Lý lẽ và âm mưu
Lý lẽ và âm mưu bành
trướng
của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán
Hồng Lê Thọ
Kích động tinh thần dân tộc, rơi vào chủ nghĩa bài Hoa, dĩ nhiên là sai lầm cả về mặt đạo lý và về sự khôn ngoan chính trị. Song, lên án các thái độ đó hoàn toàn không đồng nghĩa với việc ngăn cấm báo chí và xã hội nói chung tìm hiểu, đưa thông tin và nói lên những sự việc đang hoặc có thể diễn ra trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, coi đó là những chủ đề "nhạy cảm", thậm chí đụng tới "an ninh" của đất nước, như chính quyền đang làm.
Phương châm “16 chữ vàng” và tinh thần “4 tốt” trong quan hệ Việt-Trung mà lãnh đạo hai nước nhấn mạnh chỉ có ý nghĩa thiết thực nếu đây là cơ sở vững chắc để xây dựng lòng tin lẫn nhau..., khi nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ kể cả biển đảo của nhân dân Việt Nam được tôn trọng, vì lợi ích của hai dân tộc Việt-Trung, góp phần củng cố hòa bình lâu dài cho khu vực và thế giới.
Trong tinh thần đó, các bài viết nói trắng ra những toan tính của người bạn láng giềng của chúng ta - một cách nghiêm túc, với những chứng cớ được viện dẫn rõ ràng, minh bạch - cần được coi như bình thường, thậm chí là những đóng góp tích cực để xây dựng lòng tin nói trên. Và dĩ nhiên mọi người có thể chia sẻ hay phản bác chúng...
Diễn Đàn
Tư tưởng Đại Hán*
Người láng giềng khổng lồ
trong một buổi phô trương cơ bắp
sau nhiều năm dài đấu đá nội
bộ, đã vác loa chỉ sang nhà
người bên cạnh “nầy các
người man di mọi rợ, bộ các người
không biết là đang ở trên lãnh
thổ của ta ? “Ông” đã cho
sống nhờ mấy nghìn năm, thế mà
bây giờ mở giọng nói mảnh đất
trong “đô hộ phủ” là của
mình có khác gì bọn phản bội,
vô ơn ? ”. Chẳng phải “An nam đô
hộ phủ” từ thời nhà Đường
(thế kỷ thứ 7) mà người đứng
đầu là Kinh lược sứ của
Trung Nguyên phái sang thống trị đó
sao, nói gì đến mấy mươi đời
sau, mảnh đất An Nam nầy liên tục
triều cống thiên triều cho đến tận
Vua quan nhà Nguyễn, hãy xem đấy Quang
Trung dù chiến thắng 30 vạn quân Thanh
cũng phải sang bái tấu Hoàng đế
Càn Long xin thần phục…thế mà
mấy hòn đảo lon con ngoài khơi...bọn
mầy dám bảo là của nước
tụi bây ? Nghe không lọt tai… Bao
nhiêu tài liệu, đồ cổ, thư
tịch (1)…
cứ thế mà lôi ra để “khua”
với thế giới rằng những gì trên
biển Đông đều là của TQ từ
hai nghìn năm trước (sic) “không
tranh cãi lôi thôi” vì hàng
trăm tỷ thùng dầu mỏ, khí đốt
thiên nhiên đang chờ được móc
lên bù lại phần thiếu hụt, ngày
càng lệ thuộc vào tư bản đế
quốc sao chịu nổi, đang cào ruột
gan Ông nóng ran. Thử hỏi nếu là
của bọn bây, thì “bọn bây”
có khó chịu không ? “Của đau
con xót” biết chưa (2).
Abe Nakamaro (698—770)
Lối lập luận nầy rất hợp lòng những người TQ vốn mang trong mình chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, và cả chính quyền Đài Loan ở đảo xa. Họ không ngừng cổ súy không những bằng lời nói, sức ép ngoại giao và còn lăm le sử dụng vũ lực vì nhu cầu về cái gọi là “an ninh năng lượng” không còn dừng lại trên giấy hay chỉ để dọa dẫm !(3) TQ còn lôi cả nhà thơ Abe Nakamaro, người Nhật sang học, làm quan cho nhà Đường, gặp nạn lưu lạc sang đất An Nam, và làm trấn thủ tại đây (4) để chứng minh rằng vùng đất nầy thuộc TQ từ lâu và lấy đó biện hộ rằng những quần đảo trên biển “Nam Trung Hoa” (South China Sea) đương nhiên là của người TQ (há chẳng phải người Việt Nam thường nói 1000 năm Bắc thuộc là gì)…Triển khai lối lập luận hồ đồ rằng nơi nào có người Hoa như đoàn tàu của Thái giám Trịnh Hòa (1405-1433 tất cả 7 lần) ghé vào đâu thì nơi đấy là lãnh thổ của TQ, biên giới của họ mở rộng tới đó theo sự phát triển địa-chính trị của TQ (5).
