Làm sao để Trung Quốc có thể tránh khỏi cuộc xung đột tới đây
Làm
sao
để Trung Quốc
có thể
tránh khỏi
cuộc xung
đột tới đây
Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei)
Cuộc tranh chấp Trung-Việt đang leo thang ở vùng biển ở Nam Hải (Biển Đông) xảy ra vào thời điểm xấu nhất đối với Bắc Kinh. Cách đây chưa đầy một năm, Ngoại trưởng Hoa Kì Hillary Clinton đã cảnh báo với Trung Quốc rằng hòa bình và tự do giao thông ở Nam Hải thuộc về lợi ích quốc gia của Hoa Kì, và bằng cung cách không tế nhị cho lắm, bà Clinton cũng đã kêu gọi Trung Quốc giải quyết những tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng của mình bằng phương tiện hòa bình và theo đúng pháp luật quốc tế.
Nay chúng ta biết rằng lời phát biểu của bà Clinton tháng bảy năm 2010 ở Hà Nội đã đánh dấu một khúc ngoặt trên hai phương diện quan trọng. Nó đã làm thay đổi hẳn nhận thức về cân bằng quyền lực ở khu vực. Trước đó, người ta nghĩ rằng Trung Quốc đã giành được thế thượng phong ở vùng này sau nhiều năm kiên trì « tiến công quyến rũ ». Sau cú sốc do ngoại trưởng Mĩ gây ra – trong thâm tâm, tất cả các nước ASEAN đều hoan nghênh – thì xem ra Trung Quốc đã bị cô lập trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Nam Hải. Thêm nữa, sự đối đáp vụng về của Trung Quốc – những lời đe dọa úp mở đối với các nước láng giềng – cùng với một loạt thất thố ngoại giao khác đã biến 2010 thành một năm tồi tệ nhất về đối ngoại của Trung Quốc từ năm 1989 đến nay.
Để giành lại thế chủ động ngoại giao và sửa chữa những tổn hại do chính mình gây ra, gần đây Trung Quốc đã mở ra một cuộc « tiến công quyến rũ » mới, mang lại một vài kết quả khả quan. Quan hệ với Hoa Kì đã được ổn định từ khi chủ tịch Hồ Cẩm Đào đi thăm Washington hồi tháng giêng 2011. Cuộc đối thoại giữa hai giới quân sự Trung-Mĩ đã được nối lại. Ngay với Nhật Bản, quan hệ cũng đã được cải thiện đáng kể trong mấy tháng qua.
Cho nên, ở thời điểm này, một cuộc đụng độ xấu xa và có tiềm năng trở thành nguy hiểm là điều cuối cùng mà Trung Quốc mong muốn xảy ra.
Song mặt khác, Bắc Kinh cũng cần chứng tỏ rằng họ sẽ không chịu thỏa hiệp trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Khốn nỗi, tại Việt Nam, Trung Quốc lại đụng phải một đối phương cũng không kém kiên quyết và từ chối mọi thỏa hiệp.
Trong các mối tranh chấp ở Nam Hải, cuộc tranh chấp Trung-Việt có khả năng lớn nhất dẫn tới xung đột vũ trang. Năm 1974, hải quân Trung Quốc đã kiểm soát toàn bộ quần đảo Paracel (Hoàng Sa) sau khi đánh bật được hải quân Nam Việt Nam. Năm 1988, Trung Quốc và Việt Nam đã giao chiến ngắn ở quần đảo Spratly (Trường Sa). Thứ nữa, những khẳng định chủ quyền về Spratly của Trung Quốc được coi là không vững vàng đứng về mặt luật pháp quốc tế vì, căn cứ vào Công ước về luật biển của Liên Hợp Quốc (UNCLOS), Trung Quốc khó có thể chứng minh rằng những khối đá mà họ đang chiếm giữ đáp ứng những tiểu chuẩn về những hòn đảo có người ở và lâu bền (như thế mới có vùng đặc quyền kinh tế EEZ 200 hải lý). Trường hợp quần đảo Paracels (Hoàng Sa) thì khác, Trung Quốc đang thực sự kiểm soát, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định chủ quyền. Vùng EEZ 200 hải lí của Paracels và vùng EEZ 200 hải lí tính từ đường cơ sở của Việt Nam có chỗ chồng lấn lên nhau. Theo những thông tin có được thì sự cố tàu hải giám của Trung Quốc làm hư hỏng dây cáp thăm dò địa chấn trị giá mấy triệu đô la của tàu thăm dò của PetroVietnam đã xảy ra trong vùng tranh chấp này.
