượng đẹp thật đấy nhưng hầu như bất khả ! Thế thì tôi đã cảm thấy gì khi thật sự được trao giải Nobel hoà bình ? Câu hỏi ấy tôi đã được nghe nhiều lần và đây quả là dịp hay nhất để suy nghĩ về ý nghĩa của giải Nobel hoà bình đối với tôi và ý nghĩa của hoà bình đối với tôi.
Như tôi đã nhiều lần trả lời phỏng vấn, tin được giải Nobel hoà bình đến với tôi qua đài phát thanh một buổi tối. Không hẳn là bất ngờ vì tôi đã được nhắc nhở đến như một trong những người có nhiều khả năng được giải trong nhiều buổi phát thanh từ tuần trước. Khi viết bài diễn từ này, tôi đã rất cố gắng nhớ lại phản ứng đầu tiên của mình khi nghe tin. Hình như là, tôi không chắc lắm : “Ơ, hoá ra là họ chọn mình thật.” Không biết là thực hay là mơ vì lúc ấy tôi cũng mơ hồ về hiện thực của chính bản thân.
Trong những tháng ngày bị quản thúc, tôi nhiều khi cảm thấy mình không còn thuộc về thế giới thực. Đây căn nhà, thế giới của tôi, và đây thế giới của những người khác cũng không có tự do nhưng sống chung trong nhà tù như một cộng đồng. Và kia là thế giới của những người tự do, mỗi thế giới là một hành tinh theo đuổi quỹ đạo riêng của mình trong một vũ trụ dửng dưng. Giải Nobel hoà bình đã đưa tôi trở lại thế giới của những con người khác, ngoài khu vực cách biệt tôi sống, đã cho tôi có lại nhận thức của hiện thực. Tất nhiên điều này không xảy ra ngay lúc ấy nhưng với thời gian và các phản ứng về quyết định trao giải đến qua các kênh truyền thông, tôi dần dần hiểu ý nghĩa của giải Nobel. Nó đã cho tôi đã trở lại thành con người thực, đã đưa tôi vào trở lại cộng đồng lớn của nhân loại. Và quan trọng hơn nữa, giải Nobel đã làm thế giới chú ý đến cuộc tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở Miến Điện. Chúng tôi sẽ không bị bỏ quên.
Bị bỏ quên. Người Pháp nói ra đi là chết một phần. Bị bỏ quên cũng là chết một phần. Là mất đi một phần những gì gắn chặt chúng ta với đồng loại. Khi tôi gặp những người Miến tị nạn và lao động di trú trong chuyến đi thăm Thái Lan gần đây, nhiều người kêu to :”Xin đừng quên chúng tôi !”. Họ muốn nói : “Đừng quên nỗi cơ cực của chúng tôi, đừng quên làm những gì có thể làm được để giúp chúng tôi, đừng quên là chúng tôi cũng thuộc về thế giới của mọi người.” Khi Uỷ ban giải Nobel trao giải hoà bình cho tôi, họ đã xác nhận những người bị kềm kẹp và phong toả ở Miến Điện cũng là một phần của thế giới, họ đã xác nhận nhân loại là một. Cho nên, đối với tôi, nhận giải Nobel hoà bình là tự mình nới rộng những khát vọng dân chủ và nhân quyền của mình ra ngoài biên giới lãnh thổ. Giải Nobel hoà bình đã mở rộng một cánh cửa trong trái tim tôi.
Có thể giải thích hoà bình trong quan niệm người Miến là hạnh phúc đạt được khi không còn những nhân tố chống đối sự hài hoà và trong lành. Từ ngữ “nyein-chan” có nghĩa nôm na là cơn mát dịu an lành sau khi lửa tắt. Lửa của khổ đau và xung đột đang hoành hành trên thế giới. Trong nước tôi, sự thù địch vẫn tiếp diễn ở vùng Bắc, bạo loạn cộng đồng ở vùng Tây dẫn đến đốt nhà, chém giết chỉ vài hôm trước khi tôi lên đường đến đây. Tin tức về những sự kiện tàn ác nhan nhản từ những nơi khác trên trái đất. Những bản tin về đói kém, bệnh tật, di tản, thất nghiệp, nghèo túng, bất công, kỳ thị, định kiến, cuồng tín đến với chúng ta như cơm bữa. Đầy rẫy khắp nơi là những thế lực tiêu cực gặm nhấm nền tảng của hoà bình. Hiển nhiên khắp nơi là sự lãng phí vô ý thức những tài nguyên vật chất và nhân lực cần thiết để giữ gìn sự hài hoà và hạnh phúc trong thế giới của chúng ta.