Như vậy không những Việt Nam mà vùng Đông Nam Á lẫn Ấn Độ Dương, và cả vùng vịnh Ba Tư…đều thuộc về họ, sá chi việc Mạc Cửu ( 1655 - 1735) đến Hà Tiên, Phú Quốc… hàng trăm ngàn người Minh tràn sang vì thất bại trong cuộc khởi nghĩa “phản Thanh phục Minh” và những cuộc nổi dậy của “Thái bình Thiên Quốc”, lập nên những làng “Minh Hương” khắp nơi, hình thành các khu phố Hoa kiều của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến... ở Việt Nam (6).
Hạm đội của Trịnh Hòa
Chờ thời cơ để chiếm đóng quần đảo Trường Sa
Như vậy, theo họ tương lai nước Việt của con cháu chúng ta lại phải trở về “mẫu quốc”, một “phủ huyện” của TQ là hệ luận tất yếu. Cứ xem tư liệu của phía TQ đại lục sau nầy hay Đài Loan trước kia, họ vẫn thống nhất xem các quần đảo ngoài khơi biển Nam Trung Hoa (mà ta gọi là biển Đông) là của họ, sỡ dĩ hiện nay bị các nước khác, trong đó VN là chủ yếu, vì TQ bị các nước tây phương cắt cứ suốt trăm năm trong thời kỳ cuối đời nhà Thanh, lợi dụng để xâm chiếm trái phép (!)… vì vậy nay là lúc phải ra tay đòi lại là hành động phải làm để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của TQ. Con số 92% người được thăm dò trên mạng “Hoàn Cầu” Thời báo (cơ quan trực thuộc Tân Hoa Xã của TQ) tán thành biện pháp dùng vũ lực trong cuộc tranh chấp hiện nay cũng nằm trong chiến dịch chuẩn bị “đòi lại” quần đảo nói trên (7).
“đụng độ” trên biển Đông
Thái độ kích động hằn học nầy không phải mới bắt đầu khi TQ triển khai chiến dịch “tuần tra” nghề cá trên biển Đông từ ngày 15/6/2009 mà họ đã chuẩn bị từ lâu, phản ánh qua cuộc tấn công đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 vào thời điểm chế độ Việt Nam Cộng hòa bước vào thời kỳ sụp đổ sau “Việt Nam hóa chiến tranh”, không còn sức chống đỡ trước sự tấn công của Quân đội giải phóng ngay trên đất liền. Lực lượng hải quân TQ không ngừng củng cố và xây dựng căn cứ quân sự ở Hoàng Sa đồng thời từng bước chiếm đoạt một số hòn đảo san hô ở Trường Sa vào năm 1988. Kể từ đó, TQ đã đẩy mạnh hơn nữa việc tăng cường lực lượng Hải quân(8) song song với phát triển kinh tế với tốc độ cao. Một mặt giao kết ứng xử trên biển Đông theo những nguyên tắc hòa bình, tôn trọng lẫn nhau với các nước ASEAN vào năm 2002 nhằm ràng buộc, ngăn ngừa sự phản công của các nước, mặt khác chờ thời cơ đề tái chiếm mà hiện nay, ở thời điểm năm 2009, hàng loạt hoạt động khiêu khích đối với hải quân Mỹ cũng như ra tuyên bố cứng rắn với các nước trong khu vực về “chủ quyền lãnh hải” mà TQ đã vạch ra qua cái gọi là “lưỡi bò” phi lý (9) ngày càng lộ rõ ý đồ ấp ủ bấy lâu nay.
