Con đường đến dân chủ hóa ở Trung Hoa
Con đường đến dân chủ hoá ở Trung Hoa
Một lộ trình đi tới sự chính đáng và hiện đại hoá
Mao Vu Thức (茅于轼)
Trung Quốc đã có được hai thập kỷ hiện đại hoá kinh tế thành công. Thành công đó đã tạo cho chính phủ một nền tảng khả dĩ cho tính chính đáng (legitimacy) dựa trên kết quả -- chứ không phải dựa trên hệ tư tưởng. Nhưng cải cách chính trị là cần thiết để tiếp tục quá trình này hơn nữa. Chính phủ phải để cho các ý tưởng tích cực, xây dựng được lưu thông, nhưng người dân cũng phải có trách nhiệm để tránh làm tràn ngập các cuộc thảo luận công khai đơn thuần với những ca thán. Quá trình dân chủ hoá ở Trung Quốc sẽ cần hàng thập kỷ, nhưng quá trình chậm là có thể chấp nhận được chừng nào nó không dừng lại.
Sự phát triển của cải cách chính trị ở Trung Quốc và hiện trạng của nó
Suốt 160 năm từ Chiến tranh Thuốc phiện, chúng ta đã trải qua vô số đoạn đường quanh co để theo đuổi hiện đại hoá. Hàng triệu người với những lý tưởng cao quý đã hy sinh vì nó ; nhiều người trong số họ đã bị giết hại bởi những người chống lại hiện đại hoá, nhưng còn nhiều hơn đã bỏ mạng vì những cuộc xung đột nội bộ. Tất thảy mọi người đều có những mục đích giống nhau, nhưng vì cách tiếp cận khác nhau, họ đã tiến hành vô số các cuộc đấu tranh ác liệt chống lại nhau, gây ra quá nhiều thương vong. May thay, những cái chết đó không vô ích. Nó dạy nhân dân Trung Quốc một bài học quan trọng. Cuối cùng, sau Cách mạng Văn hoá, người ta từ từ bắt đầu một lộ trình mới đi tới cải cách chính trị. Sau hơn hai mươi năm vật lộn, cuối cùng Trung Quốc đã đạt một trạng thái tương đối bình thường. Hai mươi năm vừa qua này khác với một trăm năm trước đó theo nghĩa rằng cho dù một số người quan niệm hiện đại hoá với con mắt của chủ nghĩa cộng sản chính thống cực đoan và những người khác với con mắt của chủ nghĩa tư bản phóng khoáng cực đoan ; [nhưng] họ đã không đụng độ với nhau như trong quá khứ đơn thuần chỉ vì sự khác biệt ý kiến. Ngược lại, các cuộc tranh cãi giữa họ đã mang tính xây dựng, và cuối cùng đã dẫn họ đến cùng hướng và con đường đúng đắn. Bây giờ chúng ta có một khung khổ sơ bộ của nền kinh tế thị trường, dân chủ và pháp quyền được ghi vào hiến pháp, và quan trọng nhất, cuối năm 2001, Trung Quốc đã được chấp thuận vào WTO, đánh dấu sự chấp nhận của nó đối với các tập quán thông lệ quốc tế và kết nối các đường ray ngang qua các hệ thống khác nhau. Tuy nhiên, liệu Trung Quốc có thể lĩnh hội thấu đáo và thành thục một hiến pháp dân chủ và sự hiện đại hoá hay không ? Vẫn còn quá nhiều bất trắc. Ánh bình minh đã rọi tới chúng ta, nhưng mặt trời vẫn chưa nhô lên khỏi chân trời.
