Hồi kí cố vấn Trung Quốc (6)
VẤN
ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
VÀ
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
TRONG
CHIẾN TRANH VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Vương Nghiên Tuyền
Các phần trước :
Đây là phần thứ 6 của tập hồi kí GHI CHÉP THỰC VỀ VIỆC ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP (nxb Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002, do Dương Danh Dy dịch và hiệu đính). Tác giả là thành viên đoàn cố vấn của Trần Canh trong chiến dịch biên giới 1950, rồi làm cố vấn sư đoàn 308 cho đến năm 1953. Điều đáng chú ý là bài này có tham vọng tổng kết công tích của cố vấn Trung Quốc từ chiến dịch biên giới đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Chú thích (2) về diễn biến ở Điện Biên Phủ cho thấy rõ Vương Nghiên Tuyền đã không ngần ngại bóp méo sự việc để tranh công, khiến cho người đọc phải nghi ngờ cả những phần khác, có thể nói đúng về công tích thực sự của các cố vấn.
Cũng cần nhấn mạnh là bài viết này cho thấy rõ : (1) Mao Trạch Đông và đoàn cố vấn Trung Quốc đã liên tục gây sức ép tiến hành cải cách ruộng đất và thanh lọc quân đội ngay từ năm 1950 -- cũng phải nói thêm : sức ép đầu tiên đến từ Stalin ; (2) Hồ Chí Minh và ĐCSVN đã nhiều lần trì hoãn, cuối cùng đến năm 1953 đã tiến hành "giảm tô giảm tức" (trên thực tế, những cuộc đấu tố đã được tổ chức ngay trong thời kì nảy), tháng 12.1953 thì làm thí điểm cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên (nạn nhân đầu tiên, như ta biết, là bà Cát Hưng Long, người dã nuôi dưỡng bộ đội và nhiều cán bộ lãnh đạo). Sau Hiệp định Genève, 5 đợt cải cách ruộng đất mới được tổ chức, với những sai lầm tác hại, những tội ác ghê gớm và những hậu quả nghiêm trọng mà mọi người đều biết. Ở đây không phải chỗ để bàn sâu về mối quan hệ giữa cải cách ruộng đất & chỉnh huấn và chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng có thể nêu ra một vài ý để phản biện những luận điểm "mao... nhiều" của cố vấn họ Vương :
* ở mặt trận Điện Biên Phủ, bộ đội và cán bộ chưa bị tác động tai hại của cải cách ruộng đất : các sĩ quan, phần lớn là thành phần tiểu tư sản, chưa bị thanh lọc nhiều, bộ đội, hầu hết là nông dân, lên tình thần nhờ những hứa hẹn về ruộng đất ; những cuộc "chỉnh huấn" tuy đã nặng mùi mao có lẽ chưa biến chất được long yêu nước của binh sĩ, các phần tử lưu manh, tố điêu chưa được đề bạt nhiều để gây tác hại lớn ; tóm lại, hứa hẹn cải cách ruộng đất có lẽ đã tác động tích cực lên tinh thần chiến sĩ trong khi những tác hại "tả khuynh" trong giảm tô giảm tức chưa kịp ảnh hưởng tới bộ đội và cán bộ (theo nhiều chứng từ, tác động tiêu cực sẽ ập tới sau ngày toàn thắng ở Điện Biên)
** không thể viết lại lịch sử, nhưng có thể giả sử : nếu ĐCSVN tiến hành cải cách ruộng đất ngay từ năm 1951, với những hậu quả tai hại thấy rõ hai năm sau đó, thì kháng chiến Việt Nam có khả năng giành chiến thẳng như ở Điện Biên Phủ không ?
*** Tháng 10.1956, lãnh đạo ĐCSVN đã công khai xin lỗi nhân dân và đảng viên về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng vì những lí do đáng được tìm hiểu cặn kẽ hơn, ĐCSVN chưa hề thực sự rút kinh nghiệm rạch ròi về cuộc cải cách ruộng đất. Cái nhìn sáng suốt, tỉnh táo, và cái nhìn giáo điều, mù quáng vẫn "chung sống hoà bình" trong giới lãnh đạo. Một mặt, ta biết rằng trong thời kì 1953-54, ông Lê Duẩn, bí thư Trung ương cục, đã sáng suốt cương quyết không tiến hành cải cách ruộng đất ở Nam Bộ. Mặt khác, nhiều chứng từ cho biết khoảng năm 1964-65, đại tướng Nguyễn Chí Thanh còn có ý tiến hành cải cách ruộng đất ở miền Nam (với mục đích rất thiện ý là động viên nông dân, chuẩn bị cuộc tiến công 1968). May sao, nhiều cán bộ miền Nam (Trần Bạch Đằng, Ban nông thôn...) đã cực lực phản đối, và họ được một bức điện của chủ tịch Hồ Chí Minh ủng hộ : "Bác nghe nói chú T có chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện triệt để. Bác khuyên chú đừng làm, làm là sai, dứt khoát sai thôi" (chứng từ của ông Mười Thơ, xem Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-1975, tập II, nxb Khoa học xã hội, 2005, trang 1004).
N.N.G.
Sau
chiến dịch biên giới Việt Nam tháng
10 năm 1950, tôi tiếp tục ở lại
làm cố vấn đại đoàn 308.
Năm 1953 đến 1954 tôi về nước
học tập hệ cao cấp Học viện quân
sự Nam Kinh, đầu năm 1955 lại được
lệnh sang công tác ở Đoàn cố
vấn quân sự nước ta tại Việt
Nam. Mùa xuân 1956, bỏ tên Đoàn
cố vấn quân sự Trung Quốc tại
Việt Nam, đổi lại là Tổ chuyên
gia quân sự tại Việt Nam, tôi làm
tổ trưởng. Tháng 7/1957 tôi về
nước. Trong thời gian này, Trung ương
Đảng ta đã nhận lời mời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5/1956 cử
đồng chí Trần Canh sang Việt Nam hỗ
trợ quân đội Việt Nam xây dựng
phương án tác chiến phòng ngự,
tôi có may mắn lại theo đồng chí
Trần Canh đi khảo sát tại chỗ
những nơi Đồng Hới bắc vĩ
tuyến 17 Việt Nam, Nghệ Tĩnh, Thanh Hoá,
Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai, Yên
Bái, Mộc Châu, Sơn La, Tuần Giáo,
Điện Biên Phủ v.v.. Trong khi khảo sát,
đồng chí Trần Canh và Tổng Tư
lệnh Võ Nguyên Giáp trao đổi một
số vấn đề liên quan đến các
chiến dịch chủ yếu trong chiến tranh
chống Pháp. Khi khảo sát Điện
Biên Phủ, phía Việt Nam giới thiệu
khá tỉ mỉ tình hình chiến dịch
Điện Biên Phủ. Tôi cho rằng, trong
thời gian chống Pháp từ 1951 đến
1954, trong cán bộ lãnh đạo chủ
chốt của quân đội Việt Nam luôn
luôn có sự bất đồng nào đó
về mặt lựa chọn liên quan đến
phương hướng chiến lược, đó
là vấn đề đặt hướng tấn
công chính vào vùng đồng bằng
Bắc Bộ hay là ở vùng núi Tây
Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng
Lào. Nhân đây tôi muốn tường
thuật lại khái quát một số tình
hình mà phía Trung Quốc và phía
Việt Nam đề cập đến, bản thân
tôi đã trải nghiệm lúc bấy
giờ và tìm hiểu được trong
chuyến khảo sát thực địa lần
này.
Thứ
nhất : Tình hình chiến tranh chống
Pháp sau
chiến dịch biên giới Việt
Nam năm 1950 và
vấn đề hướng
phát triển của hai bên Pháp –
Việt
Trong tháng 9, 10 năm 1950, Việt Nam giành được thắng lợi chiến dịch Biên Giới, giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn, Đình Lập, Tiên Yên, Lào Cai, khai thông tuyến giao thông với Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, phá vỡ bao vây của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ Việt Nam, quân đội Việt Nam nắm chắc quyền chủ động chiến trường ở vùng Bắc Bộ Việt Nam, đồng thời còn giải phóng vùng Hoà Bình, đột phá hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La do địch kiểm soát, mở tuyến giao thông giữa căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ với Trung Bộ, tạo điều kiện có lợi hơn cho chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Nhưng nói về tình hình chiến tranh chống Pháp của cả ba nước Đông Dương, Việt Nam, Campuchia, Lào, quân Pháp lúc bấy giờ vẫn chiếm ưu thế, cơ bản khống chế vùng sản xuất lương thực đồng bằng đông dân cư, lại khống chế phần lớn vùng núi có giá trị chiến lược quan trọng, nói tóm lại, quân Pháp vẫn đang nắm quyền chủ động chiến lược. Sau chiến dịch biên giới, đã phá vỡ bao vây từ phía đông, phía bắc của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc (vùng Thái Nguyên, Truyên Quang, Bắc Cạn), nhưng vùng núi rộng lớn Lai Châu, Sơn La, Tây Bắc Việt Nam, Nghĩa Lộ, Phù Yên, Tây Yên Bái v.v. và vùng núi rộng lớn của Lào vẫn trong tay quân Pháp; quân Pháp vẫn đóng trên các điểm cao đe doạ căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây, đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam ở phía nam căn cứ địa, là vùng tập kết chủ lực của quân Pháp, căn cứ địa Việt Bắc, trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam vẫn trong vòng uy hiếp của quân Pháp, vẫn chưa phải là hậu phương ổn định, an toàn. Vì vậy, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông từ năm 1951 thông qua Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đã nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng Lào, nhưng không được phía Việt Nam chấp nhận.
Sau chiến dịch biên giới, Revers, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương bị triệu hồi về nước. Ngày 6/12/1950, Pháp cử Jean de Lattre de Tassigny, Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, kiêm Cao uỷ. Sau khi đến nhậm chức, De Lattre vẫn tiếp tục đặt trọng điểm tấn công vào Bắc Bộ Việt Nam, mở rộng lực lượng cơ động, phát triển nguỵ quân, tiến hành cái gọi là “chiến tranh tổng lực”, xây dựng cái gọi là “phòng tuyến boongke”, tạo ra vùng trắng, âm mưu khống chế toàn diện đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, trên cơ sở đó cơ bản khống chế uy hiếp hơn nữa căn cứ địa Bắc Bộ Việt Nam. Cái gọi là “phòng tuyến boongke” của De Lattre, tức là từ Hòn Gai theo hướng tây qua Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Vĩnh Phúc rồi theo hướng nam qua Sơn Tây, Hà Nam đến Ninh Bình, tiếp tục xây thêm công sự trên cơ sở công sự, cứ điểm sẵn có, hình thành một phòng tuyến kiên cố, nhằm cắt đứt liên hệ giữa đồng bằng và miền núi Bắc Bộ Việt Nam, hòng lấy đó để khống chế toàn diện vùng đồng bằng, uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Trên phòng tuyến và bên trong phòng tuyến này, tập kết lực lượng phòng giữ cảnh giới chủ yếu và bộ đội cơ động của Pháp, là vùng chiếm đóng của quân chủ lực Pháp là điểm mạnh về bố trí chiến lược của quân Pháp ; Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ ở Bắc Bộ Việt Nam và vùng núi rộng lớn Sầm Nứa, Xiêng Khng, Phông Xa Lì v.v.. của Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp, nhưng binh lực tương đối ít, tương đối yếu – là vùng yếu của quân Pháp. Trong tình hình trên về tổng thể quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, quân đội Việt Nam vẫn ở thế yếu, căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc vẫn chưa ổn định, không thể trở thành hậu phương an toàn, để làm suy yếu quân Pháp phát triển lực lượng chống Pháp, mở rộng vùng giải phóng xây dựng căn cứ địa Việt Bắc ổn định, xây dựng hậu phương an toàn, rộng lớn cho chiến tranh chống Pháp, thúc đẩy cuộc kháng chiến toàn quốc phát triển thắng lợi, thì hướng tấn công chủ yếu, hướng phát triển của quân đội Việt Nam đặt ở Tây Bắc và vùng núi Thượng Lào, nơi địch yếu về chiến lược về bố trí, hay là đặt ở nơi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam nơi mà địch khá mạnh về chiến lược, về bố trí và sẵn sàng chống lại ? Theo tình hình chung, phải nói rằng sự lựa chọn này không khó, nhưng trong cán bộ lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ thì trở thành vấn đề tương đối nan giải.
Ngay từ tháng 8/1950, khi Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam giới thiệu tình hình cho những cán bộ đi theo đồng chí Trần Canh, nói rất rõ ràng, vùng Tây Bắc Việt Nam là vùng tập trung dân tộc thiểu số, ngôn ngữ không thông, công tác cơ sở yếu, núi cao rừng rậm, đất rộng người thưa, thiếu thốn lương thực, giao thông không tiện, tác chiến đại binh đoàn rất khó khăn, và nói dù cho giải phóng vùng núi Tây Bắc cũng không giải quyết nổi những vấn đề mà Việt Nam đối mặt lúc bấy giờ, cho nên sau khi chiến dịch biên giới sẽ chuẩn bị phát triển về vùng trung du hoặc phát triển theo hướng Hoà Bình ; vùng trung du tức là vùng đồng bằng phía bắc Hà Nội. Sau chiến dịch biên giới, quân đội Việt Nam hành động theo phương án dự kiến này. Sau khi xem xét các mặt, đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cũng đồng ý phương án đó.
Thứ
hai : Hướng tác chiến của quân
đội Việt Nam
nhằm vào đồng
bằng Bắc Bộ,
mở ba chiến dịch từ
12/1950 đến 6/1951.
Chiến dịch biên giới kết thúc thắng lợi, tình hình chiến tranh chống Pháp ở miền Bắc Việt Nam rất tốt, quyền chủ động nằm trong tay quân đội Việt Nam, ở mức độ khá lớn. Nhưng làm thế nào để giữ vững quyền chủ động, phát triển tình hình tốt hơn, vẫn chưa phải là việc dễ dàng ở Việt Nam lúc bấy giờ. Do có những cán bộ lãnh đạo Việt Nam không muốn chấp nhận kiến nghị phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam, bị tư tưởng “tốc thắng” chi phối, đặt trọng điểm tấn công chiến lược vào vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, từ tháng 12/1950 đến 6/1951, sử dụng bộ đội chủ lực liên tiếp mở ba chiến dịch.
Từ 25/12/1950 đến 17/1/1951, mở chiến dịch trung du sông Hồng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Trần Hưng Đạo”. Vùng tiến hành chiến dịch đầu tiên tại huyện Kim Anh, huyện Đa Phúc của tỉnh Vĩnh Phúc, và huyện Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội 30km về phía bắc, sau đó chuyển sang bắc, đông Vĩnh Yên tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Phúc. Điều động bộ đội chủ lực là trung đoàn 36, 88, 102 của sư 308 và trung đoàn 141, 209 của sư 312 vào hướng chính của chiến dịch. Sau chiến dịch biên giới đến 6 tháng đầu năm 1951, quân đội Việt Nam lần lượt thành lập đại đoàn (sư) 312, đại đoàn (sư) 320, đại đoàn (sư) 316 và đại đoàn công pháo (sư) 351.