Từ những công trình nghiên cứu sử học lẫn biện pháp tuyên truyền (trong nước và quốc tế) với hàng trăm nhà nghiên cứu trong, ngoài nước tích cực tham gia chiến dịch huy động giới truyền thông, báo chí liên tục có bài, đưa tin và hình ảnh về hoạt động tuần tra, bắt bớ tàu thuyền các nước khác, của các lực lượng quân sự lẫn núp bóng dân sự TQ, công khai xác định chủ quyền của TQ… cho thấy ý đồ sâu xa và chính sách tạo tiền đề cho chiến dịch vào giờ “G” chiếm đoạt Trường Sa đã được tích cực chuẩn bị rất chu đáo từ năm 1995 sau khi nhà cầm quyền TQ công bố đường lãnh hải phi lý của họ trên biển Đông vào năm 1992. Hiện nay, quan hệ Đài - Trung đã được cải thiện rõ rệt từ khi Mã Anh Cửu (Quốc Dân Đảng Đài Loan) lên nắm quyền ở Đài Loan sau khi đắc cử tổng thống (ngày 20/5/2008) điều nầy cho thấy sự vướng bận vào việc giải phóng Đài Loan thống nhất vào TQ đại lục không còn là trọng tâm trên bàn cờ chiến lược quân sự và ngoại giao của TQ. Hơn thế nữa cán cân tương quan lực lượng giữa Nhật Bản - TQ - Mỹ ở khu vực TBD đã thay đổi khi chính quyền Mỹ bị sa lầy nghiêm trọng ở hai chiến trường Iraq lẫn Afghanistan từ thời tổng thống G.W. Bush. Một nước Nhật lệ thuộc năng lượng mà 80% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ các nước ở Trung Cận Đông đi ngang tuyến đường vận tải qua eo biển Malacca trong khi TQ chỉ khoảng 40-45% thì rõ ràng nước Nhật vô cùng âu lo khi TQ làm chủ hoàn toàn trên biển Đông, vì vậy bên cạnh việc tăng cường khả năng quân sự trên biển, Nhật Bản có chính sách củng cố kinh tế cho Việt Nam – mặc dù nền kinh tế của Nhật Bản đang rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng – qua động thái tăng viện trợ ODA và thúc đẩy đầu tư mậu dịch hai chiều Nhật-Việt trong vai trò đối tác chiến lược là điều không nằm ngoài dự kiến của nhiều người. Nói cách khác, giúp Việt Nam phát triển vững mạnh bên bờ biển Đông, không bị TQ lấn át là biện pháp góp phần bảo đảm an ninh năng lượng mang tính chiến lược một cách lâu dài vì Nhật Bản cũng là bạn hàng nhập dầu thô và than đá từ Việt Nam, nguồn cung cấp vừa gần lại vừa ổn định. Mặt khác, cuộc tranh cãi về chủ quyền hòn đảo Senkaku (Diaoyu theo tiếng Hoa) ở vùng biển phía đông Trung Hoa tạo ra một sự căng thẳng mới giữa hai nước Nhật-Trung mặc dù lãnh đạo hai bên đã nhiều lần gặp gỡ, nổ lực thương thảo về việc cùng khai thác nguồn khí đốt phong phú tại đây. Kinh tế là sức mạnh lớn nhất và cũng là điểm yếu nhất của TQ, và do đó nó là trục giao điểm của chính sách và chiến lược của TQ. Để giữ vững phát triển kinh tế, TQ phải lệ thuộc ngày càng tăng nguồn năng lượng và nguyên liệu từ nước ngoài. SLOCs ( viết tắt của “sea lines of commerce” hay “sea lines of communications” tuyến vận tải thương mại trên biển quốc tế) (10) cực kỳ quan trọng vì hầu hết ngoại thương của TQ là qua đường biển, và TQ chỉ có chút ít thành công trong việc mở mang đáng tin cậy đường ống dẫn dầu và khí từ Nga hoặc Trung Á. Do lấy năng lượng làm nền tảng cho nền kinh tế, chính sách kinh tế của TQ tùy thuộc vào sự thành công của chính sách năng lượng”(11) càng thôi thúc TQ giành bá quyền trên biển Đông.
GS Urano Tatsuo, vào thời điểm 1997, đã đưa ra nhận định rằng lãnh đạo của TQ với chính sách cải cách và mở cửa kinh tế, bắt đầu chiến lược “trong thời kì kinh tế biển của thế kỉ 21” với phương châm ưu tiên bảo vệ quyền lợi trên biển trong chính sách quốc phòng, trong đó đặt việc “thu hồi” quần đảo Trường Sa ngang với tầm quan trọng bảo vệ chủ quyền của TQ giành lại lãnh thổ Đài Loan. Các nhà lãnh đạo TQ cho rằng nếu chủ quyền trên biển Đông không được xác lập trước năm 2010 thì có nguy cơ phải giao lại vấn đề nầy cho LHQ giải quyết – điều mà TQ không hề mong muốn – vì vậy năm 1992, chính phủ TQ đã vội vã chính thức tung ra “đường lưỡi bò’ để xác định lãnh hải của mình. Chương trình cụ thể của TQ gồm ba bước :
(1) chiến thuật ngoại giao hòa bình
(2) lấy lại Trường Sa bằng vũ lực
(3) gây sức ép bằng sức mạnh quân sự trong khi triển khai đàm phán(12).
Như đề cập ở dưới, hiện nay vấn đề Đài Loan nay đã bước vào thời kỳ hợp tác giữa hai bờ biển, TQ đã rảnh tay và hòa hoãn với lực lượng canh phòng của Mỹ ở Thái Bình Dương, điều đó sẽ là điều kiện “vô cùng” thuận lợi để tiến hành bước (2) dùng vũ lực để cướp đoạt Trường Sa là khả năng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, chắc chắn TQ sẽ nhắm vào một thời điểm mà nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam xảy ra vấn đề xung đột, bị phân hóa mất đoàn kết nghiêm trọng vì tranh giành quyền lực, ngôi thứ trong quá trình chuẩn bị tổ chức đại hội Đảng hay một “biến cố” chính trị.