Liên quan đến cải cách chính trị, chúng ta không thể nói rằng chưa có gì cả. Chúng ta có được tự do cá nhân hơn 25 trước rất nhiều, và cũng đã có một sự gia tăng về bảo vệ quyền con người, điều đó dần dần được in sâu vào đầu óc người dân. Ý thức về bảo vệ lợi ích của người dân cũng đã được tăng cường đáng kể. Trung Quốc vẫn còn xa để có nền pháp trị, nhưng pháp trị đã được chú ý rộng rãi. Hệ tư tưởng của người dân không còn giống như xưa nữa. Không có những thay đổi này, thì không thể cải cách kinh tế. Đấy là ánh sáng mà chúng ta thấy lúc rạng đông. Thí dụ, trong quá khứ, các tác phẩm kinh điển Phương Tây về khoa học xã hội đã được dịch với chủ định phê phán chúng. Với thời gian, chỉ các phần nào đó của chúng bị phê phán. Bây giờ đã chẳng còn những lời lẽ cay nghiệt và nông cạn như trước nữa. Thực ra, nếu Trung Quốc tiếp tục như chúng ta đã tiến hành trong 25 năm qua, nền dân chủ và pháp trị có thể được hoàn thành. Điểm cốt yếu đối với Trung Quốc là duy trì trạng thái ổn định hiện nay và tiếp tục cải cách để vượt qua những bất trắc của tương lai, những bất trắc có thể khiến cải cách dừng lại.
Cái gì là trở ngại chính thách thức con đường tiến lên phía trước của chúng ta ? Đó là hệ thống chính trị của đất nước chúng ta. Tuy môi trường chính trị hiện tại là tốt hơn 25 trước rất nhiều, [nhưng] đã không có bất cứ thay đổi cốt yếu nào trong hệ thống. Người dân không biết mình phải đi đâu và làm thế nào để đi đến đó. Bước đi nào là khả thi và an toàn cho tất cả các bên ? Bước đi nào là có hại cho cải cách chính trị và phải tránh bằng mọi giá ? Tuy đã có nhiều thảo luận về cải cách chính trị (hầu hết trên Internet), số lượng ca thán và bất mãn là áp đảo so với cái còn lại cho phân tích tỉnh táo. Một số tầm nhìn thật kỳ vĩ, nhưng thiếu công cụ để thực hiện. Những cái [ý] khác thì tầm thường và có ít tác động mà người dân thường bỏ qua ; tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng đôi khi cải cách thực sự bắt đầu với những thứ bề ngoài có vẻ không quan trọng.
Những thứ cốt yếu cho cải cách bao gồm thái độ mà chúng ta phải giữ cho thảo luận, quan hệ giữa nhân dân và chính phủ, và cuối cùng, phản ứng của các quan chức đối với thảo luận của người dân về cải cách chính trị. Cần phải làm rõ các vấn đề này.
Cái Cơ bản cho Cải cách Chính trị đối với Dân chúng là gì ?
Trên hết, tôi tin cải
cách chính
trị là một sự kiện lớn đối
với toàn dân tộc : nó không chỉ
liên quan đến chính phủ, mà cả
nhân dân nữa. Vì thế nó đòi
hỏi mọi người tham gia và bày tỏ
các mối quan tâm và ý kiến của
mình về cải cách chính trị.
Trước khi tất cả các thứ khác
có thể xảy ra, đầu tiên chúng
ta phải đi đến một sự đồng
thuận chung để xác lập cái chúng
ta phải làm và cái chúng ta không
nên làm. Đấy có lẽ là
bước quan trọng nhất và khó khăn
nhất. Nếu cuộc thảo luận là bình
tĩnh và có lý trí, thì rốt
cuộc sẽ đạt mục tiêu này.
Như đã nhắc đến ở trước,
hơn 20 năm cải cách đã đầy
rẫy tranh cãi và khác nhau về ý
kiến, nhưng thật may, các vấn đề
kinh tế đã khá cởi mở và
đã không có bất cứ sự đụng
độ quyết liệt nào. Cải cách
chính trị cũng không khác. Nếu
người dân có thể thảo luận
một cách bình tĩnh và hợp lí
về cái gì cần phải làm và
cái gì nên tránh, thì nhiệm
vụ đã được hoàn thành
được một nửa rồi. Từ
khi ông Đặng Tiểu Bình đề
xuất cải cách chính trị cách
đây 20 năm cho đến nay, hầu như
chưa có cuộc thảo luận nào. Ngược lại, bầu không khí
căng thẳng, người này dè chừng
người kia. Nếu tình hình này
tiếp tục, thì cải cách chính
trị sẽ lâm vào bế tắc. Vì
thế, chúng ta phải loại bỏ sự
căng thẳng như vậy và kiến tạo
một bầu không khí thuận lợi cho
thảo luận.