Trong quá khứ, sự ứng phó của Trung Quốc đối với các hoạt động thăm dò của những nước tranh chấp với Trung Quốc ở Nam Hải đều tùy mức độ. Về mặt ngôn từ, Trung Quốc tố cáo họ vi phạm chủ quyền lãnh thổ của mình, nhưng hành động của Trung Quốc thì kiềm chế và có phân biệt. Thật ra, nhiều nước đã tiến hành thăm dò và khai thác dầu khí gần vùng biển của họ ở quần đảo Spratlys, nhưng cho đến nay Trung Quốc không đưa chiến hạm hải quân của họ đến ngăn cản các hoạt động này (Sự kiện ngày 9 tháng sáu 2010 một tàu đánh cá Trung Quốc làm đứt dây cáp của một tàu khảo sát của Việt Nam đã xảy ra ở một địa điểm thuộc khu vực quần đảo Spratlys ở xa bờ biển Việt Nam). Nếu so sánh, thì phản ứng của Trung Quốc đối với những hoạt động tương tự ở vùng Paracels (Hoàng Sa) mãnh liệt hơn nhiều. Cách đây mấy năm, được biết một tàu tuần tra Trung Quốc đã cắt đứt cáp thăm dò địa chấn của một công ti Tây phương đã kí thỏa thuận với Việt Nam để thăm dò dầu khí.
Trong điều kiện ngang nhau về bối cảnh, thì cao nhất là xác suất xảy ra đụng độ giữa Trung Quốc và Việt Nam ở vùng quần đảo Paracels.
Nhưng Việt Nam không phải là một đối thủ « ngon xơi ». Hải quân Việt Nam không mạnh, nhưng họ đã nhiều phen tỏ ra họ không sợ Trung Quốc. Để cho Trung Quốc thấy rằng họ sẵn sàng chiến đấu, Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm loại K của Nga (vài năm nữa sẽ đi vào hoạt động). Về mặt ngoại giao, Việt Nam cũng đã khôn khéo sử dụng những con bài của mình. Quan hệ với Hoa Kì đã được cải thiện rõ rệt, hai nước cựu thù đã cùng tập trận lần đầu tiên ở Nam Hải vào tháng tám năm ngoái.
Ai cũng đoán định rằng lập trường mới của Washington ở Nam Hải và quan hệ Mĩ-Việt được cải thiện đã làm cho Hà Nội mạnh dạn hơn trong việc đương đầu với Bắc Kinh. Vấn đề đối với Bắc Kinh là làm sao tránh được một cuộc đụng độ nữa với Việt Nam ở Paracels (Hoàng Sa). Với việc Việt Nam tuyên bố sẽ tập bắn ở khu vực này vào ngày 13 tháng sáu, rửi ro về một cuộc xung đột ngẫu nhiên là một rủi ro có thực.
Trong hai bên, thì bên Trung Quốc cần đứng ở vị thế đạo lí vì trong những cuộc tranh chấp như vậy, dư luận quốc tế bao giờ cũng thiên về bên yếu. Trước tiên, Trung Quốc cần phải tạm ngưng những cuộc thăm dò trong các vùng tranh chấp để tránh những xung đột có thể ngẫu nhiên mà xảy ra. Bắc Kinh cũng phải chủ động đề xuất với Hà Nội những biện pháp cụ thể để tránh xảy ra những cuộc đụng độ tương tự trong tương lai. Chẳng hạn áp đặt việc cả hai bên tạm ngưng mọi hoạt động thăm dò ở những vùng biển có tranh chấp để trấn an thần kinh các bên.
Tiếp theo những biện pháp cụ thể ấy phải có những sáng kiến ngoại giao mạnh mẽ nhằm tạo ra một giải pháp đa phương cho các cuộc tranh chấp ở Nam Hải. Cuộc cãi cọ giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã gây ra khủng hoảng, nhưng đó cũng là vận hội duy nhất để Trung Quốc và ASEAN đẩy nhanh cuộc thương lượng đi tới một bộ Luật hành xử kiên quyết hơn. Ở Trung Quốc, có người có thể nghĩ rằng một bộ luật như thế sẽ gây thêm ràng buộc không cần thiết cho khả năng chọn lựa của Trung Quốc. Nhưng đối với một quốc gia đang gây ra căng thẳng với các nước láng giềng vì ý đồ và khả năng quân sự ngày càng tăng của mình, thì đó có thể là một trong một vài động tác thực tế làm cho người ta có thể tin được vào những lời tuyên bố về « phát triển hòa bình ».
裴敏欣 Bùi Mẫn Hân
Minxin Pei (裴敏欣 Bùi Mẫn Hân) là giáo sư bộ môn chính quyền học tại Claremont McKenna College và phó nghiên cứu sư liên kết của Carnegie Endowment for International Peace. Các nghiên cứu của ông đã được công bố trên các tạp chí Foreign Policy, Foreign Affairs, The National Interest, Modern China, China Quarterly, Journal of Democracy, những bài bình luận của ông đã được đăng trên các báo Financial Times, New York Times, Washington Post, Newsweek International và International Herald Tribune.
NGUYÊN TÁC TIẾNG ANH : The Diplomat, 12 tháng 6-2011.
© bản dịch tiếng Việt : Diễn Đàn
Các thao tác trên Tài liệu