Đệ nhất thế chiến là một sự phí phạm kinh hoàng tuổi trẻ và tiềm lực, một sự phung phí cay nghiệt những thế lực tích cực của trái đất chúng ta. Thơ ca của thời kỳ ấy có ý nghĩa sâu sắc đối với tôi vì tôi đọc chúng lần đầu ở tuổi của những người thanh niên phải đối mặt với viễn tượng vừa chớm nở thì đã héo tàn. Một người lính Mỹ trẻ trong quân đội Lê dương Pháp viết trước khi chết trận năm 1916 là anh ta sẽ gặp tử thần “ở một chiến tuyến gay go nào đó”, “trên con dốc loang lổ của một ngọn đồi bị bằm dập”, “vào nửa đêm trong một thành phố rực lửa”. Tuổi trẻ, tình yêu và cuộc sống vĩnh viễn tiêu tán trong những nỗ lực phi lý để giành chiếm những nơi chốn không tên và không đi vào ký ức. Và để làm gì ? Gần một thế kỷ sau, chúng ta vẫn chưa tìm được câu trả lời thoả đáng.
Tuy một cách ít hung bạo hơn, chúng ta phải chăng vẫn mang tội coi thường và khinh suất tương lai chúng ta và nhân loại ? Chiến tranh không phải là lĩnh vực duy nhất hoà bình bị bóp chết. Ở nơi nào sự khổ đau không được ghi nhận, ở nơi đó có mầm mống của xung đột vì sự khổ đau gây ô nhục, gieo rắc cay đắng và nung nấu lửa giận.
Sống trong cách ly cũng có mặt tích cực là tôi có dư thì giờ để suy ngẫm về ý nghĩa của câu chữ và những châm ngôn tôi đã được học và chấp nhận trong cả cuộc đời. Là Phật tử, từ khi còn bé tôi đã được nghe nói đến “duhkha”, thường được dịch là khổ não. Gần như mỗi ngày, tôi nghe quanh tôi những người lớn tuổi, và có khi cả những người chưa gọi là già, lẩm bẩm “dukha, dukha” khi họ đau nhức hay bực mình vì một chuyện vớ vẩn nào đó. Song chỉ trong những năm tháng bị quản thúc tôi mới thật sự nghiên cứu bản chất của sáu nỗi khổ chính: sinh, lão, bệnh, tử, phải sống xa người thân yêu, buộc phải sống chung đụng với người mình không ưa thích. Tôi suy nghĩ về từng nỗi khổ, không trong bối cảnh tôn giáo mà trong cuộc sống thường, hàng ngày. Nếu khổ đau là một phần không thể tránh của cuộc đời, chúng ta phải cố giảm nhẹ càng nhiều càng tốt bằng những cách thực tiễn và trần tục. Tôi ngẫm nghĩ về hiệu quả của những chương trình bảo vệ bà mẹ và trẻ em, trước và sau khi sinh; về những cơ cấu thích đáng cho người già; về các dịch vụ y tế toàn vẹn; về sự chăm lo tận tuỵ cho những người bệnh tật, già yếu. Tôi đặc biệt thắc mắc về hai nỗi khổ cuối: phải sống xa người thân và sống gần người dưng. Đức Phật đã phải trải nghiệm những gì trong chính cuộc đời của ngài để đưa hai trạng thái này vào danh sách những nỗi khổ lớn ? Tôi nghĩ đến những kẻ bị tù đày và những người tị nạn, những người lao động xa xứ và những nạn nhân của nạn buôn người, đến hằng hà vô số những người lưu lạc trên trái đất, bị bứng ra khỏi quê hương làng mạc, biệt ly gia đình bạn bè, bắt buộc phải sống cả cuộc đời giữa những người xa lạ không phải ai cũng chào đón họ.