Hầu hết mọi người coi trở ngại này như vấn đề tự do ngôn luận. Có thể như vậy, nhưng nó không hoàn toàn đúng, bởi vì nó hàm ý rằng chính phủ là sai vì cấm đoán thảo luận và phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, chính phủ có những mối lo ngại riêng của mình. Do ảnh hưởng của sự cai trị hoàng đế ở Trung Quốc suốt hai ngàn năm qua, người dân tương đối kém giáo dục dân chủ. Đa số nhân dân tin vào sự cai trị nhân từ của một đấng minh quân và không coi nền dân chủ hiện đại như quan điểm chính trị tốt. Nếu hoàng đế bạo ngược hay đồi bại, thì nhân dân nổi loạn. Trong lịch sử Trung Quốc, đã chẳng có ai có bất cứ kinh nghiệm nào để là một công dân. Nông dân đã hoặc là ngoan ngoãn vâng lời hoặc là nổi loạn. Ngay các sĩ phu cũng chẳng khác – hoặc tán tụng hoàng đế hoặc phỉ báng chính phủ. Người dân đã thăm dò các phương pháp tìm cách làm thế nào để áp dụng một thái độ có trách nhiệm để thiết lập một lực lượng xã hội tích cực và hữu ích. Người dân hy vọng có tự do ngôn luận và kỳ vọng bắt đầu thảo luận bằng thúc đẩy cải cách chính trị, [chứ] không nhìn hai bên tranh luận. Tuy nhiên, đánh giá từ những gì có thể thấy trên Internet liên quan đến cải cách chính trị, một sự đụng độ rất có khả năng xảy ra. Vì thế, điều kiện trước hết cho quyền tự do ngôn luận là một bầu không khí bình thản và có lí trí cho thảo luận. Khác đi, thì chúng ta chỉ mắc bận với các vấn đề nông cạn và chẳng bao giờ đạt đến tâm của vấn đề.
Sự phê phán phải bắt đầu với các ý định tốt, làm cho những người khác dễ chấp nhận hơn. Ca thán và trút hết cơn giận là một chuyện, nhưng thảo luận nghiêm túc một vấn đề lại là chuyện hoàn toàn khác. Hầu hết những gì chúng ta có thể thấy trên Internet về cải cách [chính trị] là những lời than phiền, thậm chí chửi rủa. Việc trút hết một số bất mãn phải là có thể chịu đựng được, nhưng nếu tất cả mọi người thảo luận cải cách chính trị với thái độ này, thì sẽ trở thành bát nháo, chẳng đi đến đâu cả. Chúng ta phải biết rằng tự do ngôn luận không ngang bằng với bỏ qua các hậu quả. Thừa nhận hay không, mỗi từ có hệ quả riêng của nó. Chúng ta chỉ nên nói những lời tạo ra kết quả tốt, mang lại một chút hòa giải, và dần dần tạo lập sự tin cậy lẫn nhau. Về lý thuyết, với quyền tự do ngôn luận, người ta có thể nói bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, để tạo những kết quả hữu ích, ta chỉ nên nói những lời có trách nhiệm, lễ độ, nhất quán với tinh thần dân chủ, và cởi mở cho sự tham vấn. Thảo luận giữa người dân phải dựa trên các nguyên tắc này, và Đảng Cộng sản phải cung cấp chỗ cho các cuộc thảo luận hữu ích và không có hại này.