Chuỗi Ngọc Xanh của TQ
Quan hệ chiến lược tam giác
giữa các nước Nhật-Mỹ với
TQ càng kích thích hải quân của
PLA tăng cường với ngân sách quân
sự ngày càng gấp bội (13)
đe dọa đến phòng tuyến an ninh
năng lượng của Nhật Bản - một
siêu cường về kinh tế - mỗi khi TQ
có hành động lấn tới trên
biển Đông, mở ra một cuộc chạy
đua vũ trang giữa các nước trong
khu vực. Điều nầy có thể giải
thích tại sao nhiều phát biểu, điều
trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ trong tháng
7/2009 vừa qua đã đặt ra liên tiếp
(14)
vấn đề hải quân Hoa Kỳ buông
lơi cho TQ thao túng, ảnh hưởng đến
quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật cũng như
Mỹ-ASEAN mà chuyến đi Thái lan để
tham dự hội nghị ngoại trưởng
ASEAN lần thứ 42 tại Phuket (Thái Lan) của
bà Ngoại trưởng Hillary Clinton là một
dấu hiệu tích cực nhằm “cân
bằng” và xoa dịu nổi lo sợ của
các nước ASEAN trước sự uy hiếp
của chiếc “lưỡi bò” từ
TQ. Trong khi đó, với sách lược
“tằm ăn dâu” và cô lập
đối thủ, chiến thuật ngoại giao
mềm mỏng TQ được triển khai tích
cực, xé lẻ từng nước ASEAN để
thương lượng việc hợp tác đầu
tư - thương mại, kí kết các
thỏa thuận song phương với “chiếc
gậy và củ cà rốt” trên
tay hòng tách rời việc các nước
ASEAN hợp đồng tác chiến chống
TQ, mặt khác không ngừng gây sức
ép lên Việt Nam với nhiều biện
pháp thô bạo như giam giữ các
tàu thuyền đánh cá trên biển
Đông, gia tăng việc can thiệp bằng
các đoàn cao cấp của Đảng
lẫn nhà nước, lấy cớ sang “thăm
hỏi” liên tục, đẩy mạnh việc
xuất hàng hóa trên biên giới,
hạn chế nông sản phẩm của VN dùng
để đối lưu vì vậy kim ngạch
nhập siêu với TQ ngày càng phình
to, không kể hàng loạt dự án cơ
sở hạ tầng, đường sá, nhà
máy… bạc tỷ đô la chính
phủ Việt Nam ưu tiên dành cho các
tập đoàn doanh nghiệp nước bạn
(15).
Tìm hiểu tình hình của TQ ở biển Đông còn là điều cấm kị ?
Trong khi đó, ở Việt Nam, những
thông tin về TQ được xem là nhạy
cảm, tránh né đến mức tối
đa, các cơ quan truyền thông đều
phải tuân theo gậy chỉ huy của ban
Tuyên giáo, hạn chế thông tin “ngoài
luồng”(lề trái)…theo một tư
duy hết sức mâu thuẫn. Người phát
ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam thường
nhắc đi nhắc lại “TS-HS là của
VN” mỗi khi có động thái phủ
nhận từ phía TQ, nhưng thanh niên mặc
áo thun ghi “HS-TS là của VN” thì
lại không được, việc bày tỏ
thái độ bất bình của nhân
dân trước hành động ngang ngược
của TQ bị xem là điều cấm kị,
phá rối “trật tự trị an”(!)
Những kiến thức về chủ quyền của
nước ta trên biển Đông hầu
như không được phổ biến, hay
rất hạn chế trên lĩnh vực thông
tin đại chúng là điều vô
cùng khó hiểu. Người dân đói
thông tin, vì thế cũng không thể
trách cứ họ, nhất là lớp người
trẻ thờ ơ trước tình hình
sôi bỏng khi nhà cầm quyền ra sức
hạn chế ngoài những gì ban Tuyên
giáo đưa ra mà thôi như bài
viết về “Lưỡi Bò” trên
báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên của
nhà báo “ Quốc Pháp” (một
bút danh lạ hoắc)(16)
gần đây. Nhìn vào sự thật
nầy, chúng ta có thể thấy cách
ứng xử đối với nhân dân giữa
chính quyền TQ và VN hoàn toàn khác
nhau, người dân VN hoàn toàn nằm
trong thế “ngóng chờ” chỉ đạo
một cách bị động.
Nhiều người đã đặt
câu hỏi “liệu khi nước nhà
nguy biến, Trường Sa bị TQ lấn chiếm
thì chính quyền sẽ phải đối
phó ra sao, hay chỉ xuôi tay van lạy”
khi chính sách đối ngoại cũng như
nội trị nằm trong quĩ đạo của
TQ, đường lối “độc lập
tự chủ” bị méo mó dưới
sức ép của TQ. Nhìn vào số bài
báo đề cập đến vấn đề
chủ quyền HS-TS ở nước ta và của
người Việt trên diễn đàn
quốc tế thật ít ỏi, có thể
đếm trên đầu ngón tay, không
nói tới bài báo nghiên cứu có
tính chất học thuật lại càng
hiếm hoi.