Chúng ta may mắn sống trong một thời kỳ mà phúc lợi xã hội và giúp đỡ nhân đạo được công nhận như một việc không chỉ nên làm mà còn phải làm. Tôi may mắn sống trong một thời kỳ mà số phận của những tù nhân lương tâm ở bất cứ đâu đã trở thành mối quan tâm của mọi người ở khắp nơi, dân chủ và nhân quyền được chấp nhận rộng rãi, dù không phải trong mọi nước, như quyền mỗi người đều có từ khi sinh ra. Biết bao lần trong những năm tháng bị quản thúc tôi đã tự động viên qua những đoạn tâm đắc nhất của lời nói đầu Bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền:
…. Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn sợ hãi và nghèo khó, được tuyên xưng là ước vọng cao nhất của con người.
…. Nhân quyền nhất thiết phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải dùng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức …
Nếu
ai hỏi tôi tại sao tôi đấu tranh
cho nhân quyền ở Miến Điện, những
đoạn trên là câu trả lời.
Nếu ai hỏi tôi tại sao tôi đấu
tranh cho dân chủ ở Miến Điện, lý
do là vì tôi tin rằng những thể
chế và thực
tiễn
dân chủ cần thiết để đảm
bảo nhân quyền.
Trong năm qua, có những dấu hiệu cho thấy các cố gắng của những người tin vào dân chủ và nhân quyền đã bắt đầu có kết quả. Đã có những thay đổi trong chiều hướng tích cực; đã có những bước tiến tới dân chủ hoá. Nếu tôi chủ trương lạc quan một cách thận trọng, không phải là vì tôi không tin ở tương lai mà là vì tôi không muốn khuyến khích một sự tin tưởng mù quáng. Nếu không tin ở tương lai, không tin chắc rằng những giá trị dân chủ và quyền cơ bản của con người không những cần thiết mà còn khả thi cho xã hội chúng tôi, phong trào của chúng tôi đã không thể tồn tại trong suốt những năm tháng bị truy diệt ấy. Có người đã ngã xuống ở vị trí tranh đấu, có người đã bỏ hàng ngũ, nhưng một thành phần nòng cốt vẫn vững vàng kiên quyết . Khi hồi tưởng về những năm đã qua, tôi sửng sốt trước số đông đảo những người vẫn kiên trì trong những lúc gian khổ nhất. Họ tin tưởng vào chính nghĩa với một niềm tin không mù quáng mà dựa vào một đánh giá sáng suốt : họ biết sức chịu đựng của chính mình, họ hết sức kính phục những khát vọng của nhân dân đồng bào.
Tôi có mặt với quí vị ngày hôm nay là nhờ những thay đổi gần đây trong nước tôi, và những thay đổi ấy đã có thể xảy ra là nhờ quí vị và những người yêu hoà bình và công lý khác đã góp phần làm thế giới nhận thức tình hình của chúng tôi. Trước khi nói tiếp về Miến Điện, tôi xin phép được nói cho những tù nhân lương tâm của chúng tôi. Vẫn còn có những tù nhân ấy ở Miến Điện. Điều đáng lo là sau khi những tù nhân nổi tiếng nhất được trả tự do, những người khác, không ai biết tên tuổi, sẽ bị bỏ quên. Tôi đứng đây vì tôi đã từng là một tù nhân lương tâm. Khi quí vị nhìn và nghe tôi đây, tôi xin quí vị nhớ đến câu nói rất đúng và vẫn thường nghe này: chỉ một tù nhân lương tâm thôi cũng đã là quá nhiều. Những người chưa được trả tự do, chưa được hưởng công lý ở nước tôi đông hơn con số một nhiều lắm. Tôi mong quí vị nhớ đến họ và làm tất cả những gì có thể làm để họ được thả trong thời hạn nhanh nhất và vô điều kiện.