Tính chính đáng của Chính phủ Cộng sản
Trong công cuộc giải phóng, tính
chính đáng [legitimacy] của chính
quyền Cộng sản nằm ở sự thất
bại của Trung Hoa Quốc dân đảng
[người “quốc gia”] không được
quần chúng ủng hộ. Tuy nhiên, trong 30
năm tiếp theo, do chính sách “Đại
Nhảy vọt” và chế độ chuyên
chính vô sản, khoảng 20 triệu người
đã chết đói trong ba năm của
nạn đói lớn. Tiếp theo đó,
Cách mạng Văn hoá đã đẩy
dân tộc đến thống khổ. Tính
chính đáng của chính phủ Cộng
sản đã cạn kiệt. May thay, năm
1978, ông Đặng Tiểu Bình đã
ra lệnh mở cửa nền kinh tế và
bắt đầu cải cách. 25 năm thành
công này đã thiết lập tính
chính đáng của chính phủ hiện
hành. Một số người có thể
không đồng ý với quan điểm
này, nhưng tuy vậy đó là điều
quan trọng nhất, bởi vì nó là
điểm xuất phát của cuộc cải
cách chính trị hiện tại để
xác lập liệu Đảng Cộng sản
có hợp pháp, có chính đáng
hay không. Như bằng chứng về thành
công của cải cách và mở cửa,
câu trả lời là có. Trải qua một
sự thay đổi đầy kịch tính
như vậy mà không phạm bất cứ
sai lầm nào là hão huyền, không
thực tế. Thách thức bây giờ là
đi thuyết phục Đảng Cộng sản
thừa nhận các sai lầm đó và
ngăn chặn các sai lầm lớn trong tương
lai. Không ai có thể đảm bảo rằng
chắc chắn có thể tránh các sai
lầm lớn, nhưng có thể nếu chúng
ta có nền chính trị dân chủ
hơn.
Hiện nay, vẫn còn nhiều người đo lường
tính chính đáng của chính phủ
Cộng sản bằng thắng lợi
của Chiến tranh Giải phóng đối
với Quốc dân Đảng và tâm
tính thừa kế từ sự cai trị của
Mao Trạch Đông. Đấy là nhận
thức sai lầm to lớn. Nếu tính chính
đáng dựa vào chính những thứ
chúng ta cần thay đổi, thì không
thể nào thúc đẩy cải cách
chính trị, và dẫn tới sự tự
- mâu thuẫn. Nếu chúng ta bị sa lầy
vào các lý thuyết lỗi thời như
vậy, thì cải cách chẳng bao giờ
có thể bắt đầu. Thí dụ,
nếu thuê công nhân bị coi là bóc
lột, thì ngay cả vấn đề thất
nghiệp liệu có được giải
quyết ? Hãy lấy một ví dụ khác,
hàng ngàn phương châm, khẩu hiệu
của Chủ nghĩa Marx, rất ngắn gọn,
nói “nổi loạn là có lý”.
Nếu đúng thế, thì chúng ta còn
cần đến cải cách nữa không ?
Nếu những tư duy lầm lẫn như vậy
không được vứt bỏ, thì làm
sao chúng ta có thể tiến bộ ? Có
thể là khó khăn, nhưng cần phải
vạch đường tách biệt dứt
khoát giữa quá khứ và hiện tại
để tiến lên phía trước. Một
thí dụ tốt là xem xét lại hiến
pháp. Đã có rất nhiều vấn
đề trong hiến pháp, nhưng bây giờ
việc xem xét lại đã bắt đầu
và các điều kiện tương lai
đang được thực hiện. Từ từ,
nó có thể trở nên lí tưởng.
Chỉ sau khi vấn đề về tính chính đáng được giải quyết thì cải cách mới có thể bắt đầu. Khi đó Đảng Cộng sản sẽ không còn lo ngại và cho phép người dân tham gia vào thảo luận cải cách. Nếu tính chính đáng của chính phủ Cộng sản bị nghi ngờ liên hồi, thì việc thảo luận sẽ chỉ tập trung vào các vấn đề quá khứ và không vào các vấn đề sắp tới. Chúng ta phải xuất phát từ thực tế và cải thiện nó từng bước một. Chỉ với một sự đồng thuận như vậy thì một cuộc thảo luận cải cách chính trị mới có thể được tiến hành. Vì thế, không chỉ tính chính đáng của chính phủ Cộng sản phải được chấp nhận, mà người dân cũng cần hiểu rằng tính chính đáng được tạo ra bởi thành tựu nổi tiếng thế giới của cải cách và mở cửa trong 25 năm qua.