Đại Nam Thống nhất toàn đồ
Chúng ta có Viện nghiên cứu TQ được xây dựng hơn 15 năm trước, Trung tâm Nghiên cứu TQ thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã gần 6 năm nay, Ban Biên Giới của chính phủ được thành lập từ lâu…thế nhưng khó tìm thấy được một vài tư liệu đầy đủ khả dĩ có thể trình bày cho cộng đồng quốc tế trừ luận văn tốt nghiệp TS sử học của Nguyễn Nhã (hiện đang được một tổ chức dân sự kêu gọi chuyển ngữ sang tiếng Anh để phổ biến) hay tập tư liệu do ông Lưu Văn Lợi biên soạn năm 1995(17) ! Có thể “có” nhiều nhưng vì là “bí mật quốc gia” nên không công bố chăng ? Những nguồn tư liệu nước ngoài về vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, luận bàn chiến lược quân sự, an ninh năng lượng… trên biển đông của TQ, Hoa Kỳ, Nhật Bản rất phong phú nhưng mấy ai tiếp cận được, kể cả các nhà nghiên cứu sử học hiện đại ở đại học, viện nghiên cứu trong nước. Ngay như tác phẩm nổi tiếng nghiên cứu về chủ quyền hai quần đảo HS-TS của GS Monique Chemillier – Gendreau (Pháp) (do Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia Hà Nội ấn hành 1998 gần đây đã được tổ chức dân sự tình nguyện huy động đánh máy lại để phổ biến!)(18) với những nhận định khách quan rất có lợi cho Việt Nam và mang tính thuyết phục cao nhưng tiếc thay mấy ai được biết . Rằng :
“Trong lịch sử TQ mấy ai được biết không có một căn cứ nào chứng minh một chính phủ của nước nầy cho đến giữa thế kỉ 20 đã từng tiến hành hành động vũ lực đối với quần đảo TS, những mảnh dất nằm rải rác trên 160,000 km2 trên bề mặt đại dương. Nhưng điều đó có hề gì ! TQ đã viện dẫn những quyền lịch sử nhằm chuẩn bị cơ sở cho việc tiến hành kiểm soát tại chỗ…các đảo đó đã từng nằm trong khu vực kiểm soát trên biển của các hoàng đế An Nam trước khi thực dân đến…Vào thời điểm 1988 TQ đã bắt đầu thực hiện phần thứ hai kế hoạch của họ ( sau khi đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1974--HLT chú), phần khó nhất, là kiểm soát toàn bộ vùng biển nằm ở sườn phía Nam của mình” (19)
Điều đó cho thấy chính quyền Việt Nam chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc nghiên cứu, tổng kết và theo dõi những động thái tranh chấp ở một vùng biển vô cùng quan trọng về chiến lược kinh tế và an ninh khu vực mà bờ biển nước ta kéo dài thềm lục địa trên hơn 3600 km bờ biển. Thiết nghĩ đã đến lúc Nhà nước nên cấp bách huy động mọi lực lượng nghiên cứu khoa học về các khía cạnh liên quan đến vấn đề biển đảo (20), không ngừng nâng cao khả năng công bố thành quả ra nước ngoài, ưu tiên trong chính sách đối ngoại lẫn an ninh quốc phòng, tạo ra một không khí trao đổi học thuật về vấn đề biển đông sâu rộng không những trong giới nghiên cứu mà còn trong nhân dân, không xem đây là điều cấm kỵ, cho phép mọi người được trình bày suy nghĩ và mối quan tâm của mình trước những vấn đề hệ trọng của đất nước mà không bị nghi ngờ hay “trừng phạt” vô lý. Tất nhiên, những động thái “kích động”, “bài Hoa” hay lợi dụng để xuyên tạc các chính sách của nhà nước (nếu có) có thể xuất hiện nhưng chúng ta có thể tin tưởng với sự phản biện của những người có quan điểm đứng đắn, bảo vệ quyền lợi của đất nước sẽ là nền tảng để xây dựng sự đồng thuận vững chắc, không cần đến những biện pháp chế tài bạo lực hay đàn áp tai tiếng.
Cần nhấn mạnh rằng, trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu tổng hợp các xu thế và động thái chính trị, ngoại giao và quân sự của các nước siêu cường và trong khu vực trên biển Đông là vô cùng cần thiết và bức bách, cần được ưu tiên hơn cả việc chứng minh “HS-TS là của VN” về mặt cứ liệu lịch sử một cách kinh điển, ngõ hầu tìm ra chiến thuật và chiến lược đối phó kịp thời trước mắt cũng như lâu dài. Trung tá Christopher J.Pehrson, chuyên gia nghiên cứu không quân tại Lầu Năm Góc (Hoa Kỳ) cảnh báo “Mối quan tâm và ảnh hưởng ngày càng tăng của TQ từ vùng biển Nam Trung Hoa qua Ấn Độ dương và tiến vào vịnh Ả Rập được mô tả như là một "Chuổi Ngọc", tiếp cận tiềm năng đó sẽ mang đến cho Mỹ sự khiêu khích mang tính khu vực rất phức tạp”, rằng Mỹ “phải cấu trúc lại lực lượng sau khi chiến tranh lạnh kết thúc để đối phó với sự trối dậy của TQ”, hi vọng “ với nghệ thuật lãnh đạo táo bạo và sự khôn ngoan biết nhìn xa trông rộng, Mỹ và TQ có thể gặt hái những phần thưởng của sự hợp tác chiến lược và ngăn ngừa được tai họa một cuộc đối đầu thù địch”(21).