Về phía địch, sau khi De Lattre giữ chức Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương đã tăng cường xây dựng bộ đội cơ động, năm 1951 từng bước thành lập 2 đại đoàn cơ động. Sư cơ động thứ nhất do Le Blanc chỉ huy đóng ở Hà Nội, sư cơ động thứ hai do Debechou chỉ huy, đóng ở Hải Dương (trên quốc lộ 5 phía tây Hải Phòng). Có tất cả 7 trung đoàn cơ động. Mỗi trung đoàn có từ 4 đến 6 tiểu đoàn. Tuyệt đại bộ phận trong những tiểu đoàn này là lính Âu Phi, chỉ có 5 tiểu đoàn nguỵ quân, ngoài ra còn tăng cường lính dù, pháo binh, công binh. Ngày 20/3 đến 7/7/1951 trên quốc lộ 18 từ Phả Lại đến Uông Bí, cách Hải Phòng 20, 30 km về phía bắc, tây bắc, quân đội Việt Nam lại mở một chiến dịch ở vùng phía bắc sông Bạch Đằng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”. Bộ đội chủ yếu tham gia chiến đấu ở hướng chính của chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209 của đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 của đại đoàn 316.
Ngày 28/5 đến 24/6/1951, vùng Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, phía nam Liên khu 3 (trọng điểm ở hữu ngạn sông Đáy tỉnh Ninh Bình) quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch gọi là “chiến dịch Quang Trung”. Bộ đội chủ lực tham gia chiến đấu ở hướng chính chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 9, 57, trung đoàn 66 của đại đoàn 304. Đại đoàn 308 đánh trước thị xã Ninh Bình, trong khi tiêu diệt quân địch đóng giữ Ninh Bình, đã bắn chết trung úy Bernard, con của De Lattre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, tại cứ điểm Âu Hà bên bờ sông Đáy. Sau đó gặp khó khăn khi công kích cứ điểm Non Nước.
Ba chiến dịch nói trên đều tiến hành ở ven đồng bằng Bắc Bộ, trên cái gọi là “phòng tuyến boongke” của quân Pháp, hơn nữa lại tiến hành từ điểm khởi đầu và điểm kết thúc ở mặt chính và hai bên sườn của “phòng tuyến boongke” dựa vào sông, ven biển nói chung là chiến dịch tiến công cứng chạm cứng. Vì vậy kết quả của ba chiến dịch đều không lý tưởng, hơn nữa, càng đánh càng không lý tưởng. Những cứ điểm cần đánh, một số không đánh được, mà dù cho đánh được, tuyệt đại bộ phận cũng không củng cố nổi, được rồi lại mất. Trong kế hoạch đánh viện binh có cái không đánh được, có cái đánh được nhưng rất ít khi trở thành tiêu diệt chiến. Nói chung lại, cả ba chiến dịch không đạt được mục đích tiêu diệt số lượng lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, phát triển tình hình rất tốt do chiến dịch biên giới tạo ra.
Trong khi quân Pháp âm mưu phá hoại và “càn quét”, tư tưởng của cán bộ đảng, chính quyền, quân đội địa phương dao động, chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có hiện tượng co lại. Tất cả những điều đó đều ảnh hướng đến cán bộ quân đội Việt Nam, một số cán bộ bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề cơ bản của tác chiến và xây dựng quân đội. Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ có bất đồng với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của quân đội Việt Nam trên vấn đề phương hướng phát triển chiến lược cũng có những quan điểm không giống nhau lắm trên vấn đề phát động quần chúng, trên vấn đề công tác chính trị bộ đội. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt Nam giành được thắng lợi, trong “Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng Việt Nam ngày 25/11 năm đó, rõ ràng nhắc đến vấn đề phải “cải thiện đời sống nhân dân”, “động viên lực lượng toàn dân kháng chiến” nhưng mãi đến đầu những năm 50, đời sống của đông đảo nông dân nghèo khổ vẫn chịu sự bóc lột nặng nề của địa chủ và những kẻ cho vay nặng lãi. Thậm chí có những cán bộ địa phương, cán bộ quân đội xuất thân từ gia đình bóc lột, không chút giấu diếm chống lại giảm tô giảm tức cho nông dân nghèo khổ. Cho nên tính tich cực kháng chiến của đông đảo nông dân bị kìm hãm rất lớn, tinh thần chủ động cũng không được phát huy đầy đủ, đông đảo chiến sĩ trong bộ đội đa số chỉ biết làm theo mệnh lệnh, thiếu tinh thần trách nhiệm và tinh thần chủ động tích cực của người làm chủ. Tất cả những người trong đoàn cố vấn chúng tôi cho rằng như thế không thể giải thoát được nỗi khổ của đông đảo quần chúng cơ bản, không nghiêm chỉnh giải quyết vấn đề đời sống của người dân, không thể nào phát động đầy đủ quần chúng, tất nhiên cũng khó kiên trì chiến tranh chống Pháp lâu dài. Nhưng không ít các đồng chí Việt Nam không đồng ý, không coi trọng lắm ý kiến của cố vấn Trung Quốc phát động quần chúng, bất đồng về vấn đề tăng cường công tác chính trị bộ đội, cũng bắt đầu rõ rệt. Tháng 8/1950, sau khi đoàn cố vấn Trung Quốc đến Việt Nam, phía Việt Nam chỉ cần cố vấn giúp đỡ về công tác quân sự, còn về công tác chính trị không muốn để cho cố vấn nhúng tay vào. Căn cứ vào tình hình tư tưởng chính trị và tình hình quan hệ nội bộ, của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ, các cố vấn Trung Quốc cảm thấy nếu không tăng cường xây dựng công tác chính trị, thì quân đội Việt Nam khó kiên trì kháng chiến lâu dài.
Sau
chiến dịch Biên Giới, nhất là
sau ba chiến dịch ở ven đồng bằng
Bắc Bộ, các cố vấn Trung Quốc đề
xuất thêm, nếu không tăng cường
công tác chính trị cho bộ đội
thì sẽ gặp khó khăn nhiều hơn
khi tiếp tục tác chiến. Bất đồng
về mấy mặt trên đây hay là
nói những cách nhìn bất đồng
nào đó, sau ba chiến dịch ven đồng
bằng đều được đề xuất
tương đối rõ, sự phát triển
của tình hình làm cho các đồng
chí Việt Nam không thể không suy xét
những vấn đề này 1.
Thứ
ba : Quyết định của hội nghị toàn
thể lần thứ hai
Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam đối với vấn
đề quân sự :
Quân Pháp chiếm
lại vùng Hoà Bình,
quân đội
Việt Nam tiến hành chiến dịch Hoà
Bình
Ngày 27/9 đến 5/10 năm 1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp hội nghị toàn thể lần thứ hai, phân tích tình hình chiến tranh chống Pháp. Hội nghị nêu rõ : “ quân đội Việt Nam vẫn chưa giành được ưu thế về quân sự, vẫn chưa đập tan phòng tuyến của đich, vẫn chưa thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ ”; quân Pháp “ tăng cường chiến tranh toàn diện ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, làm cho chiến tranh du kích của Việt Nam “ gặp rất nhiều khó khăn mới ”, “ về mặt xây dựng bộ đội chủ lực, chất lượng chưa theo kịp số lượng, đánh du kích sau lưng địch không triển khai mạnh mẽ, chưa thể phối hợp mạnh mẽ với chiến trường chính ”. Hội nghị quyết định “ ra sức đập tan âm mưu thâm độc của địch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh dùng người Việt đánh người Việt, củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến toàn quốc, toàn dân, nâng cao chất lượng bộ đội chủ lực, ra sức tăng cường xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích ”, “ phát triển đánh du kích ”, “ nâng cao tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội ”. Vì vậy hội nghị ra “ nghị quyết về nhiệm vụ và phương châm công tác ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, yêu cầu đảng uỷ các cấp coi trọng sự lãnh đạo thống nhất đối với đấu tranh trên mọi mặt, chỉ đạo chặt chẽ công tác quân sự, căn cứ vào tình hình so sánh lực lượng địch ta, quy định tương ứng nhiệm vụ và phương châm đấu tranh, nắm bắt khắc phục tư tưởng “ tả ”, hữu khuynh tồn tại, trong bộ đội còn phải chống quân điểm quân sự đơn thuần. Để nâng cao chất lượng bộ đội, phát triển chiến tranh du kích, Tổng quân uỷ ra quyết định : thay đổi hình thức hoạt động của bộ đội chủ lực, làm cho nó thích ứng với nhu cầu của phát triển chiến tranh du kích, phương châm hoạt động là phân tán chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương, luân lưu tác chiến, bộ đội chủ lực bất cứ lúc nào cũng phải có một bộ phận tốc chiến, một bộ phận huấn luyện, một bộ phận đánh địch ở ngoại tuyến, một bộ phận đánh địch ở sau lưng địch, tác chiến kết hợp với công tác làm tan rã quân nguỵ.
Và quyết định thượng tuần tháng 10, đại đoàn 312 tấn công địch ở vùng Nghĩa Lộ Tây Bắc. Nhưng đến thượng tuần tháng 10, trên thực tế đại đoàn 312 không đi Nghĩa Lộ đánh địch. Từ nội dung của quyết định, nghị quyết nói trên có thể thấy, Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ cảm thấy một số vấn đề cải tiến đang tồn tại trong chiến tranh chống Pháp, nhưng không đi sâu trình bày, không nêu ra việc giải quyết căn bản vấn đề phát động quần chúng nông dân cần giải quyết lúc bấy giờ, cũng không nêu ra rõ ràng vấn đề tăng cường công tác tư tưởng chính trị bộ đội thay đổi phương hướng phát triển chiến lược, chủ lực vẫn quanh quẩn xung quanh đồng bằng Bắc Bộ. Tất cả các biện pháp chỉ là giải quyết một cách tương ứng một số vấn đề cụ thể.
Vì vậy sau hội nghị lần này, vẫn chưa thay đổi được tình hình vẫn từng bước phát triển bất lợi đối với kháng chiến ở Bắc Bộ Việt Nam lúc bấy giờ. Còn quân Pháp thì tương đối đứng chắc chân trên trận địa, và có sự phát triển, thậm chí De Lattre cho rằng, đã đến lúc bắt đầu phản công, giành quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ. Đây là hậu quả của quân đội Việt Nam kiên trì phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, nơi bọn địch có quân đội mạnh. Mùa đông năm 1951, tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương từ 230.000 người năm 1950, tăng lên hơn 330.000 người. Ngày 9 đến 14/11/1951 De Lattre đưa 20 tiểu đoàn binh lực đánh chiếm Hoà Bình, trong thời gian này lúc sử dụng binh lực nhiều nhất lên 27, 28 tiểu đoàn, mục đích nhằm khôi phục lại hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La đã bị quân đội Việt Nam đột phá, chia cắt lại Bắc Bộ Việt Nam, cắt đứt tuyến đường liên lạc tiếp tế giữa chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Trung Bộ, thu hút và tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam. Bố trí cụ thể của quân Pháp là : bố trí ở vùng Hoà Bình binh lực trên 8 tiểu đoàn, hình thành trận địa phòng ngự tập đoàn cứ điểm, binh lực còn lại lần lượt bố trí ở hai bờ sông Đà, bắc và đông bắc Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, để mở rộng vùng chiếm đóng, bảo vệ tuyến vận tải.
Trong tình hình quân Pháp mở lại tấn công quy mô lớn vào Bắc Bộ Việt Nam, Bộ tổng quân đội Việt Nam mời các đồng chí cố vấn Trung Quốc nghiên cứu tình hình và xác định quyết tâm và bố trí. Qua nghiên cứu cho rằng, cuộc tấn công lớn của địch tạm thời gây không ít khó khăn cho phía Việt Nam, nhưng quân địch sử dụng số lớn lực lượng cơ động ở Hoà Bình và vùng rộng lớn ở bắc và đông tỉnh này, dựa vào công sự xây dựng tạm thời, bảo vệ tuyến giao thông khá dài, đã tăng thêm nhiều cơ hội cho quân đội Việt Nam tiêu diệt sinh lực địch ; đồng thời quân Pháp đánh chiếm Hoà Bình là điều động quân từ vùng đồng bằng, vùng đồng bằng tương đối trống, tạo cơ hội rất tốt cho quân đội Việt Nam khôi phục phát triển đánh du kích ở đồng bằng ; nếu chiến trường chính diện Hoà Bình phối hợp tốt với chiến trường sau lưng địch ở đồng bằng, thì không khó tiêu diệt và đuổi cổ quân Pháp xâm chiếm Hoà Bình. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng quân đội Việt Nam quyết tâm mở chiến dịch Hoà Bình, động viên toàn bộ lực lượng, đập tan cuộc tấn công của quân Pháp lên Hoà Bình, đồng thời khôi phục, phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng trong quá trình chiến đấu. Vì vậy ngày 24/11/1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra : “ nhiệm vụ và chỉ thị về đập tan quân địch tấn công Hoà Bình ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, nêu rõ “ địch tự động ra cho chúng ta đánh ”, là một cơ hội tiêu diệt địch rất tốt, phải tích cực chủ động, kiên quyết chiến đấu ngoan cường, các mặt phối hợp chặt chẽ, đập tan kế hoạch tấn công mùa đông của địch, phát triển lực lượng chống Pháp. Bố trí cơ bản của chiến dịch là các đại đoàn : 304, 308, 312 và đại đoàn công pháo 351 tiêu diệt bộ đội cơ động quân Pháp ở trận Hoà Bình, đại đoàn 320, 316 kết hợp với bộ đội địa phương và quần chúng nhân dân phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng từ hai hướng nam bắc, tiêu diệt nguỵ quyền, làm tan rã nguỵ quân, xây dựng rộng rãi tổ chức cơ sở kháng chiến. Bố trí cụ thể của mặt trận Hoà Bình là : đợt 1 của chiến dịch đặt trọng điểm công kích vào hai bờ sông Đà bắc Hoà Bình, đại đoàn 308 ở tả ngạn, 312 ở hữu ngạn, tìm cơ hội tiêu diệt cứ điểm của địch, phục kích bộ đội vận tải của chúng ; pháo binh của đại đoàn 351 bố trí ở bên bờ sông Đà, với sự phối hợp của bộ đội đại đoàn 308, 312, phong t giao thông trên toàn sông của địch, tiêu diệt thuyền bè của địch, cố gắng buộc địch rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, mở rộng vùng chiếm đóng của quân đội Việt Nam ; đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, phía đông Hoà Bình cắt đứt tuyến giao thông tiếp tế đường số 6 của địch, kiềm chế địch ở Hoà Bình hiệp đồng tác chiến với chủ lực phía bắc. Đợt 1 chiến dịch bắt đầu từ ngày 10/12/1951, đại đoàn 308 dưới sự chỉ huy của Vương Thừa Vũ, Song Hào, đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Lê Trọng Tấn, Trần Độ, sư 304 dưới sự chỉ huy của Hoàng Minh Thảo, Lê Chưởng, đạị đoàn công pháo 351 dưới sự chỉ huy của Phạm Ngọc Mậu, đại đoàn 316 dưới sự chỉ huy của Lê Quảng Ba, Chu Huy Mân, đại đoàn 320 dưới sự chỉ huy của Văn Tiến Dũng đều đánh rất tốt, đánh nhiều trận công kiên, phục kích, chặn viện, tiêu diệt nhiều địch làm tan rã không ít nguỵ quyền, nguỵ quân. Trong đó có cuộc chiến đấu của trung đoàn 88 đại đoàn 308 đánh cứ điểm Tu Vũ cách bắc Hoà Bình 30km là nổi bật nhất. Tu Vũ là cứ điểm then chốt của quân Pháp chiếm giữ hai bờ sông Đà. Ở hai bờ sông Đà có một tiểu đoàn Âu Phi đóng giữ có chi viện của hỏa lực tại các cứ điểm lân cận. Đêm 10/2/1951 Trung đoàn 88 qua năm giờ đồng hồ chiến đấu ác liệt, ngoan cường, đã tiêu diệt quân địch đóng giữ Tu Vũ, giáng một đòn nặng nề vào khí thế hung hăng của quân Pháp, có tác dụng rất lớn buộc quân Pháp rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà.