Để mở rộng nền tảng của tính chính đáng của Chính phủ Cộng sản
Lãnh đạo của chính phủ Cộng
sản được nhân dân chấp nhận,
nhưng điều này không có nghĩa
là Đảng Cộng sản được
độc quyền. Đảng viên cũng như
những người ngoài đảng phải
có quyền bày tỏ ý kiến của
mình, tham gia vào thảo luận, và làm
công việc nhà nước. Hiện tại,
Ban Tuyên truyền của đảng vẫn muốn
độc quyền công việc nhà nước,
gây khó dễ cho việc bày tỏ bất
cứ ý kiến độc lập nào. Bất
cứ sự thảo luận nào về tin tức
hay bài báo về nhân quyền, bầu
cử, tham nhũng, sự độc lập tư
pháp, sự kiện 4-6 (Thiên An Môn), hay
Pháp luân công, v.v. đều được
coi là nguy hiểm. Ngay cả những gợi ý
có giá trị học thuật hay các
kiến nghị chính sách cũng hiếm
khi có cơ hội được công bố.
Kênh mà theo đó tiếng nói của
người dân có thể đến chính
phủ hoàn toàn bị ngăn cản ; điều
này là vô cùng bất thuận lợi
cho cải cách chính trị. Như một
bước khởi đầu, chúng ta cần
để cho các gợi ý tích cực,
thân thiện, và xây dựng này có
cơ hội được công bố. Còn
đối với các ý kiến không
thân thiện, đối kháng, các
phương pháp cũ có thể được
dùng cho hiện tại. Cuối cùng, tất
cả các ý kiến chừng mực, không
lăng mạ có thể được công
bố. Tiếp nữa trong lộ trình, có
lẽ ngay cả các lời ca thán và
oán hận cũng nên có cơ hội
được nghe. Nếu cả các ý
kiến tốt và xấu đều bị cấm
công bố, và tất cả các cuộc
thảo luận bị độc chiếm, thì
làm sao chúng ta có thể nhận ra nó
là một xã hội dân chủ ?
Những người ngoài đảng phải được phép trở thành các quan chức điều hành cấp trưởng [tại các cơ quan nhà nước]. Hiện tại, tỷ lệ các bộ trưởng và thứ trưởng ngoài đảng thậm chí còn thấp hơn thời đại Mao Trạch Đông. Quản lí quốc gia mà cứ như kiểm soát đảng là điều rất không bình thường. Nếu chúng ta không vượt qua điểm này, thì dân chủ và pháp trị chỉ là những khẩu hiệu rỗng tuếch. Quốc gia sẽ tiếp tục bị quản lí như người ta quản lí Đảng Cộng sản, hay chúng ta sẽ theo điều 2 của hiến pháp, theo đó “ tất cả mọi quyền đều thuộc về nhân dân ” ? Điểm này phải được suy nghĩ cẩn trọng mà không có bất cứ sự lập lờ hay lưỡng lự nào. Khác đi thì sẽ chẳng có thể có sự thay đổi nào. Như bước đầu tiên, cơ cấu nhân sự của các [cơ quan] cấp thấp của chính phủ cần được thay đổi. Phải không có sự phân biệt nào giữa đảng viên và những người ngoài đảng trong ba cấp xã, thị và trấn, và mọi người được sử dụng dựa vào công trạng mà không có sự phân biệt. Lãnh đạo của các doanh nghiệp [nhà nước] và các tổ chức phi chính phủ (thí dụ công đoàn) cần được đối xử tương tự. Hiện tại, rất nhiều khó khăn về sắp xếp nhân sự là do sự khu biệt đảng viên không đảng viên. Tỷ lệ đảng viên trong số các đại biểu Quốc hội và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân cũng dần dần phải giảm xuống. Người ta phải biết rằng phân chia quyền lực cũng có nghĩa là phân chia trách nhiệm. Điều này đến lượt nó cũng mở rộng nền tảng chính đáng, hợp pháp của chính phủ.
Khoan dung là Cốt yếu của Toàn bộ Quá trình Cải cách Chính trị
Thành công của cải cách chính
trị và sự ổn định của công
chúng nói chung, cả hai đều phụ
thuộc vào sự khoan dung của xã hội.