Miến Điện là nước tập hợp nhiều sắc tộc và niềm tin vào tương lai chỉ có thể dựa vào một tinh thần đoàn kết thật sự. Từ khi chúng tôi giành được độc lập năm 1948, chưa có lúc nào chúng tôi có thể nói cả nước được hoà bình. Chúng tôi đã không xây dựng được sự tin cậy và cảm thông cần thiết để xoá bỏ các nguyên nhân xung đột. Những thoả thuận ngừng bắn áp dụng từ đầu thập niên 1990 cho đến 2010 đã đem lại hi vọng nhưng sụp đổ chỉ trong vài tháng. Chỉ một hành động thiếu suy nghĩ là đủ để chấm dứt một thời gian dài ngừng bắn. Trong những tháng qua, thương thuyết giữa chính quyền và các lực lượng sắc tộc đã có tiến bộ. Chúng tôi hi vọng các thoả thuận ngừng bắn sẽ dẫn đến giải pháp chính trị dựa trên ước vọng của dân chúng và tinh thần đoàn kết.
Đảng Liên minh quốc gia cho dân chủ của chúng tôi và bản thân tôi sẵn sàng đóng mọi vai trò trong công cuộc hoà giải dân tộc. Những biện pháp cải cách được nội các của Tổng thống U Thein Sein đưa vào áp dụng chỉ có thể giữ vững được với sự hợp tác thông minh của tất cả mọi thế lực trong nước: quân đội, các sắc tộc, các đảng phái, các phương tiện truyền thông, các đoàn thể của xã hội dân sự, giới kinh doanh và nhất là công chúng. Có thể nói cải cách chỉ có hiệu quả khi đời sống người dân được nâng cao và ở đây cộng đồng quốc tế đóng vai trò then chốt. Các viện trợ phát triển và giúp đỡ nhân đạo, các hiệp ước song phương và luồng đầu tư cần phải được phối hợp và điều chỉnh để đảm bảo một sự phát triển xã hội, chính trị và kinh tế cân bằng và bền vững. Tiềm năng của đất nước chúng tôi rất to lớn. Nó phải được nuôi dưỡng và phát huy để tạo một xã hội không những phồn thịnh hơn mà còn hài hoà và dân chủ hơn trong đó nhân dân chúng tôi có thể sống hoà bình, an toàn và tự do.
Hoà bình trong thế giới chúng ta là một tổng thể không thể chia cắt. Ngày nào các thế lực tiêu cực còn thắng thế các thế lực tích cực ở bất cứ đâu, tất cả chúng ta đều bị đe doạ. Có thể e rằng chả bao giờ có thể trừ diệt tất cả mọi thế lực tiêu cực. Câu trả lời đơn giản là : “Không!”. Bản chất của con người là có cả tiêu cực lẫn tích cực. Song con người cũng có khả năng củng cố tích cực và giảm thiểu hoặc vô hiệu hoá tiêu cực. Hoà bình tuyệt đối trong thế giới chúng ta là mục tiêu không thể đạt được. Nhưng đấy là một mục tiêu chúng ta phải tiếp tục đeo đuổi, không lúc nào rời mắt như người đi trong sa mạc dõi theo ngôi sao dẫn dắt mình đến nơi an toàn. Dù chúng ta không thực hiện được hoà bình vẹn toàn trên trái đất này, những nỗ lực chung để tiến đến hoà bình sẽ gắn bó các cá nhân và quốc gia trong tinh thần tin cậy và hữu nghị, giúp cộng đồng nhân loại của chúng ta trở thành một nơi an toàn và nhân ái hơn.
Tôi dùng chữ “nhân ái” sau khi đã cân nhắc kỹ, có thể nói sau nhiều năm cân nhắc kỹ. Trong những cái may của cơn hoạn nạn, và xin nói ngay chúng không nhiều đâu, cái may nhất, quí giá nhất đối với tôi là bài học rút ra về giá trị của sự nhân ái. Mọi nghĩa cử nhân ái tôi nhận được, lớn hay nhỏ, đã thuyết phục tôi là sự nhân ái dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn không đủ trong thế giới của chúng ta. Nhân ái là đáp lại với nhạy cảm và tình người những khát vọng và nhu cầu của người khác. Một thoáng nhân ái thôi cũng làm nhẹ bớt một tâm hồn u uất. Nhân ái có thể làm đổi đời. Na Uy đã là tấm gương sáng của sự nhân ái, cho người lưu vong có lại mái nhà, cho người bị tước quyền sống yên ổn và tự do tại quê hương họ có nơi ẩn náu.