Các bộ đội tham gia chiến đấu đến tháng 12/1951, làm cho tuyến giao thông sông Đà, tuyến giao thông quốc lộ 6 của địch ở Hoà Bình bị cắt đứt, quân địch đóng giữ Hoà Bình bị cô lập, nguyên Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu của Pháp, Cao uỷ Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương De Lattre đứng trước tình thế thất bại dồn dập, ấm ức đổ bệnh mà chết. Nước Pháp lại cử Le Tourneau làm Cao uỷ ở Đông Dương. Ngày 8/1/1952, Salan bị buộc phải rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, bắc Hoà Bình. Số quân rút đi, một phần dùng để tăng cường phòng ngự cho Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, một phần đưa về vùng đồng bằng để đối phó với chiến tranh du kích phát triển trở lại. Đến đây, đợt 1 chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi. Nhiệm vụ của đợt 2 chiến dịch Hoà Bình là tập trung lực lượng vây đánh quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, buộc địch hoàn toàn rút khỏi vùng chiếm đóng Hoà Bình, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích. Cuộc chiến đấu đợt 2 bắt đầu từ ngày 8/11/1952. Các đại đoàn chủ lực bộ đội địa phương, dân quân du kích đều đánh rất tốt. Nhất là đại đoàn 316 vượt qua “phòng tuyến boongke” của quân Pháp trên dọc tuyến quốc lộ 18 đồng bằng Bắc Bộ, đi vào đánh địch ở hai bên sườn quốc lộ 5 Hà Nội đi Hải Phòng ; đại đoàn 320 đánh địch ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, trừng trị Việt gian làm tan rã nguỵ quân, nguỵ quyền, Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến vào địa giới tỉnh Hà Đông, tạo nên mối đe doạ với Hà Nội. Cuộc chiến đấu của những bộ đội đã gây phấn chấn mạnh mẽ cho nhân dân vùng sau lưng địch, đánh vào khí thế phản động của địch, làm cho hàng vạn nguỵ quân, nhân viên nguỵ quyền rời bỏ quân Pháp, kẻ chạy trốn, kẻ đầu hàng, tổ chức cơ sở sau lưng địch của Việt Nam đã im ắng lại được khôi phục, và xây dựng được nhiều tổ chức cơ sở mới, chiến tranh du kích sau lưng địch phát triển.
Điều đó có tác dụng rất lớn đối với cô lập quân địch ở Hoà Bình, đập tan hoàn toàn cuộc tấn công Hoà Bình của quân địch. Ngày 23/2, quân địch xâm chiếm Hoà Bình, trong tình hình chiến trường chính và hậu phương đều bị tấn công nặng nề, không thể không rút lui thảm hại. Trong cả chiến dịch, đã tiêu diệt số lớn quân địch, làm tan rã số lớn nguỵ quân, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, làm cho căn cứ địa du kích, khu du kích phân tán từ Bắc Giang đến Bắc Ninh, rồi đến hai bên quốc lộ 5, cho đến Hưng yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình v.v.. đều có thể liên hệ với nhau. Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.
Chiến
dịch Hoà Bình trải qua ba tháng đã
có tác dụng bước ngoặt nhất
định dù đối với quân Pháp
hay với quân đội Việt Nam. Tình
hình quân Pháp dần dần phát
triển trong năm 1951, đến chiến dịch
Hoà Bình thì đi xuống. Sau chiến
dịch Hoà Bình kết thúc, quân
Pháp không thể mở nổi cuộc tiến
công nào có tiếng vang lớn nữa.
Tình hình bất lợi của quân đội
Việt Nam từng bước thể hiện trong
năm 1952, trải qua chiến dịch Hoà Bình
có chuyển biến, nhất là chiến
tranh du kích, sau lưng địch ở đồng
bằng đã phát triển trở lại.
So sánh thay đổi tình hình trước
và sau chiến dịch Hoà Bình, quân
đội Việt Nam đã nhìn thấy
rõ hơn vấn đề tồn tại của
mình về tác chiến, về xây dựng.
Điều đó đã tạo tiền đề
cho việc giải quyết cơ bản những
vấn đề tồn tại, phát triển
cục diện thắng lợi mới.
Thứ
tư : Quyết định của hội nghị
toàn thể lần thứ ba Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam về vấn
đề quân sự ; quân đội nhân
dân tiến hành
chỉnh huấn chính
trị, bắt đầu chuyển biến phương
hướng phát triển chiến lược,
tiến quân lên Tây Bắc, mở ra cục
diện thắng lợi mới
Tháng 4/1952, Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam suy tính tới kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, chỉ rõ : “ đã có tiến bộ rất lớn, nhưng còn có rất nhiều nhược điểm, như trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn thấp, nhất là trình độ chính trị còn chưa nâng cao, lập trường giai cấp chưa vững, cán bộ công nông chưa được đề bạt xứng đáng ”. Hội nghị thông qua nghị quyết nêu rõ : “ Muốn làm cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng, thì phải cải thiện đời sống của bộ đội, nâng cao trình độ chiến thuật kỹ thuật, nhất là phải tiến hành giáo dục chính trị và giáo dục tư tưởng đối với bộ đội làm cho quân đội có lập trường giai cấp rõ ràng, tức lập trường của quân đội nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và xây dựng cho quân đội tư tưởng giai cấp vô sản, khắc phục tư tưởng phi giai cấp vô sản, làm cho quân đội ta thực sự trở thành một quân đội cách mạng của nhân dân ”. Căn cứ vào nghị quyết này, tuyệt đại bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ quan trường hợc ở Trung Bộ, Bắc Bộ Việt Nam từ tháng 5/1952 kế tiếp nhau tiến hành chỉnh huấn chính trị dưới sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc. Đây là một cuộc vận động giáo dục và học tập chính trị tập trung nhất, rộng rãi nhất từ khi quân đội Việt Nam ra đời đến nay, cán bộ đại đội trở lên học tập giáo trình “ mấy vấn đề của cách mạng Việt Nam ”, cán bộ chiến sĩ tiểu đội trung đội học tập “ quân đội nhân dân Việt Nam ” và “ kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi ” v.v.. Để làm tốt chỉnh huấn, theo ý kiến của các đồng chí Trung Quốc, Tổng quân uỷ mở trường chính trị trung cấp, tiến hành giáo dục cán bộ trung cao cấp trước. Phương châm và biện pháp học tập là cởi mở tư tưởng, lý luận liên hệ thực tế, so sánh nhận thức cũ mới, tiến hành thảo luận, vạch rõ ranh giới giữa đúng đắn và sai lầm, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội đi sâu tiến hành giáo dục chính trị cơ bản, đó là kiến nghị của cố vấn Trung Quốc được nhiều lần nêu ra kể từ khi bắt đầu công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam tháng 8/1950, là kiến nghị mà đồng chí Trần Canh nhiều lần nhấn mạnh trong công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam ở Việt Nam năm 1950, nhưng năm 1950, 1951 không được phía Việt Nam coi trọng, thậm chí có cán bộ lãnh đạo không đồng ý. Năm 1952, phía Việt Nam từ Trung ương Đảng Lao động, Quân uỷ Trung ương đến các Tổng cục quân đội nhân dân nhấn mạnh công tác tư tưởng chính trị tất cả các cố vấn đều rất phấn khởi, dốc sức giúp đỡ từ xác định mục đích, nội dung, phương châm, chính sách, biện pháp đến tổ chức thực hiện. Phía Việt Nam từ trên xuống dưới cũng tương đối coi trọng một loạt kiến nghị của cố vấn Trung Quốc trong chỉnh huấn chính trị. Cuộc chỉnh huấn chính trị lần này đạt thành tích khá tốt qua chỉnh huấn, bước đầu nâng cao giác ngộ giai cấp của quân đội Việt Nam, làm cho cán bộ chiến sĩ nhận rõ mục đích của chiến tranh chống Pháp, vạch rõ ranh giới giữa ta bạn thù, xác định rõ bản chất và nhiệm vụ của quân đội nhân dân, uốn nắn thái độ đối với cốt cán chiến đấu công nông, nâng cao tinh thần trách nhiệm chính trị, tăng cường tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, cải thiện quan hệ nội bộ bộ đội và quan hệ quân dân, xây dựng quyết tâm chiến đấu đến cùng cho kháng chiến thắng lợi, cách mạng Việt Nam thắng lợi.
Theo tinh thần nghị quyết hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, năm 1952, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra “ nghị quyết về chế độ Đảng uỷ trong bộ đội chủ lực ”, quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng uỷ các cấp trong quân đội Việt Nam và quan hệ với đảng uỷ cao cấp địa phương, nghị quyết đó có tác dụng quan trọng trong việc Đảng Lao động Việt Nam tăng cường sự lãnh đạo đối với bộ đội, tăng cường xây dựng chi bộ của đảng. Bộ tổng còn ra chỉ thị coi trọng đề bạt cốt cát chiến đấu công nông bổ sung đội ngũ cán bộ, nhằm tư tưởng coi thường cốt cán, công nông tồn tại khá phổ biến, ngay sau đó đã mạnh dạn đề bạt một loạt cốt cán chiến đấu đã trải qua thử thách chiến đấu, làm lãnh đạo các cấp từ trung đoàn trở xuống.
Để bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ của cán bộ công nông, quân đội Việt Nam còn tăng cường lực lượng lãnh đạo cho trường lục quân, cử Lê Thiết Hùng làm Hiệu trưởng, Trần Tử Bình làm Chính uỷ. Đồng thời với việc tăng cường công tác chính trị, sự lãnh đạo của đảng, công tác cán bộ, được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, quân đội Việt Nam còn chỉnh đốn công tác của các cơ quan quân sự chính trị ; hậu cần các cấp, tăng cường xây dựng tổ chức. Qua chỉnh huấn chính trị và xây dựng chỉnh đốn toàn diện cơ quan quân sự, chính trị, hậu cần, quân đội Việt Nam trên các chiều hướng, nhất là bộ đội chủ lực trên chiến trường Bắc Bộ, đã nâng cao rõ rệt sức chiến đấu, đặt cơ sở tương đối tốt cho nhiệm vụ nặng nề sau này.
Với nhiều lần kiến nghị của Mao Chủ tịch, Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn Trung Quốc, sau khi trải qua ba chiến dịch của quân đội Việt Nam vào 6 tháng đầu năm 1951 và thể nghiệm thực tế do việc quân Pháp tấn công Hoà Bình mùa đông, tháng 4/1952, hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định rõ ràng chấp nhận kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quyết định từ nay chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc, do đó bắt đầu chuyển hướng chiến lược.
Vùng núi Tây Bắc Việt Nam là một vùng chiến lược quan trọng của quân Pháp đe doạ căn cứ địa Việt Bắc và yểm trợ vùng Thượng Lào, có quan hệ an nguy rất lớn đối với việc đồng bằng Bắc Bộ bị quân Pháp khống chế. Đối với lực lượng chống Pháp của Việt Nam mà nói, là vùng chiến lược vô cùng quan trọng, quan hệ đến việc xây dựng hậu phương lớn ổn định, an toàn, phát triển thuận lợi tình thế rất tốt của cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và việc có giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương hay không. Binh lực của quân Pháp lên bảy phần tại Vùng Tây Bắc Việt Nam có 8 tiểu đoàn 41 đại đội phân tán đóng giữ các cứ điểm quan trọng, phần lớn là nguỵ quân, sức chiến đấu không mạnh. Công sự phần nhiều không kiên cố. Những vùng Tây Bắc là vùng tập trung dân tộc thiểu số, lại là vùng núi, giao thông rất không thuận tiện, sản lượng lương thực không nhiều, dân cư thưa thớt, những điều đó gây khó khăn rất lớn cho việc tiến quân vào vùng này. Được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, để thực hiện quyết tâm tiêu diệt quân địch ở Tây Bắc, giải phóng vùng Tây Bắc, phía Việt Nam đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị, kiện toàn cơ quan hậu cần, phân phát “ điều lệ dân công ”, ra “ nghị quyết về chính sách phát động dân tộc thiểu số ”. Để xây dựng quan hệ quân dân tốt đẹp, Hồ Chủ tịch còn đích thân khởi thảo “ tám mệnh lệnh của Chính phủ gửi bộ đội và vùng mới giải phóng ”, Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục quân đội nhân dân, các bộ độ tham gia chiến đấu cũng đều làm rất nhiều công tác chuẩn bị tương ứng. Những việc làm đó đều bảo đảm đắc lực cho hành động quân sự tiến quân lên Tây Bắc sau này thuận lợi.
Bộ đội chủ lực tiến quân lên Tây Bắc là đại đoàn 308, 312, 316, đại đoàn công pháo 351, trung đoàn 148, đại đoàn 320, 304 tấn công và kiềm chế địch ở vùng đồng bằng tả hữu ngạn sông Hồng. Các đồng chí trong đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đi theo chủ lực quân đội Việt Nam lên Tây Bắc hỗ trợ chỉ huy tác chiến. Ngày 14/10/1952 bắt đầu chiến dịch tiến quân lên Tây Bắc. Các đại đoàn và trung đoàn 148 trải qua 13 ngày hành quân và chiến đấu gian khổ, đã tiêu diệt quân địch ở vùng Nghĩa Lộ, Phù Yên, Vạn Yên, Quỳnh Nhai... và giải phóng những vùng này. Sau khi bị tấn công địch hốt hoảng điều 9 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ, tăng viện cho vùng hữu ngạn sông Đà, đồng thời điều động 3 binh đoàn cơ động do De Linarès chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ chỉ huy tiến quân lên Phú Thọ, hòng phá hoại hậu phương chiến dịch của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.