Đổi lấy chính sách “ đấu
tranh giai cấp mỗi tháng, mỗi ngày ”,
chúng ta đã nhận được 25 năm
ổn định. Tuy nhiên, khi so với các
nước phát triển, chúng ta còn
rất kém khoan dung. Mặt khác, nếu tất
cả các bên đều khoan dung và coi
trọng bên kia, thì sự kiện 4-6 đã
chẳng như vậy. Để thúc đẩy
khoan dung, chúng ta cần làm việc theo
nhiều cách. Đầu tiên chúng ta
phải xác lập điều này trong luật
học và đưa nó thành tấm
gương. Giáo dục cần phải được
nhấn mạnh hơn trừng phạt, sự trừng
phạt sẽ chỉ được dùng như
công cụ phụ trợ. Chúng ta nên bỏ
cách trừng phạt “ càng
nặng,
càng kịp thời, càng nghiêm khắc ”.
Hiện tại, số các phạm nhân bị
tử hình hàng năm có lẽ ở
khoảng 10.000. Nếu chúng ta ngó tới
mức thu nhập và giáo dục của
họ, có lẽ đa số họ thuộc
tầng lớp dưới. Xã hội phải
nhận một số trách nhiệm vì sai
phạm của họ, bởi vì không có
sự giáo dục thoả đáng, ít
sự giúp đỡ cho những người
bất hạnh, và sự cảm thông quá
mỏng manh. Mặt khác, những quan chức
ăn đút lót hàng triệu Nhân
dân tệ có thể không bị tử
hình. Hiển nhiên có một mối
quan hệ giữa sự phạm tội và sự
bất công xã hội. Vì sao những
người thuộc tầng lớp thấp bị
trừng phạt nặmg đến vậy ? Vì
sao lại tàn nhẫn đến vậy đối
với nhóm người bị thiệt thòi
về quyền lợi ? Trừng phạt đến
mức tử hình để lại hàng
đống vấn đề cho cá nhân. Sẽ
chẳng còn ai lo cho con cái hay hỗ trợ
cha mẹ. Kết quả là, nhiều người
sẽ trở nên khốn cùng suốt phần
còn lại của đời họ. Thời
Mao Trạch Đông, đã có châm
ngôn nói rằng “ nếu tội
phạm
là có thể, nhưng không nhất
thiết phải trừng trị bằng án tử
hình, thì hãy cho hắn cơ hội
được sống ”. Thế thì ngày
nay vì sao chúng ta lại coi tử hình
nhẹ tênh như vậy ? Tôi gợi ý
cắt bớt dần dần số hình phạt
tử hình, cho đến khi chỉ còn một
phần mười mức hiện nay hay ít
hơn. Người Trung Quốc theo truyền thống
là một dân tộc khoan dung, nhưng Cách
mạng Văn hoá đã tiêu diệt
truyền thống này. Chúng ta có lịch
sử văn minh hàng ngàn năm và nên
là tấm gương khoan dung cho thế giới.
Trung Quốc đã cải thiện rất nhiều trong đối xử với tù chính trị. Thứ nhất, chúng ta đã loại bỏ cái gọi là các tội phản cách mạng, một khái niệm rất mơ hồ. Thứ hai và quan trọng nhất, đã không còn tội tử hình đối với tù chính trị kể từ khi cải cách và mở cửa. Đấy là sự thay đổi căn bản so với quá khứ. Tuy nhiên, vẫn còn cái gọi là “ những người phạm tội chính trị ”, cho dù chính phủ không công nhận là có. Như bước tiếp theo, chính phủ cần thay đổi thái độ của mình với và cách đối xử với các tù nhân chính trị đã bị kết án chỉ vì các tuyên bố chính trị. Có lẽ họ chưa thể được miễn trừng phạt ngay tức thì, nhưng thời hạn tù có thể và phải ngắn đi rất nhiều. Trong quá khứ, tất cả các tù nhân chính trị đã đều bị kết án nhiều hơn 10 năm tù và một số bị chung thân. Về lý thuyết, không hề được trừng phạt những người phản kháng chính trị. Thay án tử hình bằng án tù đã là một bước cải thiện. Biến án tù dài hạn thành án tù ngắn hạn sẽ là một bước tiến nữa. Và nếu Đảng Cộng sản tuyên bố ân xá cho các tù nhân chính trị, thì tính chính đáng của nó sẽ được nâng cao, vị thế quốc tế của nó sẽ tăng lên, và đặc biệt, một bầu không khí khoan dung hơn cho thảo luận chính trị sẽ được tạo ra.