Người tị nạn có mặt khắp mơi trên thế giới. Khi tôi đến trại tị nạn Maela ở Thái Lan vừa qua, tôi gặp những người tận tuỵ hàng ngày tìm cách giúp cuộc sống người trong trại bớt khó khăn vất vả. Họ lo lắng về hiện tượng “mạnh thường quân nản lòng”, cũng có thể gọi là hiện tượng “nản lòng trắc ẩn”. “Mạnh thường quân nản lòng” thể hiện cụ thể qua sự giảm sút các luồng tài trợ. “Nản lòng trắc ẩn”, khó thấy hơn, làm giảm sút sự quan tâm. Cái này là hậu quả của cái kia. Chúng ta có thể nào tự cho phép nản lòng trắc ẩn? Đáp ứng nhu cầu của những người tị nạn có tốn kém hơn cái giá sẽ phải trả nếu thờ ơ, thậm chí ngoảnh mặt làm ngơ trước khổ đau của họ ? Tôi kêu gọi các mạnh thường quân mọi nước hãy đáp ứng nhu cầu của những người đi tìm, có khi vô vọng, một chốn nương thân.
Tại Maela, tôi đã có những trao đổi rất bổ ích với những viên chức Thái trách nhiệm quản lý tỉnh Tak nơi có trại này và nhiều trại khác. Họ cho tôi biết một số vấn đề lớn nhất của các trại tị nạn: vi phạm luật bảo vệ rừng, sử dụng ma tuý trái phép, nấu rượu lậu, những khó khăn trong việc bài trừ các bệnh sốt rét, lao, sốt xuất huyết và thổ tả. Những quan ngại của cơ quan quản lý cũng chính đáng như những quan ngại của người tị nạn. Những nước đón nhận người tị nạn cũng phải được coi trọng và giúp đỡ cụ thể để khắc phục những khó khăn gắn liền với trách nhiệm của họ.
Nói cho cùng, mục đích của chúng ta là tạo ra một thế giới không còn người lưu vong, vô gia cư và vô vọng, một thế giới trong đó mỗi mảnh đất thật sự là nơi ẩn náu cho phép tất cả sống trong tự do và hoà bình. Mọi ý nghĩ, mọi câu nói, mọi hành động làm tăng lên sự tích cực và trong lành đều đóng góp cho hoà bình. Mỗi người trong chúng ta đều có thể có những đóng góp ấy. Chúng ta hãy nối tay nhau chung sức tạo một thế giới hoà bình trong đó chúng ta có thể an nhiên đi vào giấc ngủ và thức dậy trong hạnh phúc.
Uỷ ban Nobel đã kết luận bản thông cáo ngày 14.10.1991 bằng câu : “ Trao giải Nobel hoà bình… cho Aung San Suu Kyi, Uỷ ban Nobel Na uy có dụng ý vinh danh những nỗ lực bền bỉ của người phụ nữ này và bày tỏ sự ủng hộ đối với những dân tộc đang đấu tranh trong nhiều nơi trên thế giới cho dân chủ, nhân quyền và hoà giải dân tộc bằng những phương tiện hoà bình.” Khi tôi gia nhập phong trào dân chủ ở Miến Điện, tôi không hề nghĩ ngày nào đó sẽ được trao giải thưởng hay vinh dự gì. Giải thưởng chúng tôi mong có được là một xã hội tự do, yên ổn và công bằng trong đó đồng bào chúng tôi có thể phát huy tất cả mọi tiềm năng. Sự vinh dự nằm trong nỗ lực ấy. Lịch sử đã cho chúng tôi cơ hội cống hiến mọi sức lực cho chính nghĩa mà chúng tôi tin tưởng. Khi Uỷ ban Nobel chọn vinh danh tôi, tôi đã bớt cô đơn đi tiếp trên con đường mình đã tự nguyện chọn. Vì thế tôi tạ ơn Uỷ ban, nhân dân Na uy và nhân dân mọi nước, sự hỗ trợ ấy đã củng cố niềm tin của tôi vào sự phấn đấu chung cho hoà bình. Xin được cảm tạ.
Nguyên bản tiếng Anh: "Aung San Suu Kyi - Nobel Lecture". Nobelprize.org
Bản tiếng Việt : Đỗ Tuyết Khanh
Các thao tác trên Tài liệu