Để bảo đảm chiến dịch Tây Bắc tiếp tục tiến hành thắng lợi, quân đội Việt Nam cho trung đoàn 36 thuộc sư 308, trung đoàn 176 thuộc đại đoàn 316 kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích chặn đánh cánh quân này. Trải qua hơn nửa tháng chiến đấu đã khiến chúng không đạt được mục đích mong muốn, phải rút về đồng bằng một cách thảm hại. Sau đó, trung đoàn 88, trung đoàn 102 thuộc đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209, thuộc đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 thuộc đại đoàn 316 bắt đầu đợt 2 chiến dịch Tây Bắc vào ngày 15/11/1952. Các trung đoàn nhanh chóng vượt qua sông Đà, triển khai bao vây tấn công quân địch ở các vùng dự định qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến giải phóng các thị xã, thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Sơn La, Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ v.v.. tiêu diệt số lớn quân địch ngoài nửa phía bắc của tỉnh Lai Châu và vùng Nà Sản của tỉnh Sơn La ra, còn toàn bộ vùng Tây Bắc rộng lớn đều nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Việt Nam.
Tàn quân địch ở tỉnh Sơn La có khoảng 8 tiểu đoàn binh lực, ngày 22/11 tháo chạy tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20 km về phía nam, gấp rút xây đắp công sự, nhanh chóng hình thành một cụm cứ điểm ở vùng Nà Sản. Đêm 30/11, quân đội Việt Nam tấn công cứ điểm vòng ngoài Nà Sản, tiêu diệt một số quân địch. Để đối phó với quân đội Việt Nam, quân Pháp nhanh chóng cho hai tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản. Vì đã đạt được mục đích dự định, theo kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quân đội Việt Nam chủ động đúng lúc ngừng tiến công quân địch ở Nà Sản, ngày 10/12 kết thúc thắng lợi chiến dịch Tây Bắc kéo dài gần hai tháng.
Trong quá trình tiến hành chiến dịch Tây Bắc, đại đoàn 304, 320 tích cực tấn công quân Pháp, quân nguỵ ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình v.v.. công phá một loạt cứ điểm, tiêu diệt nhiều địch, làm tan rã số lớn nguỵ quyền cơ sở, phối hợp tác chiến mạnh mẽ với chiến trường chính Tây Bắc. Do chiến tranh du kích ở các chiến trường năm 1952 có phát triển tương đối rõ rệt, đã tạo điều kiện cho trung đoàn 18, trung đoàn 95, trung đoàn 101 của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tập trung xây dựng đại đoàn chính quy, đại đoàn 325 quân đội Việt Nam chính thức thành lập vào mùa đông 1952.
Trong
chiến dịch Tây Bắc, hai chiến trường
vùng núi và đồng bằng đều
tiêu diệt rất nhiều quân địch,
giải phóng toàn bộ tỉnh Sơn La
(trừ Nà Sản), bốn huyện phía
nam tỉnh Lai Châu, hai huyện phía tây
tỉnh Yên Bái tất cả khoảng
28.000 km2 và hơn 250.000 dân làm cho vùng
núi Tây Bắc liền một dải với
căn cứ địa Việt Bắc, hình
thành một hậu phương tương đối
ổn định an toàn, mở đầu tốt
đẹp cho sự chuyển hướng chiến
lược tạo điều kiện tốt cho
tiếp tục tiến quân sau đó. Đáng
tiếc là năm 1952 phía Việt Nam vẫn
chưa đưa ra biện pháp quyết sách
mạnh mẽ đối với vấn đề
phát động nông dân.
Thứ
năm : Hội nghị toàn thể Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam năm 1953 thông qua “ Dự thảo
cương lĩnh về chính sách ruộng
đất ” ;
quân đội Việt Nam
tiếp tục chấp hành quyết định
chuyển hướng chiến lược,
tiến
quân lên Thượng Lào
Tháng 1/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị toàn thể lần thứ 4, thông qua “ Dự thảo cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”, quyết định phát động đông đảo nông dân vùng giải phóng tiến hành triệt để giảm tô, giảm tức động viên hơn nữa tính tích cực của đông đảo nông dân tham gia chiến tranh chống Pháp trên các mặt chính trị, kinh tế. Đó là một quyết định có ý nghĩa lịch sử. Trước đó, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nhiều lần nêu kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo khác của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về việc thực hành giảm tô, giảm tức, giảm nhẹ gánh nặng của nông dân, cải thiện đời sống nông dân ở vùng giải phòng Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc trong Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng sớm cảm thấy nếu không thực hành giảm tô, giảm tức, phát động hơn nữa nhiệt tình của nông dân tham gia chiến đấu thì muốn kiên trì cuộc chiến tranh chống Pháp lâu dài đến thắng lợi cuối cùng là có khó khăn. Sau khi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra quyết định phát động nông dân thực hành giảm tô, giảm tức, toàn thể cố vấn đều phấn khởi vui mừng, cho rằng, một vấn đề cơ bản trong chiến tranh chống Pháp mong đợi đã lâu bắt đầu được giải quyết, cơ sở quần chúng của chiến tranh chống Pháp sẽ càng thêm sâu rộng hơn, cùng với sự chuyển hướng chiến lược quyết định năm 1952, tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, nâng cao giác ngộ chính trị của cán bộ chỉ huy nhất định sẽ thúc đẩy rất mạnh mẽ cuộc chiến tranh chống Pháp phát triển, thắng lợi của chiến tranh chống Pháp có thể đếm từng ngày.
Để tiếp tục thi hành quyết định chuyển hướng chiến lược, mùa xuân 1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận kiến nghị của phía Trung Quốc, cùng với Chính phủ kháng chiến Lào quyết định : Cử quân đội nhân dân Việt Nam sang Lào cùng với quân giải phóng Pathet Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch giải phóng Sầm Nứa, mở rộng căn cứ địa du kích, phát triển chiến tranh chống Pháp của nhân dân Lào.
Lúc đó Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp. Sau khi thất bại ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cụm cứ điểm có ba tiểu đoàn phòng thủ. Thượng Lào là vùng núi lớn, điều kiện khí hậu điều kiện giao thông kém hơn vùng Tây Bắc Việt Nam, tác chiến ở đây khó khăn hơn nhiều so với tác chiến ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng quân đội nhân dân Việt Nam trải qua chỉnh huấn chính trị, qua rèn luyện tại chiến dịch Tây Bắc, quyết tâm và năng lực khắc phục khó khăn giành thắng lợi đã nâng cao. Được sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc, qua chuẩn bị một thời gian ngắn, mở chiến dịch Thượng Lào ngày 8/4/1953. Quân đội Việt Nam và quân giải phóng Pathet Lào tham gia chiến đấu chia làm ba mũi tấn công. Các đại đoàn 308, 316, 312 tấn công Sầm Nứa theo quốc lộ 6, mũi thứ hai là đại đoàn 304, xuất phát từ Nghệ An tấn công Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7, cắt đứt đường rút lui của địch chạy từ nam Sầm Nứa, mũi thứ ba là trung đoàn 148 chủ lực chiến trường Tây Bắc Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến công vào bắc Sầm Nứa, đe doạ Luông Prabang.
Sau khi phát hiện liên quân Lào – Việt xuất quân tấn công Thượng Lào, đêm 12/4 quân Pháp bỏ Sầm Nứa tháo chạy, từ đó chiến dịch Thượng Lào diễn biến thành một cuộc truy kích chiến lâu dài gian khổ. Quân đội Việt Nam phát huy tinh thần ngoan cường của chiến dịch Tây Bắc truy diệt quân địch, sau khi được tin quân Pháp tháo chạy, bất chấp vất vả hành quân đường dài, lập tức truy kích. Chiều tối 13/4, bộ đội đi đầu giải phóng thị xã Sầm Nứa, lúc này bọn địch đã chạy được 19 giờ, quân đội Việt Nam tiếp tục hành quân gấp rút qua truy kích bảy ngày đêm liên tục hầu như tiêu diệt toàn bộ quân địch tháo chạy. Bộ đội đại đoàn 304 tiến công theo quốc lộ 7 cũng nhanh chóng giải phóng Xiêng Khoảng. Cuộc tấn công của trung đoàn 148 cũng thuận lợi như thế, làm cho Luông Prabang bị đe doạ. Để ngăn chặn tình thế thất bại phát triển, quân địch ở Thượng Lào đưa thêm bộ đội lên Mường Xay, Luông Prabang, Cánh đồng Chum và tạm thời trụ được.
Bộ
đội chủ yếu tham gia chiến dịch
Thượng Lào từ nơi xuất phát
đến thị xã Sầm Nứa hơn
300km, từ Sầm Nứa truy kích địch
cách nhau 270 km, trên chặng đường
hơn 570 km đó đều là vùng
núi cao, hành quân rất khó khăn.
Trong trận truy diệt địch đường
dài gian khổ này, quân đội Việt
Nam được rèn luyện mới, tạo
điều kiện có lợi cho tấn công
chiến lược Đông Xuân 1953/1954.
Chiến dịch Thượng Lào gian khổ,
kết thúc thắng lợi vào ngày
3/5/1953, liên quân Việt – Lào đã
tiêu diệt quân địch ở Sầm
Nứa và số địch tháo chạy,
giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và
một phần của hai tỉnh Xiêng Khoảng
và Phong Xalì, tất cả 300.000 dân, mở
rộng căn cứ địa kháng chiến
tranh chống Pháp của Lào, làm cho
Sầm Nứa liền một dải với Tây
Bắc và căn cứ địa Việt Bắc
Việt Nam hình thành hậu phương
lớn của chiến tranh chống Pháp toàn
Đông Dương. Quân đội Việt
Nam nắm vững thêm quyền chủ động
chiến lược trong chiến tranh chống Pháp
ở Đông Dương. Lúc này càng
có nhiều người nhận thức và
lý giải được tính đúng
đắn của chuyển hướng chiến
lược của quân đội Việt Nam.
Thứ sáu : Chỉnh quân chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam năm 1953
Hội nghị toàn thể lần thứ 4 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông qua “Dự thảo cương lĩnh và chính sách ruộng đất” tháng 1-1953, còn ra quyết định về các vấn đề tình hình chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, nhiệm vụ chiến lược xây dựng bộ đội v.v..., nhấn mạnh cần tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nâng cao trình độ chính trị giác ngộ giai cấp của cán bộ chỉ huy quân đội, bảo đảm chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, tự giác tuân thủ kỷ luật chính trị, quân sự, thực hành dân chủ quân sự, chính trị kinh tế. Để quán triệt tinh thần của hội nghị năm 1953, Tổng Quân uỷ tham khảo tinh thần kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc ra quyết định chỉnh quân chính trị. Mục đích của chỉnh quân chính trị là : “nâng cao một bước giác ngộ giai cấp của bộ đội, làm trong sạch và củng cố tổ chức, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, làm cho bộ đội trở thành một đội ngũ lớn mạnh kiên quyết ủng hộ chính sách giảm tô, giảm tức của Đảng và Chính phủ”. Nội dung học tập chủ yếu là phát động quần chúng thực hành chính sách giảm tô, giảm tức và các vấn đề có liên quan. Phương châm chỉ đạo của chỉnh quân là nghiêm túc thận trọng, lấy giáo dục là chính, tiến hành điều chỉnh cần thiết về tổ chức. Để làm tốt việc chỉnh quân chính trị sâu sắc nghiêm túc chưa từng có lần này, ngày 6/3 Bộ tổng mở lớp học tập chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung cao cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lên lớp, giảng về mục đích, ý nghĩa, phương châm của chỉnh quân chính trị, nêu rõ: “dù có bao nhiêu vũ khí tinh nhuệ, nhưng nếu con người (cán bộ, chiến sĩ) không có lập trường kiên định, quan điểm đúng đắn, tư tưởng lành mạnh và tinh thần toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, thì những vũ khí đó đều không có ích gì”. Và nói: “ai cũng có thể tiến bộ, mọi người phải có quyết tâm cải tạo, tự mình phải cải tạo, quyết tâm tranh thủ tiến bộ”. Tháng 7 và tháng 8, cán bộ sơ cấp và chiến sĩ cũng tiến hành rộng khắp học tập chỉnh quân chính trị.
Năm 1953 vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng nông dân thực hành giảm tô, giảm tức chống Việt gian, chống ác bá, thực chất là một cuộc đấu tranh phong kiến dưới tiền đề chống Pháp, là một cuộc cách mạng làm chấn động cả Việt Nam, cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và tư tưởng chính trị của cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam từ trên xuống dưới đều cho rằng, chỉnh quân chính trị rất kịp thời rất quan trọng cần phải làm tốt. Tiến hành chỉnh quân chính trị là điều cố vấn Trung Quốc mong muốn từ lâu, và nhiều lần kiến nghị với Việt Nam. Sau khi Tổng Quân uỷ QĐND Việt Nam quyết định chỉnh quân chính trị, tất cả cố vấn Trung Quốc trong quân đội Việt Nam đều được động viên, lao vào vông tác giúp quân đội Việt Nam.
Làm tốt cuộc vận động chỉnh quân chính trị, tích cực giúp đỡ quân đội Việt Nam nhận thức đúng đắn và quán triệt quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phát động quần chúng giảm tô, giảm tức, hỗ trợ các cấp quân đội Việt Nam làm tốt cải tạo tư tưởng, tranh thủ tiến bộ chính trị, thực hiện mục đích chỉnh quân chính trị của Tổng quân uỷ đề ra xứng đáng với lòng mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam.