Quốc Hội Việt Nam cần phải lên tiếng
Quốc hội nước
VN nên tạo cơ hội lên tiếng chính
thức một lần nữa về chủ trương
và phương châm của nước Việt
Nam trong vấn
đề chủ quyền và cách ứng
xử trong hòa bình, hợp lý và
hợp pháp như đã từng tuyên
khi phê chuẩn Công ước LHQ về Luật
biển năm 1982 trước đây, như
sau:
“Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các hoạt động khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực”(22)
Bản tuyên bố nầy được nhắc lại không hề thừa, không những tại các buổi gặp gỡ trên diễn dàn quốc tế mà còn cần được phổ biến rộng rãi để cộng đồng quốc tế hiểu được lập trường trước sau như một với thái độ rõ ràng trước những khiêu khích của TQ, đồng thời là cơ sở để tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Thiết nghĩ hành động tích cực mà Việt Nam có thể làm là nhận lãnh vai trò điều phối trong khu vực về vấn đề tranh chấp giữa các nước trên biển Đông, kêu gọi tổ chức một hội nghị quốc tế gồm các nước APEC (Châu Á-TBD) và ASEAN để thương thảo chung quanh việc tranh chấp nầy là một trong những biện pháp cô lập khuynh hướng dùng vũ lực để giải quyết cũng như tạo sự đồng thuận trong việc giữ nguyên trạng và ổn định trên biển Đông, đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước trong khu vực đồng thời ngăn chận xung đột vì quyền lợi ích kỷ, mưu toan độc chiếm quyền làm bá chủ trong khu vực, đảm bảo việc đi lại bình thường của thương thuyền trên tuyến vận tải thuộc hải phận quốc tế. Cách đây hơn 10 năm, GS Monique Chemillier-Gendreau đã phân tích:
“Việt Nam có thế sẵn sàng đưa vấn đề ra trước cơ quan tài phán thích hợp nhất để giải quyết tranh chấp nầy giữa các quốc gia, cụ thể là là Tòa án pháp lý quốc tế. Trước đây Pháp đã hai lần 1937 và 1947, đề nghị TQ đưa ra tòa án quốc tế hay trọng tài nhưng nhà cầm quyền TQ đã làm ngơ trước các đề nghị đó”(23)
Dẫu biết rằng TQ rất khó chịu không muốn vấn đề chủ quyền lãnh hải đưa ra bàn thảo đa phương vì bản thân đòi hỏi của TQ mâu thuẫn và vô lý ngay trong lập luận của họ(24), trước sau họ chỉ muốn ‘song phương” với lí do đã nêu ở phần trên nhưng chủ trương “đa phương hóa” vấn đề thương thảo về một giải pháp cho biển Đông là một nhu cầu và là biện pháp hữu hiệu nhất mà ta có thể vận dụng cho dù phía TQ có thái độ “tẩy chay”.
Hội nghị quốc tế San Francisco 1951
Tại phiên họp của Hội nghị San Francisco ngày 7/9/1951 Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu [**, xem cuối bài] đã tuyên bố “chúng tôi phải tranh thủ mọi cơ hội để chặn đứng những mầm xung đột, xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ Việt-Nam” và điều nầy đã được ghi vào văn kiện của hội nghị với đa số phiếu tán thành và đã có 46 phiếu chống 3 phiếu thuận, bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Liên Xô Andreï Gromyko đệ trình tu chính án để yêu cầu Hội nghị trao trả Đài Loan, Bành Hồ, Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) cho TQ ! Sau đó TQ ra công bố phủ nhận kết quả nầy với lý do đại diện chính phủ TQ đã không được mời tham gia Hội nghị (25). Văn kiện của Hội nghị San Francisco cho thấy đa số nước thành viên tham gia đã đứng về quan điểm của đại diện QGVN. Phát biểu của ông Trần Văn Hữu không phải là vô ích, xác nhận trước cộng đồng quốc tế chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, phần nào làm rõ sự hiếu chiến, thái độ bất chấp của nhà cầm quyền TQ qua những phát biểu của Chu Ân Lai sau nầy(26).