Dân chủ hoá là một Quá trình
Chậm
và Không thể Vội vã Thông
qua vì Thành công
Dân chủ hoá phải là một quá trình chậm và cần đến ba bốn thập kỷ. Tuy nhiên, một số nhà hoạt động nóng vội lại muốn quá trình hoàn tất trong chốc lát. Họ nghĩ dân chủ hoá chẳng liên quan gì đến trình độ giáo dục và văn hoá của người dân, và rằng quá trình từ từ chỉ là lí do bào chữa của Đảng Cộng sản để trì hoãn việc phân chia quyền lực.
Nếu giả như quá trình dân chủ
hoá được tiến hành nhanh và
nhân dân không được chuẩn bị,
thì họ có thể chỉ thực hiện
dân chủ dưới sự chỉ huy của
một lãnh tụ, và cái gọi là
nền đại dân chủ sẽ tạo ra
cái đã thấy trong quá khứ : chế
độ độc tài. Cách mạng Văn
hoá đã chính là một trò
hề như vậy. Lãnh tụ, Mao Trạch
Đông, đã khởi xướng nó,
và nhân dân đã tham gia vào.
Mọi người đặt trí tưởng
tượng và động cơ của mình
vào toàn bộ cuộc chơi theo sự
chỉ dẫn của ông ta. Mao đã khởi
xướng và lãnh đạo Cách
mạng Văn hoá, vì thế ông ta phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nó, nhưng bởi vì hàng chục
triệu người cũng đã tham gia vào
đó, chúng ta không thể nói quần
chúng không có phần nào trách
nhiệm. Giả như Mao đã muốn khởi
xướng phong trào đó ở Hoa Kỳ,
chắc chẳng có mấy hưởng ứng,
và có lẽ xác suất của sự
thành công của ông ta là bằng
không. Điều này cho thấy chức
năng của sự hiểu biết của nhân
dân về dân chủ sẽ ảnh hưởng
đến hành động của họ. Loại
hình dân chúng quy định loại
hình chính phủ mà họ sẽ có.
Vì thế, chính phủ chỉ là cái
gương phản chiếu nhân dân. Nhân
dân một nước mà chỉ biết
răm rắp nghe lời hay nổi loạn thì
không thể nào có được một
chính quyền dân chủ. Dân chủ hoá
là một quá trình học tập triền
miên đối với tất cả mọi
người. Chỉ có tinh thần khoan dung mới
có thể liên kết họ với nhau.
Sự tiến bộ chậm là có thể chấp nhận được, chừng nào nó không dừng lại. Tuy nhiên, sự vật không thể thoái lui. Sự dân chủ hoá của Trung Quốc phải đạt được theo cách này bởi vì không chỉ đấy là quá trình cùng học hỏi, mà cũng là quá trình ít tốn kém nhất và có thể dễ được cả chính phủ và nhân dân chấp nhận. Nếu quan điểm này được tất cả những người liên quan chấp nhận, thì căng thẳng xã hội sẽ được giảm bớt. Tất cả điều này sẽ có lợi cho sự hiện đại hoá và cải cách của Trung Quốc.
Tác giả : Mao Vu Thức
(茅于
轼
/ Mao Yushi)
là thành viên của Viện
nghiên cứu độc lập Thiên Tắc
(Unirule Institute of Economics), Bắc Kinh. Bài này
được công bố trong tạp chí
China Review
của Viện Thiên Tắc, số
tháng Chín 2003.
Nguồn : bản tiếng Anh của Mao Thượng Bân / Shangbin Mao.
Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quang A (Diễn Đàn biên tập).
Các thao tác trên Tài liệu