Qua chỉnh huấn chính trị, đông đảo cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam đã nâng cao giác ngộ chính trị, làm rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, ghi sâu lòng căm thù đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người làm chủ. Các cán bộ chỉ huy xuất thân từ nông dân lao động đã xoá bỏ tư tưởng tự ti, nâng cao lòng tin, tính tích cực chính trị càng lên cao. Cán bộ xuất thân từ giai cấp bóc lột quyết tâm xoá bỏ tư tưởng giai cấp bóc lột, tiến hành tự cải tạo, xây dựng tư tưởng tôn trọng chiến sĩ, trong phong trào giảm tô, giảm tức kiên định đứng về phía nhân dân lao động. Đoàn kết trong nội bộ quân đội, giữa quân đội và nhân dân được nâng lên một mức mới, tăng thêm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp, tính tích cực kháng chiến của quân dân Việt Nam và sức chiến đấu của bộ đội Việt Nam được nâng cao rất nhiều. Trên cơ sở giáo dục chỉnh huấn chính trị, tiến hành chỉnh đốn tổ chức, làm cho gần 10.000 cán bộ xuất thân từ công nông được thử thách trong chiến đấu đảm nhiệm các chức vụ quan trọng hơn, cơ quan quân sự, chính trị hậu cần các cấp trong quân đội cũng được bổ sung, lãnh đạo của Đảng các cấp được kiện toàn hơn trước, sức chiến đấu của chi bộ được nâng cao. Thông qua chỉnh quân chính trị, quân đội nhân dân Việt Nam về mặt công tác tư tưởng, chính trị hay mặt xây dựng tổ chức đều có bước nhảy vọt về chất, tinh thần muốn chiến đấu có nhiều cống hiến cho chiến tranh chống Pháp trong cán bộ chỉ huy lên cao hơn bao giờ hết, rất ít thấy tư tưởng hữu khuynh đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1951, tư tưởng ngại khó ngại khổ đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1952. Những điều đó đã đặt cơ sở chính trị và tổ chức cho các cuộc tấn công chiến lược, quyết chiến chiến lược sau này.
Trên
cơ sở chỉnh quân chính trị, tiến
hành chỉnh huấn quân sự, tăng
cường công tác xây dựng binh
chủng và tiếp tế hậu cần và
công tác chuẩn bị chiến đấu
trên các mặt khác, cung cấp bảo
đảm cần thiết cho cuộc tấn công
chiến lược, quyết chiến chiến
lược.
Thứ
bảy : Tình hình chiến tranh chống Pháp
của Việt Nam
xuân năm 1953-1954 ; quân
đội Việt Nam tiếp tục quán triệt
quyết định chuyển hướng chiến
lược,
bố trí tấn công chiến
lược quy mô lớn
Sau nhiều lần thất bại trong các chiến dịch Hoà Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương Xa Lăng bị triệu hồi về nước. Ngày 7/5/1953 đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ thoả thuận cử Henri Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Đế quốc Pháp, Mỹ có ý đồ, bắt đầu từ sáu tháng cuối năm 1953 làm cho thế thất bại của chiến tranh xâm lược chuyển biến từng bước về thế đã vạch ra cái gọi là “Kế hoạch Navarre”. Đối mặt với sự thất bại của quân Pháp lúc bấy giờ, “kế hoạch Navarre” đề xuất “Sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa”, điều kiện quân sự của phương thức giải quyết chính trị thể diện là giữ vững trận địa và hoàn thiện những trận địa này”.
Nội dung của “Kế hoạch Navarre” là ra sức phát triển nguỵ quyền, mở rộng nguỵ quân, tập trung chiếm đóng của Pháp, biên chế lại thành đại đoàn cơ động, đến năm 1954 phải xây dựng được 7 đại đoàn cơ động, để năm 1955 quyết chiến với chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam ở Bắc Bộ, giành toàn thắng ; xuân năm 1953 – 1954 giữ vững thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở Bắc Bộ, để tập trung lực lượng tiêu diệt du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, chiếm đóng vùng du kích, căn cứ địa du kích, ổn định hậu phương của quân Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch này được Mỹ ủng hộ. Ngày 24/7/1953, Ủy ban quốc phòng quốc gia Pháp do Tổng thống đứng đầu thông qua “Kế hoạch Navarre”. Để thực hiện kế hoạch này, nước Pháp điều động 12 tiểu đoàn chủ lực từ bản xứ, Bắc Phi, Triều Tiên tăng viện cho quân Pháp ở Đông Dương. Nguỵ quyền Bảo Đại Việt Nam ra lệnh tổng động viên, quyết bắt cho được 10 vạn thanh niên để mở rộng quân nguỵ. Mỹ chi 400 triệu đô la cho xây dựng nguỵ quân Việt Nam, và quyết định tăng thêm 90% viện trợ quân sự cho Pháp từ 650 triệu đô la năm 1953, tăng lên đến 1.264 triệu đô la năm 1954, chiếm 73% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, và cung cấp số lớn trang bị máy bay tàu chiến v.v.. kết quả chấp hành “Kế hoạch Navarre”, từ 5/1953 đến 3/1954 nguỵ quân Việt Nam tăng thêm 95.000 người, thành lập mới 107 tiểu đoàn, bộ đội cơ động của địch có 100 tiểu đoàn lính bộ binh, 10 tiểu đoàn lính dù, tổng binh lực lên 480.000 người, trong đó nguỵ quân khng 330.000 người.
Để thực hiện “Kế hoạch Navarre”, quân xâm lược Pháp ráo riết “càn quét” Nam Bộ, Trung Bộ và vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tập trung số lớn lực lượng phòng bị cảnh giác và một nửa binh lực cơ động, tất cả có 106 tiểu đoàn vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, tấn công điên cuồng vào quân du kích ở Nam Định, Kiến An. Đưa số đông đặc vụ, thổ phỉ thu thập tình báo, tiến hành phá hoại căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 7/1953, quân Pháp sử dụng lính dù đánh phá Lạng Sơn. Để tăng cường lực lượng cơ động, tháng 8/1953, quân Pháp ở Nà Sản vận chuyển máy bay đến đồng bằng Bắc Bộ. Quân Pháp tiến hành chuẩn bị quyết chiến với quân đội nhân dân Việt Nam trong khi tạm thời giữ thế phòng ngự.
Từ năm 1952 đến xuân 1953, Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi ba chiến dịch Trung ương Đảng Việt Nam quyết định thực hành giảm tô, giảm tức ở căn cứ địa Việt Bắc, quân đội nhân dân quyết định tiến hành chỉnh quân chính trị, ý chí chiến đấu của quân dân tăng lên cao, lực lượng chống Pháp phát triển nhanh chóng, tình hình rất tốt. Ngày 27/7/1953, đế quốc Mỹ buộc phải ký vào hiệp định đình chiến Triều Tiên thế lực xâm lược của chủ nghĩa đế quốc trên quốc tế gặp khó khăn, lực lượng hoà bình phát triển, rất có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Trong tình hình đó, tháng 9/1953 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị quân sự, thảo luận vấn đề tác chiến đông xuân 1953-1954. Tại hội nghị có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất: tập trung toàn bộ hoặc phần lớn chủ lực ở đồng bằng, hoạt động tương đối phân tán tranh thủ tiêu diệt một bộ phận quân địch, đợi địch bị tổn thất đến mức nhất định, sau khi vùng giải phóng được củng cố, rồi căn cứ vào tình hình sẽ quyết định lưu bộ đội chủ lực tiếp tục lùng ở đồng bằng hay là điều sang hướng khác. Trên thực tế ý kiến này cho rằng quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ ba Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1952 chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên Tây Bắc là sai lầm, nên trở về quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ hai Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 9/1951 về nhiệm vụ quân sự, là tư tưởng bất mãn với kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, là muốn đi con đường quay đầu lại. Việc đến tháng 9/1953 còn nêu ý kiến này, cho thấy rõ mức độ nghiêm trọng của những trở lực đối với chuyển hướng chiến lược trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu của nó là vấn đề trình độ chính trị, trình độ quân sự và vấn đề sợ khổ sợ khó, không tin tưởng lắm vào dân tộc thiểu số. Loại ý kiến thứ hai là : chủ lực của địch đang tập trung cao độ ở đồng bằng Bắc Bộ, chiến trường đồng bằng có lợi cho địch, địch đang hy vọng chủ lực ta chạm trán với chúng, chủ lực hướng về đồng bằng chỉ có thể giành được thắng lợi có hạn, không thể thay đổi tình hình chiến sự, còn bị tiêu hao ; Tây Bắc và Lào là vùng chiến lược quan trọng của địch (yếu kém) mà lại không thể từ bỏ, để chủ lực tiếp tục nhằm vào hướng này, có thể buộc lực lượng cơ động của địch ở đồng bằng phân tán phần lớn, thuận tiện cho việc tìm cơ hội tiêu diệt sinh lực địch, trên các chiến trường sau lưng địch tăng cường chiến tranh du kích tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Chủ lực tiếp tục hướng vào Tây Bắc, Lào, tuy giao thông vận tải khó khăn rất lớn nhưng thực tiễn đã chứng minh có thể giải quyết được. Kết quả thảo luận là Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định chuyển hướng chiến lược là chính xác, phê chuẩn ý kiến thứ hai. Kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “không thay đổi phương hướng chiến lược”. Bộ Chính trị thông qua “kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954”, yêu cầu chiến trường chính sử dụng bộ đội chủ lực mở ba cuộc tấn công lớn. Mục đích tấn công là : (1) tiêu diệt địch đóng ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ Tây Bắc, phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào giải phóng Phong Xalì ; (2) phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào và quân giải phóng mặt trận tự do Campuchia, tiêu diệt sinh lực địch ở Trung Lào, Thượng Lào và đông bắc Campuchia, mở rộng vùng giải phóng đến Bắc Sài Gòn, khai thông tuyến giao thông nam bắc Đông Dương ; (3) giành lấy vùng quan trọng chiến lược Tây Nguyên trước tiên giành lấy vùng bắc Tây Nguyên đập tan âm mưu của địch là phá hoại, tiêu diệt chiến tranh du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ. Kế hoạch còn quy định đưa một bộ phận chủ lực đi sâu vào sau lưng địch, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, đập tan kế hoạch “bình định”, thu hẹp vùng địch chiếm đóng, mở rộng vùng giải phóng, phối hợp tác chiến với chiến trường chính.
Để bảo đảm chắc chắn thực hiện kế hoạch tác chiến đông xuân, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục QĐNDVN còn triệu tập một loạt cuộc họp làm các công tác cụ thể trước khi tấn công, động viên 100.000 dân công, gia cố và mở rộng mạng lưới giao thông để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ vận tải khó khăn nặng nề phục vụ tác chiến miền núi. Chĩa hướng tấn công chiến lược vào Tây Bắc và Lào ; là chủ trương nhất quán và kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Đoàn cố vấn Trung Quốc. Toàn thể cán bộ của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc nhất trí ủng hộ kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì không thay đổi “phương hướng chiến lược”, và dốc sức hỗ trợ Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến tổ chức thực thi những kế hoạch đó trong điều kiện cực kỳ gian khổ.
Chủ lực Việt Nam tiến công Tây Bắc Việt Nam và Lào, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ tháng 10/1952, phải nói là một chiến dịch tiến công mang tính chiến lược, bởi vì nơi tấn công đối với hai bên Pháp, Việt mà nói đều là vùng chiến lược quan trọng, quân đội Việt Nam giành được những nơi này từ trong tay Pháp tức là tính chiến lược của quân đội Việt Nam được phát triển, tính chiến lược của quân Pháp là rút lui. Căn cứ theo tình thế và ý đồ của hai bên Việt – Pháp lúc bấy giờ để so sánh thì càng thấy là kế hoạch tác chiến Đông xuân 1953-1954 kế hoạch tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam. Trong cán bộ lãnh đạo phía Việt Nam có người không đồng ý chủ lực quân đội Việt Nam nhằm vào Tây Bắc, còn người đồng ý cũng nhận thức rất không đầy đủ ý nghĩa chiến lược quan trọng của việc giải phóng Tây Bắc Việt Nam, Lào, cho nên lúc đó không muốn gọi những chiến dịch này là chiến dịch tấn công chiến lược. Qua đó có thể thấy được việc thực hành chuyển hướng chiến lược cực kỳ quan trọng này trong cán bộ lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ gian nan biết chừng nào. Sự thực là theo tình hình của hai bên Pháp – Việt lúc đó, chiến dịch tấn công chiến lược này của quân đội Việt Nam đang tạo điều kiện có lợi cho quyết chiến chiến lược.
Mùa
đông năm 1953, khi phía Việt Nam sắp
bắt đầu chiến dịch tấn công
thì trên quốc tế chuẩn bị triệu
tập hội nghị Genève giải quyết
vấn đề sau đình chiến ở
Triều Tiên. Chủ tịch Mao Trạch Đông,
Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị
Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cuộc
tấn công ngoại giao, tranh thủ thúc
đẩy triệu tập một hội nghị
giải quyết vấn đề Việt Nam tại
hội nghị Genève. Tháng 11/1953 Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố, nêu
rõ : “Nếu Chính phủ Pháp rút
bài học trong chiến tranh Việt Nam mấy
năm qua, vui lòng thông qua hiệp thương
để thực hiện đình chiến ở
Việt Nam và giải quyết vấn đề
Việt Nam bằng phương thức hoà
bình. Nếu như vậy, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và nhân
dân vui lòng chấp nhận ý đồ
đó. Cơ sở của đình chiến
ở Việt Nam là Chính phủ Pháp
chân thành tôn trọng độc lập
thật sự của Việt Nam”. Ngoài ra
còn đưa ra đề nghị triệu tập
một hội nghị quốc tế giải quyết
vấn đề Việt Nam. Đồng thời,
Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam ra thông tri trong Đảng, trong quân đội,
nêu rõ : “Tuyệt đối không
nên có ảo tưởng hoà bình
sẽ đến rất nhanh và dễ dàng.
Chúng ta phải tăng cường kháng
chiến, tiêu diệt càng nhiều sinh lực
địch, chỉ có như vậy địch
mới chấp nhận đàm phán giải
quyết hoà bình vấn đề Việt
Nam, tôn trọng tự do, chủ quyền độc
lập của nhân dân ta”. Theo bố tri
chính trị này, ý nghĩa chính
trị của cuộc tấn công chiến lược
đông xuân của quân đội Việt
Nam càng to lớn hơn, càng mang tính
chất tạo điều kiện có lợi
cho quyết chiến chiến lược. Tình
hình thực tế sau này đúng là
đã phát triển như vậy.