Xu thế quốc tế hóa việc thương thảo giải quyết vấn đề trên biển Đông là tất yếu để ngăn ngừa xung đột bằng vũ lực
Việc quốc tế hóa vấn đề tranh chấp trên biển đông đã được Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Singapore Teo Chee Hean phát biểu hôm 04/08/2009 “những căng thẳng gần đây trên biển Nam Hải (biển Đông - HLT) cho thấy rằng, các quốc gia trong khu vực cần phải ngồi vào bàn đàm phán và giải quyết những vấn đề tranh chấp theo luật biển của quốc tế”(27). Loay hoay tìm kiếm một giải pháp song phương là cách giải quyết tạm thời, chỉ đem lại lợi ích đơn phương cho TQ, điều mà chính các nước trong khu vực rất cảnh giác và có thể tạo ra sự đố kỵ của những nước trong cùng tổ chức ASEAN. Chắc chắn đây không phải là một sự lựa chọn thông minh của một nước vốn nhỏ bé và yếu thế gấp trăm lần so với người láng giềng vĩ đại. Hành động phối hợp giữa đại diện Chính phủ hai nước VN và Malaysia trình bày Báo cáo chung VN - Malaysia về ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý ở khu vực phía nam biển Đông tại phiên họp toàn thể lần thứ 24 của Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc trong hai ngày 27 - 28.8.2009 ở New York (Mỹ) vừa qua là một minh chứng cho thấy không chỉ chúng ta mà các nước láng giềng quanh biển Đông có chung một nguyện vọng (28)
Nguyên Đại sứ Võ Anh Tuấn, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Luật biển Liên hiệp quốc lần thứ III cho biết “với Malaysia, đã thành lập cơ chế khai thác chung vùng thềm lục địa chồng lấn giữa hai nước (1992). Với Thái Lan, Việt Nam đã ký Hiệp định phân ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan (1997). Với TQ, ta đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ (2000). Với Indonesia, đã ký Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa hai nước (2003)…” (xem chú thích 22). Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhắc lại “đầu năm 2009 Việt Nam và Malaysia đã ký bản ghi nhớ xây dựng báo cáo chung về ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý. Cả hai nước hy vọng sẽ giải quyết những vụ vi phạm về đánh bắt cá thi thoảng xảy ra giữa ngư dân hai nước trên tinh thần hữu nghị và hợp tác. Ngoài ra vùng khai thác chung giữa Thái Lan và Malaysia rộng 7.250 km2 có 800 km2 liên quan đến Việt Nam. Ba nước đã thỏa thuận sẽ cùng nhau giải quyết khu vực này trên tinh thần hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau”(29) cho thấy xu thế đối thoại giữa các nước trong khu vực về các vấn đề trên biển Đông đang được cụ thể hóa để giải quyết bằng giải pháp “cùng thắng” (win-win solution) trong khi TQ luôn tìm cách tránh né việc thương thảo đa phương như đã đề cập ở trên. Nhưng thử đặt vấn đề rằng sáng kiến mở ra một hội nghị quốc tế không hạn chế những nước tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, mà với thành phần tham dự đông đủ của cả khu vực Châu Á-TBD (gồm các nước trong APEC) tạo điều kiện cho TQ dễ dàng tham gia và tranh luận cùng tiến tới một thỏa thuận khung (hay chí ít là xác nhận sự đồng thuận đã có từ năm 2002 về Qui tắc ứng xử trên biển Đông) lâu dài và công bằng, phải chăng là một đề xuất mà chúng ta có thể trình bày trước cộng đồng quốc tế. Thời gian để hành động không còn nhiều nếu như những phân tích ở trên của GS Urano Tatsuo dự kiến là chính xác, nhiều khả năng báo hiệu TQ đang dần chuyển sang kế hoạch lấn chiếm bằng vũ lực để “thu hồi” toàn bộ quần đảo Trường Sa, giai đoạn 2 trong chiến lược làm chủ biển Đông của lãnh đạo TQ đã vạch ra từ năm 1995.
Với tâm thế bảo vệ hòa bình, an ninh cho khu vực cũng như cho bản thân mình, vì quan hệ láng giềng tốt đẹp với các nước chung quanh vùng biển Đông, trong đó TQ là đối tác quan trọng hàng đầu, chúng ta có quyền tin tưởng rằng Việt Nam, một dân tộc hiếu hòa, thân thiện với mọi người, có thể đóng vai trò quan trọng với tư cách thành viên của Hội Đồng Bảo An LHQ, góp phần tích cực xây dựng biển Đông thành một biển “Thái Bình” của cộng đồng quốc tế, như cái tên vốn có của nó. Việc cảnh giác “ngay cả khi giới lãnh đạo TQ thành tâm trong các ý đồ hòa bình hiện nay, chúng ta cũng không thể nào tiên đoán được chính quyền TQ sẽ theo đuổi các quyền lợi của mình như thế nào trong nhiều thập kỷ tới, hoặc họ sẽ hành động ra sao trong một môi trường quốc tế đã thay đổi”(30). như Christopher J.Pehrson viết trong bản báo cáo của mình cho thấy những âm mưu “bành trướng” của TQ là mối đe dọa lớn, trong đó trọng tâm chiến lược không còn quanh quẩn chung quanh đảo Đài Loan mà đang vươn xa theo sự trỗi dậy về kinh tế và quân sự của TQ trong những thập kỷ tới mà Việt Nam là một bàn đạp lý tưởng ?!