Thứ
tám : Tiến công chiến lược của
quân đội Việt Nam đông xuân
1953-1954,
sự chống cự liều chết của
quân Pháp,
từng bước hình thành
tình thế quyết chiến chiến lược
Theo kế hoạch tấn công đã định, trung tuần tháng 11/1953 quân đội Việt Nam bắt đầu tiến lên Tây Bắc Việt Nam tác chiến đã định. Sau khi biết quân đội Việt Nam hành động, cảm thấy sâu sắc đang đứng trước nguy cơ mất quyền chủ động về chiến lược, ngày 20/11, quân Pháp một mặt do tướng Guth dẫn sáu tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một mặt điều binh đoàn cơ động số 2 và hai tiểu đoàn cơ động từ Trung Bộ tăng viện cho Trung Lào. Ngày 25/11, lại đưa 6 tiểu đoàn chiếm đóng Mường Khê, Mường Khay ở Thượng Lào, xây dựng phòng tuyến nam Ô Giang nối liền Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Như vậy bố trí sơ bộ của hai bên Việt – Pháp trong việc giành lấy vùng chiến lược quan trọng Tây Bắc Việt Nam, Thượng Lào, Trung Lào đã hình thành. Bố trí của quân Pháp, coi Điện Biên Phủ là “ngã tư chiến lược quan trọng” là “căn cứ không quân và lục quân quan trọng” duy trì chiến tranh xâm lược. Ngày 3/12, Tổng chỉ huy quân Pháp Navarre quyết định “không tiếc bất cứ giá nào giữ vững cứ điểm này” tuyên bố phải “nghiền nát” bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tại Điện Biên Phủ, vì thế đã nhanh chóng điều động cho Điện Biên Phủ, bày sẵn tư thế liều chết chống lại quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thảo luận đúng lúc tình hình quân sự, nghiên cứu phê chuẩn quyết tâm và kế hoạch tác chiến của Tổng quân uỷ Việt Nam do Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam vạch ra, quyết định tiếp tục chấp hành kế hoạch trước đây, giải phóng Lai Châu, Phong Xalì và Trung Lào, đồng thời quyết định tiếp theo đó “mở chiến dịch Điện Biên Phủ”, cho rằng Điện Biên Phủ là cụm cứ điểm lớn mạnh, nhưng có nhược điểm chí mạng, trơ trọi một mình, tất cả đều phải dựa vào không vận chi viện, cung cấp. Để bảo đảm chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành thuận lợi, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng chỉ huy, Chính phủ Việt Nam thành lập Ủy ban cung cấp tiền tuyến Trung ương do Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch, các nơi cũng thành lập Ban cung cấp tiền tuyến địa phương, Tổng quân uỷ cử Trần Đăng Ninh phụ trách giải quyết toàn diện vấn đề đường sá và cung cấp hậu cần cho tiền tuyến Điện Biên Phủ. Đồng thời quyết định điều động hàng loạt dân quân bảo đảm nhu cầu cấp bách sửa chữa đường sá lên Điện Biên Phủ.
Căn cứ theo kế hoạch tác chiến được Bộ Chính trị phê chuẩn, Đảng uỷ mặt trận một mặt gấp rút chuẩn bị tác chiến Điện Biên Phủ, một mặt ra lệnh cho các bộ đội triển khai tiến công theo kế hoạch đã định, ra lệnh cho đại đoàn 312, sư 316 tiến thẳng lên Tây Bắc. Ngày 7/12, bọn địch ở Lai Châu tháo chạy về phía nam, bị đại đoàn 316 tiêu diệt một bộ phận ở giữa Lai Châu – Điện Biên Phủ, Lai Châu được giải phóng nhanh chóng. Các đại đoàn 308, 351 được lệnh tiến gấp lên Điện Biên Phủ, tăng cường binh lực của quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và Trần Quý Hai được lệnh tăng cường chỉ huy bộ đội Trung, Thượng Lào, trung đoàn 101 của dại đoàn 325, trung đoàn 66 của đại đoàn 304 tiến công Trung, Hạ Lào cùng quân giải phóng Pathet Là tổ thành liên quân Việt – Lào, đánh rất tốt, tiêu diệt nhiều quân xâm lược Pháp, đến 25/12 tiến sát sông Mekong giải phóng thị trấn Thakhek Trung Lào và vùng đông Savanakhet, đại bộ phận vùng Trung Lào có giá trị chiến lược được giải phóng, quân Pháp không thể không điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ tăng viện cho Seno và Savanakhet cứ điểm còn lại ở Trung Lào. Quân đội Việt Nam theo kế hoạch tác chiến đã định, cho tiểu đoàn 436 trung đoàn 101 tiến xuống Hạ Lào, hành quân cấp tốc hơn 300km trong điều kiện hết sức khó khăn ngày 31/1/1954 bất ngờ tấn công Attopeu thị trấn quan trọng tại Hạ Lào, tiêu diệt hơn một tiểu đoàn và thừa thắng phát triển sang Saravane cơ bản giải phóng cao nguyên Bôlôven có giá trị chiến lược quan trọng. Tiếp đó chủ lực trung đoàn 101 tiến xuống phía nam vùng Đông bắc Campuchia, phối hợp với bộ đội mặt trận tự do Campuchia giải phóng Veunsai, Siembang, hình thành sự đe doạ đối với tỉnh lỵ StungTreng, đồng thời bộ đội Mặt trận tự do vùng đông Campuchia tăng cường hoạt động, giải phóng phần lớn tỉnh Kampong Cham. Đến đây, căn cứ địa vùng đông, Đông bắc Campuchia liền một dải với vùng giải phóng Hạ Lào, Trung Lào, về cơ bản đã thực hiện kế hoạch khai thông tuyến giao thống chiến lược Nam bắc Đông Dương đã định. Quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia với binh lực có hạn, trong thời gian rất ngắn đã giải phóng một vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng Trung Lào, Hạ Lào, đông bắc Campuchia, tiêu diệt nhiều địch, phân tán lực lượng cơ động của quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục phát triển tấn công chiến lược, quyết chiến Điện Biên Phủ.
Ngày 27/1/1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ liên khu 5 do Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyên Chánh làm Bí thư và dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, trung đoàn 108, trung đoàn 803 chủ lực liên khu 5 quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành kế hoạch tác chiến đã định, mở cuộc tấn công vào vùng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Bộ đội truy diệt địch trong vùng rừng rậm hơn 300km, áp sát thành phố KonTum tấn công thị xã Plâycu, ngày 5/2 giải phóng thị xã KonTum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên và tiếp tục tiến xuống phía nam áp sát quốc lộ 19 buộc quân Pháp không thể không huy động lực lượng cơ động tăng viện cho một số cứ điểm ở Playcu và nam Tây Nguyên. Điều này đã làm phân tán hơn nữa lực lượng cơ động của địch, tạo điều kiện rất có lợi cho quyết chiến Điện Biên Phủ.
Đến đây sáu con đường đông tây Việt Nam sang Lào, Campuchia đường 9, 7, 8, 12, 9, 19 v.v... đều do Việt Nam khống chế, tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Trong tình hình có lợi, để cô lập quân địch ở Điện Biên Phủ theo kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, đại đoàn 308 chuẩn bị tấn công Điện Biên Phủ được lệnh tiến công phòng tuyến Nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào. Đại đoàn 308 khắc phục khó khăn rất lớn hành quân cấp tốc hơn 200km, sau ngày 31/1 và 3/2, lần lượt tiêu diệt mười mấy đại đội ở Mường Khay, Mường Khè, Na Ngầm (Ngum), phá huỷ phòng tuyến nam Ô Giang của địch, tiến đến bờ sông Mekong, cách Luong Prabang 15km, cắt đứt đường liên lạc chiến lược giữa Thượng Lào và Điện Biên Phủ buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động tăng viện Luông Prabang. Đồng thời liên quân Việt Lào phát triển lên phía bắc, giải phóng toàn tỉnh Phong Xalì.
Trong thời gian tác chiến Đông xuân, đại đoàn 320 và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trên các chiến trường cũng theo kế hoạch, nhiệm vụ đã định, triển khai tác chiến tích cực sau lưng địch, đánh địch, phát triển chiến tranh du kích, kiềm chế, phân tán lực lượng của địch, phối hợp mạnh mẽ với tấn công của chiến trường chính. Như vậy, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia trải qua hai tháng tác chiến anh dũng, gian khổ đã đập tan hoàn toàn âm mưu ý đồ của quân Pháp ngăn chặn cuộc tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam đập tan mộng tưởng của “Kế hoạch Navarre” sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa, tiêu diệt số lớn quân địch, giành lại hầu hết các vùng trọng điểm chiến lược cao nguyên Đông Dương, làm cho bố cục chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương tản mác manh mún, tạo điều kiện có lợi cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Thắng
lợi của tác chiến tiến công
chiến lược đã thuyết minh sự
đúng đắn của chuyển hướng
chiến lược của quân đội Việt
Nam và chứng minh ý nghĩa trọng đại
của nó.
Thứ
chín : Chiến dịch Điện Biên Phủ
của quân đội Việt Nam tiến hành
mùa xuân 1954, là trận quyết chiến
chiến lược của hai quân đội
Việt – Pháp,
quân đội Việt
Nam giành được thắng lợi quyết
chiến
Sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, gia tăng công sự, tích trữ vũ khí, đạn dược và các loại vật tư, đến 3/1954, quân Pháp đã có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội ở Điện Biên Phủ. Về sau trong quá trình chiến dịch quân Pháp lại tăng viện 5 tiểu đoàn tất cả có đến 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, phần lớn là bộ đội tinh nhuệ. Hầu như toàn bộ lính nhảy dù của quân Pháp ở Đông Dương đều ở đây, còn có các bộ đội pháo binh, bộ đội công binh, bộ đội xe tăng, phân đội súng phun lửa và đội máy bay trực chiến (14 chiếc), tổng binh lực khng hơn 16.000 người. Cấu trúc công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ khá kiên cố, chia làm 8 cụm cứ điểm, ba phân khu phòng ngự. Vùng trung tâm Mường Thanh là phân khu phòng ngự trung tâm (bao gồm các điểm cao trong khng 1,500 km phía đông Mường Thanh), hai phần ba lực lượng của địch tập trung ở đây, cơ quan chỉ huy trận địa pháo binh, kho bãi hậu cần, sân bay chính cũng đều ở đây. Đồi Độc Lập cách Mường Thanh khng 4km về phía bắc cụm cứ điểm Bản Kéo, cách khng 2,500km chếch về phía tây bắc là phân khu phòng ngự phía bắc, cụm cứ điểm Him Lam cách mường Thanh 2,500km về phía đông (thuộc phân khu trung tâm Mường Thanh) tạo nên bình phong phía bắc Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách Mường Thanh khng 5km về phía nam là phân khu phòng ngự phía nam, không có sân bay và trận địa pháo binh, chịu trách nhiệm ngăn chặn quân đội Việt Nam tiến công từ phía nam. Quân Pháp dựa vào binh lực 16.000 người, hoả lực tương đối mạnh và thiết bị phòng ngự phụ khá dày đặc, xây dựng Điện Biên Phủ thành cụm cứ điểm lớn mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng hải lục không quân của nước Pháp và Tướng O'Daniel (Mỹ) sau khi đích thân thị sát cụm cứ điểm Điện Biên Phủ nhất trí cho rằng : “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “Verdun của Đông Nam Á”, đều ca ngợi quyết tâm của Navarre quyết chiến với quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, đều tin tưởng nhất định có thể đánh bại quân đội Việt Nam, tiêu hao bộ đội chủ lực của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Binh lực, hoả lực công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ quả là tương đối mạnh, nhưng cần phải thấy rằng, lúc đó bất kể tình hình chung trên chiến trường Đông Dương hay tình hình chiến trường Điện Biên Phủ, đều có lợi cho quân đội Việt Nam, mà không có lợi cho quân Pháp, quân Pháp ở Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt, kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai với Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là hoàn toàn đúng đắn, quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ cũng hoàn toàn đúng đắn. Trước hết, tình hình quốc tế lúc bấy giờ có lợi cho Việt Nam. Tập đoàn đế quốc (kể cả đế quốc Pháp) đứng đầu là đế quốc Mỹ bị thất bại trên chiến trường Triều Tiên đang đi xuống dốc. Kinh tế của đế quốc Pháp lúc bấy giờ rất khó khăn, khó đáp ứng nổi kinh phí đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa của Pháp. Có đến 73% chi phí quân sự của Pháp ở Đông Dương năm 1954 là do Mỹ viện trợ. Cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam là chính nghĩa, được tất cả lực lượng yêu chuộng hoà bình và lực lượng dân chủ trên thế giới ủng hộ, quốc tế đồng thanh lên án hành động xâm lược tàn bạo của Pháp ở Việt Nam ; Pháp rất cô lập ; hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Việt Nam đang chuẩn bị triệu tập đã bức thiết yêu cầu quân đội nhân dân Việt Nam phải đánh một trận thắng lớn thật nhanh, cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Triều Tiên và nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi, có thể chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, quân Pháp trên chiến trường Đông Dương liên tiếp bị thất bại, quân đội Việt Nam thắng lợi dồn dập. Sau khi chuyển hướng chiến lược, quân đội Việt Nam qua mấy cuộc tiến công chiến lược đã khống chế phần lớn cao nguyên và tuyến giao thông có giá trị chiến lược, bố trí phòng ngự của quân Pháp đã bắt đầu manh mún, tản mác, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường toàn Đông Dương đã từng bước rơi vào tay quân đội Việt Nam. Sau khi vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng tiến hành giảm tô, giảm tức, quân đội Việt Nam trải qua chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức và rèn luyện tiến quân lên Tây Bắc, Lào, nhiệt tình và sức chiến đấu chống Pháp lên cao và tăng cường chưa từng có. Những điều đó đã tạo điều kiện cơ bản cho quân đội Việt Nam quyết chiến với quân Pháp. Còn quân Pháp do chấp hành “kế hoạch Navarre” điên cuồng bắt lính, cướp bóc lương thực, đã rơi sâu vào trong vòng vây của nhân dân Việt Nam ; trước tấn công quy mô lớn của quân đội Việt Nam, số lớn bộ đội cơ động phân tán, càng lộ rõ thiếu binh lực, chuẩn bị quyết chiến với quân đội Việt Nam rất không đầy đủ.
Thứ ba, đối với bản thân chiến dịch Điện Biên Phủ mà nói, ưu thế cũng ở phía Việt Nam. Để ngăn chặn, phá hoại tiến công chiến lược quả quân đội Việt Nam lên Tây Bắc Việt Nam, Lào, quân Pháp không thể không tập kết nhiều binh lính ở Điện Biên Phủ, liều mạng với quân đội Việt Nam, tiến hành quyết chiến. Hai bên quyết chiến ở Điện Biên Phủ đều cách xa hậu phương của mình, nhưng trong giải quyết vấn đề giao thông cung cấp, tình hình của quân đội Việt Nam tốt hơn nhiều quân Pháp. Quân Pháp chỉ dựa vào vận tải đường không, bị hạn chế mọi mặt rất lớn. Quân đội Việt Nam có thể dựa vào ôtô, xe đạp để vận tải, ngựa thồ, mang vác v.v.. cung cấp nhu cầu cho tiền tuyến. Lúc bấy giờ tàu hỏa trong nội địa Quảng Tây đã thông đến Bằng Tường biên giới Mục Nam quan chở vũ khí, đạn dược trang bị, vật tư sang Việt Nam, chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc còn cứ không ít công nhân sửa đường hỗ trợ nhân dân các dân tộc Việt Nam sửa chữa đường sá, bảo đảm cho ôtô vận tải đến tận tiền tuyến Điện Biên Phủ. Lúc bấy giờ phần lớn ôtô của Trung Quốc đều mua của Liên Xô. Chính phủ Trung Quốc đem một số lượng khá lớn ôtô, chi viện vô giá cho quyết chiến Điện Biên Phủ của Việt Nam.
Vì vậy quân đội Việt Nam ở thế có lợi hơn quân Pháp trên vấn đề nan giải là vận tải cung cấp. Quân Pháp không thể lấy được bất cứ thứ gì ở Điện Biên Phủ ngoài một số vật tư được vận chuyển bằng máy bay; quân đội Việt Nam còn có thể được các dân tộc thiểu số địa phương ra sức chi viện ngoài dựa vào hậu phương vận tải, có một số người trong quân đội Việt Nam không tin tưởng lắm quần chúng dân tộc thiểu số, nhưng tính tích cực của quần chúng dân tộc thiểu số đối với chiến tranh chống Pháp trên thực tế không kém quần chúng dân tộc Kinh. Lương thực dùng cho bộ đội dân công tiền tuyến Điện Biên Phủ là một việc chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong nhiệm vụ vận tải cung cấp, ngoài lương thực của Trung Quốc cung cấp, lương thực của Việt Nam chuẩn bị khoảng 27.400 tấn, trong đó quần chúng dân tộc thiểu số đóng góp hơn 7.300 tấn, khoảng 1/4 lương thực của Việt Nam chuẩn bị. Điều đó giảm nhẹ rất nhiều việc chuẩn bị lương thực cho quân đội và nhiệm vụ vận tải. Ngoài ra, nói về địa hình, Điện Biên Phủ là một lòng chảo nhỏ của vùng Tây Bắc Việt Nam sát với biên giới Lào, nam bắc dài khoảng 17km, đông tây rộng khoảng sáu bảy km, chung quanh là gò đồi, đất núi, có lợi cho quân đội Việt Nam tác chiến, so sánh tình thế (quân Pháp hoàn toàn bị quân đội Việt Nam bao vây), binh lực hoả lực của hai bên Việt – Pháp ở tiền tuyến Điện Biên Phủ cũng đều có lợi cho quân đội Việt Nam.
Tóm lại, phân tích các mặt tình hình quốc tế, tình hình chiến trường Đông Dương, tình hình tiền tuyến Điện Biên Phủ quyết chiến ở Điện Biên Phủ không có lợi quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam, là thời cơ chiến đấu tốt hiếm có của quân đội Việt Nam. Từ nhu cầu của Việt Nam trong đấu tranh chính trị quốc tế lúc bấy giờ mà nói, càng nên kiên quyết đánh trận này. Nhưng lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ có người nhận thức đối với những vấn đề đó còn rất không rõ ràng do đó trong quá trình tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ cũng không phải hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.
Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm chắc thời cơ có lợi, tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là để quyết chiến với quân Pháp, làm cho Việt Nam ở vào vị thế có lợi trong đấu tranh chính trị quốc tế. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc ngoài việc dốc sức chi viện ra, còn luôn luôn thông qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh kịp thời nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam đối với tác chiến của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, các cố vấn quân sự Trung Quốc theo ý định của lãnh đạo hai bên Trung – Việt, đã hết sức cùng với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, tận tâm tận lực hỗ trợ quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Để tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, đến khoảng tháng 1/1954 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh Tổng Quân uỷ đã tập trung ở chiến trường Điện Biên Phủ 4 đại đoàn chủ lực của quân đội Việt Nam, đại đoàn 308 (trung đoàn 36, 88, 102), đại đoàn 312 (trung đoàn 141, 165, 209), đại đoàn 316 (trung đoàn 98, 174, 176), đại đoàn 304 (trung đoàn 9, 57, thiếu trung đoàn 66), tất cả 11 trung đoàn bộ binh, còn có toàn bộ đại đoàn công pháo 351 (24 khẩu pháo 105ly, 20 khẩu pháo 75 ly, 16 khẩu súng cối 120 ly một số khẩu cao xạ pháo, súng máy cao xạ, 1 trung đoàn công binh), quả là quyết tâm lớn chưa từng có.
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vốn định nhanh chóng tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ với phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” và định ngày 25/1 tổng tấn công quân Pháp. Sau đó suy tính tới việc quân Pháp đã chiếm đóng hơn 2 tháng, công sự tương đối kiên cố, chuẩn bị tương đối đầy đủ, nếu đánh nhanh thắng nhanh, trong thời gian ngắn tiêu diệt toàn bộ hơn một vạn mấy nghìn quân Pháp là rất khó khăn, theo kiến nghị của Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ nghiên cứu lại tình hình Điện Biên Phủ xác định thay đổi phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, và điều chỉnh lại bố trí theo phương châm mới. Phía Trung Quốc, quân uỷ Trung ương bày tỏ đồng ý và đề ra ý kiến cụ thể rõ ràng về vấn đề này 2. Đảng uỷ mặt trận quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành quyết định mới. Thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, mỗi lần chiến đấu có thể tập trung binh lực, hỏa lực ưu thế tuyệt đối công kích một vài điểm, có thể từng bước tiêu diệt địch bằng cách bóc vỏ măng tương đối chắc chắn, hoàn toàn nắm vững quyền chủ động chiến hướng, cuối cùng mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ địch. Sự thực sau đó chứng minh thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước” là đúng đắn.
Sau khi thay đổi phương châm tác chiến, quân đội Việt Nam ngoài tiếp tục tăng cường các công tác chuẩn bị ở tiền tuyến và hậu phương, còn cử đại đoàn 308 tiến về phía tây, đập tan phòng tuyến nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào, cô lập hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ. Sư 308 hoàn thành nhiệm vụ trở lại tiền tuyến Điện Biên Phủ vào nửa sau tháng 2/1954. Thời gian này các sư chủ lực khác ở Điện Biên Phủ không ngừng đánh quân Pháp, đi lùng, quan sát, tiêu hao quân Pháp, bảo đảm các công tác chuẩn bị cho tiền tuyến tiến hành thuận lợi. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt của quân đội Việt Nam ở mặt trận Điện Biên Phủ đã hoàn tất. Ngày 11/3 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy, bộ đội tiền tuyến đã được cổ vũ rất lớn. Ngày 13/3, quân đội Việt Nam mở cuộc tiến công quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu.
Đợt 1 chiến dịch là tấn công chiếm ba cụm cứ điểm quân Pháp được phòng thủ nghiêm ngặt ở phía bắc Điện Biên Phủ, cụm cứ điểm Him Lam, cụm cứ điểm đồi Độc Lập, cụm cứ điểm Bản Kéo, đe doạ phân khu trung tâm phòng ngự và sân bay của quân Pháp từ mặt bắc, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích từ mặt bắc. Cụm cứ điểm Him Lam ở Đông bắc Điện Biên Phủ, kiểm soát con đường từ hướng Đông bắc theo đường Tuần Giáo đi vào Điện Biên Phủ, có 5 đại đội quân Pháp canh giữ. Đồi Độc Lập ở chính bắc Điện Biên Phủ, dài khng hơn 700 mét, có 5 đại đội quân Pháp và 4 khẩu pháo cối 120mm canh giữ, nhiệm vụ của nó ngoài đề phòng quân đội Việt Nam tấn công Điện Biên Phủ từ hướng bắc, còn phụ trách bảo vệ an toàn sân bay Mường Thanh. Bốn trung đoàn 88, 141, 165, 209 của đại đoàn 308, 312 và một nửa lực lượng của đại đoàn công pháo 351, từ 15h ngày 13/3 đến ngày 17/3, trải qua chiến đấu ác liệt, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở ba cụm cứ điểm và còn đánh lui quân địch không ngừng phản kích, phá huỷ một phần trận địa pháo binh và kho thàng của địch, kiểm soát đồi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo tạo nên mối đe doạ trực tiếp mặt bắc Mường Thanh của Điện Biên Phủ. Ngày 16/3, quân Pháp lại cho ba tiểu đoàn nhảy dù tăng viện cho Điện Biên Phủ để bù lấp tiêu hao và tổn thất.
Đợt 2 chiến dịch là tiến công cụm cứ điểm quân Pháp ở các điểm cao phía đông Điện Biên Phủ, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích quân địch ở Điện Biên Phủ. Phía dưới các điểm cao phía đông là phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh – Điện Biên Phủ, cách phân khu trung tâm Mường Thanh và sân bay Mường Thanh nơi xa khng 1500 mét, nơi gần khoảng 500 mét, là dải đất trọng điểm phòng ngự của quân Pháp, có khoảng hơn 4 tiểu đoàn phòng thủ. Quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 312, 316 vào 17g ngày 30/3 tiến công quân Pháp ở các điểm cao phía đông, đêm hôm đó đánh chiếm 2/3 đồi E đông bắc, đồi D phía đông chếch bắc, đồi C1 phía đông và đồi A1 phía đông chếch nam. Đồi A1 là một điểm cao áp sát phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh tương đối gần, địa thế khá cao, rất quan trọng đối với quân Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ. Rạng sáng ngày 31/3, quân Pháp tổ chức số lớn binh lực dưới sự chi viện của pháo binh, xe tăng phản kích quân đội Việt Nam đánh lên đồi A1. Đến ngày 4/4, hai bên Việt – Pháp trải qua nhiều lần giành giật quyết liệt, giằng co qua lại, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành trạng thái cầm cự. Ngày 8/4, quân Pháp lại cho nhảy dù một tiểu đoàn xuống Điện Biên Phủ để bổ sung tổn thất. Sáng sớm ngày 9/4 quân Pháp phản kích quân đội Việt Nam đánh chiếm đồi C1. Đồi C1 cách đồi A1 tương đối gần, cũng là một điểm cao quan trọng, hai bên trải qua giành giật nhiều lần suốt bốn ngày đêm, cuối cùng cũng như thế, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành cầm cự, trải qua hơn 10 ngày chiến đấu ác liệt, ngoài tiêu diệt không ít sinh lực địch, quân đội Việt Nam đã đánh chiếm một số điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ. Đồng thời quân đội Việt Nam cũng có không ít thương vong, bộ đội tiến lên khó khăn khá lớn, thực tế hình thành trạng thái giằng co và cầm cự.
Căn cứ theo tình hình địch trinh sát được, để phá vỡ trạng thái hai bên cầm cự, quán triệt tốt hơn nữa phương châm “đánh chắc thắng chắc”, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, quyết định tăng cường cấu trúc trận địa tiến công, đào công sự xung quanh trận địa địch, không ngừng áp sát địch, chia cắt địch, đánh lấy từng trận địa địch, giành lấy địa vị xuất phát có lợi, mở cuộc tổng công kích địch, đồng thời đào hào vào trận địa chủ yếu đồi A1 của địch khống chế, chuẩn bị phối hợp tác chiến bằng bộc phá đường hào, giành lấy trận địa chủ yếu đó.
Căn cứ quyết định này, quân đội Việt Nam điều chỉnh bố trí lấy trung tâm phòng ngự Mường Thanh của địch làm mục tiêu, dại đoàn 308 phụ trách xây dựng trận địa phía tây, đại đoàn 312 phụ trách xây dựng trận địa phía bắc, đại đoàn 316 phụ trách xây dựng trận địa phía đông, trung đoàn 57 của đại đoàn 304 phụ trách xây dựng trận địa giữa phân khu Hồng Cúm (phân khu nam của quân Pháp) và phân khu trung tâm Mường Thanh. Quân đội Việt Nam chưa có kinh nghiệm về phương pháp xây dựng trận địa tiến công áp sát địch, cố vấn Trung Quốc đi sâu vào các bộ đội tấn công chính ; hỗ trợ chỉ đạo cụ thể. Xây dựng trận địa tiến công đồ sộ là một công trình rất gian khổ, đồng thời còn phải sẵn sàng đánh lui phản kích của địch, đánh lấy trận địa của địch, cũng rất căng thẳng để lâu sẽ xuất hiện tư tưởng sợ vất vả, sợ làm công sự. Qua làm công tác tư tưởng chính trị sâu sắc, khắc phục những tư tưởng đó đã xây dựng được tư tưởng không sợ vất vả, không sợ gian khổ. Kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân đich, quân đội Việt Nam triển khai thi đua đào đắp công sự sôi nổi xung quanh Điện Biên Phủ, quân Pháp quyết chiến với quân đội Việt Nam, liều mình cựa quậy, thường xuyên tiến hành các cuộc phản kích qui mô và quân đội Việt Nam, và cho nhiều máy bay thay nhau bắn phá trận địa của quân đội Việt Nam, có ngày xuất kích hơn 250 lần/chiếc.
Bom napan của địch hầu như thiêu rụi cây cối trên các đỉnh núi phía đông Điện Biên Phủ. Để đối phó với bắn phá của địch, phong tỏa chi viện của địch từ trên không cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, bộ đội pháo cao xạ kịp thời chi viện mạnh mẽ quân đội Việt Nam, khống chế vùng trời Điện Biên Phủ. Để đối phó với phản kích của địch, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, áp dụng biện pháp chủ động đánh địch triển khai thi đua các tay súng thần, tay pháo thần tiêu diệt địch, đánh cho sĩ quan binh lsinh Pháp co vòi trong trận địa không dám làm liều. Công sự của quân đội Việt Nam ngày càng áp sát địch, không ít trận địa địch bị quân đội Việt Nam đánh chiếm, liên hệ giữa phân khu nam và phân khu trung tâm của địch bị cắt đứt, sân bay Mường Thanh bị khống chế, cuối cùng diện tích địch khống chế ở phân khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn khng một cây số vuông. Vào giờ phút quan trọng này để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc Bộ để đe doạ, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-29 ném bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động.
Ngày 26/4/1954, hội nghị Genève có đại biểu của 23 nước Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Triều Tiên (kể cả Nam Triều Tiên), Việt Nam (có cả Nam Việt Nam 3), Lào, Campuchia v.v... tham gia khai mạc. Hội nghị chưa đi đến thoả thuận khi thảo luận vấn đề Triều Tiên. Khi thảo luận vấn đề Đông Dương, hội nghị có bất đồng, thái độ của đại biểu Chính phủ Pháp Laniel kiên trì chiến tranh thực dân rất xấu. Để tranh thủ triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Việt Nam có hiệu quả, Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai thông qua điện đài vô tuyến thường xuyên tìm hiểu tình hình chiến trường qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đang hỗ trợ quân đội Việt Nam tác chiến ở Điện Biên Phủ, cổ vũ hỗ trợ quân đội Việt Nam nhanh chóng tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ để tranh thủ vị thế chính trị có lợi cho Việt Nam ở hội nghị Genève.
Trước đó ngày 19/4, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp thảo luận tình hình chiến trường Điện Biên Phủ cho rằng : “Quân đội Việt Nam đã giành được thắng lợi trong tấn công hai đợt trước, đã tạo điều kiện cơ bản cho tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ”. Nhưng tư tưởng hữu khuynh còn tồn tại nghiêm trọng, gây nên tổn thất hoặc ít hoặc nhiều không cần thiết, ảnh hưởng đến thành quả thắng lợi ở mức độ nào đó. Hội nghị đề xuất chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của quân đội Việt Nam và đối với việc bảo vệ hoà bình thế giới, nhất là vào lúc hội nghị Geneve sắp triệu tập lại càng như vậy. Hội nghị vạch rõ, cần phải nỗ lực khắc phục tư tưởng hữu khuynh, kiên định lòng tin, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Và quyết định đánh toàn đảng, toàn dân, chính quyền các cấp dốc toàn lực chi viện Điện Biên Phủ, làm tốt mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch toàn thắng.
Đêm 1/5, tiến công đợt 3 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Chiến đấu đến ngày 3/5, trung đoàn 98 của đại đoàn 316 đã tiêu diệt quân địch khống chế sườn phía tây đồi C1 đông Điện Biên Phủ; trung đoàn 209 đại đoàn 312 phá huỷ hai cứ điểm dưới chân núi bên bờ sông Trắc phía đông Điện Biên Phủ, trung đoàn 88, trung đoàn 36 của đại đoàn 308 lần lượt đánh chiếm 2 cứ điểm phía tây Mường Thanh, cách sở tổng chỉ huy của địch chỉ có 300 mét. Ngày 4/5, địch cho một tiểu đoàn cuối cùng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và chuẩn bị đêm mồng 7 phá vây chạy trốn sang hướng Lào. 21g ngày 6/5, lấy bộc phá đường hào thông tới trung tâm trận địa địch đồi A1 làm tín hiệu, quân đội Việt Nam mở tổng công kích địch ở Điện Biên Phủ, các sư hiệp lực tấn công địch. Sáng ngày 7/5, quân địch vẫn tổ chức phản kích chiến đấu đến 14g ngày 7, quân Pháp bắt đầu kéo cờ trắng đầu hàng. Sau đó, quân đội Việt Nam vào bên trong đến đến đâu quân Pháp ở đó kéo cờ trắng đến đó. 17g30 ngày 7, Tướng De Castries viên chỉ huy cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ và toàn bộ sĩ quan bộ tham mưu của ông ta bị quân đội Việt Nam bắt làm tù binh, gần 10.000 quân Pháp trong công sự ra đầu hàng. Tối ngày 7, đại đoàn 304 tấn công vào Hồng Cúm hơn 2000 quân Pháp trốn chạy sang Lào, bị tiêu diệt toàn bộ ở dã ngoại. Quyết chiến Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm đã kết thúc thắng lợi. “Kế hoạch Navarre” của quân Pháp phá sản hoàn toàn. Không lâu, Chính phủ Laniel của Pháp tuyên bố từ chức.
Sau khi hơn 10.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 7/5, ở hội nghị Genève, đoàn đại biểu của Chính phủ Laniel Pháp không thể không co lại, buộc phải đồng ý triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương. Ngày 8/5, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương bắt đầu tiến hành. Đoàn đại biểu Chính phủ Pháp lúc này không chỉ ở vị thế của kẻ xâm lược phi chính nghĩa mà còn ở vị thế bất lợi của kẻ chiến bại. Ngược lại, Đoàn trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng không chỉ ở vị thế chính nghĩa chống bọn xâm lược, mà còn ở vị thế cực kỳ có lợi giành được chiến thắng to lớn trong chiến tranh. Thế nhưng do đại biểu Mỹ phá hoại và đại biểu chính phủ Laniel Pháp cản trở, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương chưa thể đi đến hiệp nghị nhanh chóng, cuộc chiến đấu trên chiến trường Đông Dương vẫn tiếp tục.
Được thắng lợi Điện Biên Phủ cổ vũ, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội mặt trận tự do Campuchia trên các chiến trường Đông Dương triển khai toàn diện tấn công quân Pháp, tiêu diệt rất nhiều quân Pháp và quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, trong đó đặc biệt là cuộc chiến đấu của trung đoàn 96 quân đội Việt Nam ngày 24/6 trên quốc lộ 19 An Khê đi Pleiku tiêu diệt 1 trung đoàn bộ binh, và 1 tiểu đoàn pháo binh của binh đoàn cơ động 100 tinh nhuệ của quân Pháp, giáng một đòn nặng nề vào quân Pháp. Tháng 6/1954, Chính phủ Laniel Pháp từ chức, Chính phủ Mendès-France lên thay, buộc phải có thái độ tương đối hiện thực. Hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương đàm phán đến ngày 21/7 đạt được hiệp định về khôi phục hoà bình ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu của Hiệp định là đình chỉ hành động đối địch ở ba nước Đông Dương, các nước tham dự hội nghị bảo đảm tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp nội bộ của ba nước, ba nước lần lượt tổ chức bầu cử tự do toàn quốc vào tháng 7/1956. Mỹ kiên trì dã tâm đối với ba nước Đông Dương không chịu ký tên vào hiệp định này, nhưng ra tuyến bố giả vờ Mỹ không sử dụng vũ lực để gây cản trở thực thi hiệp định.
Trước khi ký hiệp định Genève về vấn đề Đông Dương, trước cuộc đấu tranh đe doạ tấn công của nhân dân, quân đội ba nước Đông Dương, quân Pháp rút dần khỏi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngày 10/6 rút khỏi Việt Trì, ngày 28, 29, 30 rút khỏi Thái Bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, ngày 1/7 rút khỏi Nam ĐỊnh, ngày 3/7 rút khỏi Phủ Lý. Đến đây, ngoài tuyến Hà Nội – Hải Phòng – Sơn Tây và vùng chật hẹp dọc hai bên đường, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam do quân đội Việt Nam kiểm soát. Phép biện chứng của chiến tranh là như vậy, năm 1951 quân đội Việt Nam đưa chủ lực nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, không những không lấy được đồng bằng, mà ngược lại làm cho chiến tranh du kích ở đồng bằng xuất hiện hiện tượng co cụm ; mùa đông năm 1952, bắt đầu đưa chủ lực vào vùng núi, sau 20 tháng, không chỉ khống chế miền núi mà còn nắm cả đồng bằng trong tay. Ngày 21/7/1954, hội nghị Geneve về vấn đề Đông Dương ký kết hiệp định, tuyên bố bế mạc. Ngày 22/7, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ra lệnh chiến trường Việt Nam ngừng bắn, cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp xâm lược bắt đầu từ ngày 23/9/1945 kết thúc thắng lợi. Theo hiệp định quân đội Việt Nam tiến vào Hà Nội, quân Pháp hoàn toàn rút lui. Ngày 1/1/1955, nhân dân Hà Nội mittinh chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh thắng lợi trở về Hà Nội. Ngày 16/5/1955 đại đoàn 320 quân đội Việt Nam tiếp quản Hải Phòng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng.
Theo
hiệp định Geneve, bộ đội và
quân tình nguyện Việt Nam tại
Campuchia tập kết tại miền nam Việt Nam
sau khi rút về miền Bắc Việt Nam, đã
biên chế thành đại đoàn
330, 338, 305, 324, 335.
Thứ
mười : Đã có phương hướng
phát triển chiến lược đúng
đắn,
còn phải có đông đảo
quần chúng nhân dân và đông
đảo cán bộ chỉ huy
dốc sức
tham gia chiến đấu, mới có thể
giành được thắng lợi
Năm 1951, quân đội Việt Nam chưa chấp nhận kiến nghị đặt hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào đặt hướng phát triển chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam có trọng binh quân Pháp đóng giữ, đánh phá cái gọi là phòng tuyến “boongke” của quân Pháp, nhiều lần không đạt được mục đích chiến dịch, không những không thể thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ, mà còn hầu như đánh mất quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ Việt Nam đã giành được qua chiến dịch biên giới, ngược lại quân Pháp đã chuyển từ thế thủ sang thế công, đánh chiếm vùng Hoà Bình lần nữa. Mùa đông năm 1952 quân đội Việt Nam bắt đầu chấp nhận kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, sử dụng chủ lực vào vùng Tây Bắc Việt Nam có vị thế chiến lược quan trọng, binh lực địch suy yếu, đã giành được thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc mùa đông năm 1952, chiến dịch Thượng Lào mùa xuân 1953, làm cho tình hình chung trên chiến trường Đông Dương bắt đầu có thay đổi, bất lợi cho quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam.
Tháng 9/1953, trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, có một số người nêu ra ý kiến khác với hướng chiến lược và tiếp tục nhằm vào Tây Bắc, Lào, nảy sinh dao động lại muốn sử dụng bộ đội chủ lực vào đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Rất may là, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì áp dụng kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, tiếp tục đưa chủ lực nhằm vào Tây Bắc, Lào và giành được thắng lợi rất lớn trong tấn công chiến lược đông xuân 1953-1954, không những làm rối loại bố trí chiến lược của quân Pháp, giành quyền chủ động về chiến lược, mà còn giữ chân quân Pháp ở Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho quân đội Việt Nam tiến hành quyết chiến chiến lược với quân Pháp.
Thượng tuần tháng 5 năm 1956, tôi theo đồng chí Trần Canh đến xem địa hình hình Điện Biên Phủ, khi ôtô đi qua thượng nguồn sông Nậm Hu phía tây Tuần Giáo một cán bộ cơ sở của quân đội Việt Nam nói với tôi : Con sông này đến mùa mưa, ôtô không thể vượt qua được, khi chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, nếu ngày 10/5 (mùa mưa ở miền Bắc Việt Nam nói chung bắt đầu trước sau trung tuần tháng 5) vẫn không thể giải quyết được chiến đấu, dù cho các đồng chí Trung Quốc nói thế nào chúng tôi cũng không đánh. Liên hệ một số tình hình của phía quân đội Việt Nam vào lúc căng thẳng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 4/1954, cách nói của vị cán bộ phụ trách là đáng tin. Phương châm đặt phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào mà Mao Chủ tịch kiến nghị, Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định, dắt dẫn chiến tranh chống Pháp giành được thắng lợi, đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.
Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trên vấn đề quán triệt chuyển hướng chiến lược trọng đại từ 1951 đến 1954, đã trải qua một quá trình quanh co, phức tạp. Mặt khác, hướng chiến lược đúng hay không, rõ ràng là có vai trò quyết định với sự phát triển của tình hình. Nhưng, nếu không có sự phát động đầy đủ và sự ủng hộ tích cực đối với chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không có cán bộ chỉ huy có giác ngộ chính trị cao tích cực lao vào cuộc chiến tranh, dù cho hướng chiến lược đúng đắn đến đâu, vẫn không làm được. Thử nghĩ, nếu đầu năm 1953 vẫn không giảm tô, giảm tức, đi sâu phát động quần chúng nông dân, cũng không tiến hành chỉnh quân chính trị, dù cho đã chuyển hướng chiến lược, e rằng cũng khó khắc phục những khó khăn nghiêm trọng khi tiến công lên Tây Bắc, Lào, khó mà kiên trì lâu dài trên chiến trường tàn khốc quyết chiến Điện Biên Phủ. Đi sâu phát động quần chúng, được đông đảo quần chúng nhân dân hết lòng ủng hộ, đi sâu chỉnh quân chính trị nâng cao giác ngộ chính trị của đông đảo cán bộ chỉ huy và tăng cường tinh thần anh dũng tác chiến là bảo đảm căn bản cho sự quán triệt chấp hành phương hướng phát triển chiến lược đúng đắn.
Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tiến hành viện trợ to lớn cho Việt Nam, đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự viện trợ vẻ vang, vô tư đó sẽ mãi mãi ghi vào sử sách phong trào cộng sản quốc tế.
1 Hai đoạn này cho thấy đầu óc mao-ít của đoàn cố vấn Trung Quốc và cho ta hình dung được sức ép của họ trong việc phát động “thổ địa cách mạng” (cải cách ruộng đất) và chình phong chỉnh huấn trong quân đội. Sức ép của họ và áp lực cùa Stalin, của Mao là nhân tố bên ngoài rất quan trọng dẫn tới những sai lầm của ĐCSVN trong thời kì mao-hoá bắt đầu từ cuối năm 1950 (tại Đại hội II, “tư tưởng Mao Trạch Đông” đã được đặt ngang với “chủ nghĩa Mác – Lênin – Stalin”. Điều này không làm nhẹ nhân tố nội tại : trong thời kì 1930-40, ĐCSVN đã mang nặng xu hướng tả khuynh. Quan điểm dân tộc, phân tích về tình hình giai cấp trong xã hội Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc bị coi là “cải lương”, “hữu khuynh”. Hiện nay, vẫn chưa có những nghiên cứu nghiêm chỉnh cho ta hiểu thêm cuộc đấu tranh giữa hai đường lối và não trạng này, và do đó, quá trình dẫn tới và quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, tiến hành chỉnh huấn trong quân đội. Mặt khác, cũng không thể quên rằng sau bốn năm kháng chiến gian khổ, những gia đình trung lưu thành thị đi theo kháng chiến bắt đầu mệt mỏi, kinh tế kiệt quệ, vấn đề số 1 của kháng chiến là làm sao huy động được nguồn lực cỏ bản và chủ yếu là nông dân ? (CT của DĐ)
2 Đoạn này là một điển hình về sự “viết lại lịch sử” của phía Trung Quốc. Sự thật, trứoc khi đại tướng Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh tới chiến trường, Bộ tham mưu chiến dịch nghe lời cố vấn Mai Gia Sinh, đã lên kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”, kéo pháo “vào” để bắn thẳng xuống tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và dùng chiến thuật “biển người” (cách đánh cố hữu của quân đội Trung Quốc ở Triều Tiên (sẽ được tái bản và thất bại năm 1979 ở biên giới phía bắc). Quyết định thay đổi kế hoạch, chuyển sang “đánh chắc thắng chắc” và kéo pháo “ra” là quyết định cá nhân ngày 25.1.1954 tướng Giáp. Lúc đó, việc liên lạc giữa Bộ chỉ huy ở Điện Biên Phủ với Bộ chính trị ở Việt Bắc không dùng vô tuyến điện, mà dùng ngựa, nên đi về phải nhiều ngày. Tướng Giáp đã lấy trách nhiệm của vị “tướng ngoài mặt trận” và ông đã tranh thủ được sự đồng tình của Vi Quốc Thanh. Họ Vi gửi điện về Bắc Kinh xin ý kiến Mao Trạch Đông. Tại cuộc hội thảo kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ họp tại Bắc Kinh tháng 6.2004 (sau khoá họp ở Paris và Hà Nội), các nhà sử học Trung Quốc đã phải thừa nhận rằng bức điện chuẩn y của Mao, mãi đến ngày 27.1.1954, Vi Quốc Thanh mới nhận được, tức là 2 ngày sau khi đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh đổi kế hoạch. Như vậy, cách trình bày của tác giả hoàn toàn sai lệch, đổi trắng thay đen để đề cao vai trò của đoàn cố vấn Trung Quốc.
3 Ý nói chính quyền bù nhìn Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam). Những cụm từ “miền Bắc Việt Nam”, “miền Nam Việt Nam” chỉ xuất hiện sau ngày ký kết Hiệp định Genève (20.7.1954)
Các thao tác trên Tài liệu