Thiết nghĩ phương châm “16
chữ vàng” và tinh thần “4 tốt”
trong quan hệ Việt-Trung mà lãnh đạo
hai nước nhấn mạnh chỉ có ý
nghĩa thiết thực nếu đây là
cơ sở vững chắc để xây dựng
lòng tin lẫn nhau, làm phát triển,
ổn định và phồn vinh cho dân tộc
Việt Nam cũng như người bạn láng
giềng TQ khi nền độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ kể
cả biển đảo của nhân dân
Việt Nam được tôn trọng, vì
lợi ích của hai dân tộc Việt-Trung,
góp phần củng cố hòa bình lâu
dài cho khu vực và thế giới.
Hồng Lê Thọ
9/2009
(*) Tư tưởng Đại Hán hình thành từ Triều đại đầu tiên là nhà Thương, định cư dọc theo lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng thế kỷ 18 đến thế kỷ 12 TCN. Nhà Thương bị nhà Chu chiếm (thế kỷ 12 đến thế kỷ 5 TCN), đến lượt nhà Chu lại bị yếu dần do mất quyền cai quản các lãnh thổ nhỏ hơn cho các lãnh chúa… vào thời Xuân Thu, nhiều quốc gia độc lập đã trỗi dậy và liên tiếp giao chiến, và chỉ coi nước Chu là trung tâm quyền lực trên danh nghĩa. Cuối cùng Tần Thủy Hoàng đã thâu tóm tất cả các quốc gia và tự xưng là hoàng đế vào năm 221 TCN, lập ra nhà Tần, quốc gia TQ thống nhất về thể chế chính trị, chữ viết và có một ngôn ngữ chính thống đầu tiên trong lịch sử TQ (Xem http://vietphattour.com/vi/node/220) và Lữ Phương trong Ba bài viết về Việt Nam “đổi mới”
Đường màu đỏ: chủ quyền
lãnh hải theo chủ trương của TQ
trên Thái Bình Dương
Chú thích:
(1) Phạm Hoàng Quân “Chủ quyền cương giới biển và Hoàng Sa – Trường Sa”
(2) xem Dương Tác Châu “紛争南沙諸島”(Tranh chấp ở quần đảo Trường Sa) NXB Shinhyoron(Tokyo) 1994
(3) Hồng Lê Thọ”Rừng vàng biển
bạc…Nanh vuốt của những đoàn
“tàu” lạ …tháng 8/2009
http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/rungvangbienbac.htm
(4) Con thuyền của Fujiwara no Kiyokawa
và Abe no Nakamaro gặp bão trôi dạt xuống vùng đất lạ phương Nam. Sách
Tục Nhật Bản kỷ (chính sử của Nhật Bản hoàn thành vào năm 797) viết: “…
Lúc trở về gặp gió ngược trôi dạt đến tận Hoan châu, phía nam
của nhà Đường”.
Nước ta lúc bấy giờ đang bị TQ đô hộ với tên gọi An Nam. Châu Hoan đối
với Nhật Bản rất xa lạ, rất khó xác định, nhưng đối với người Việt thì
Châu Hoan cùng với Diễn, Ái là khá quen thuộc. Châu Hoan tức là vùng Hà
Tĩnh, Việt Nam hiện nay.
Tiếc là khi thuyền của Fujiwara và Abe dạt đến vùng châu Hoan (năm 754)
, thì chắc là do bị hiểu lầm, nên đã có cuộc một chạm trán khá gay go
giữa người trên tàu với dân địa phương. Cuối cùng thì một số người trên
tàu bị bắt. Sau khi hiểu ra, số này được giúp đỡ đưa về TQ. Fujiwara no
Kiyokawa và Abe no Nakamaro nằm trong số đó. Abe trở lại Trường An,
được vị vua mới là Đường Túc Tông tiếp tục cho làm quan với chức Tả tán
kỵ thường thị - một chức quan có nhiệm vụ giúp việc bên cạnh nhà vua :
cố vấn, can gián, tấu trình và ứng đối… Ông cũng được phong mấy chức
quan có liên quan đến An Nam như: Trấn Nam (An Nam) đô hộ, rồi An Nam
tiết độ sứ. Về việc này giới sử học Nhật Bản vẫn còn chưa thống nhất:
một bên thì cho Abe làm quan ở An Nam thật (quan điểm này trước 1945 bị
nhóm có tư tương cực hữu lợi dụng, cho Abe là người Nhật đã từng cai
trị An Nam từ trước thế kỷ 10), nhưng một bên khác, đưa ra nhiều lập
luận có tính thuyết phục hơn, cho rằng: những chức quan liên hệ đến An
Nam phong cho Abe chỉ có tính chất danh dự, còn Abe vẫn làm việc ở Kinh
đô. Vậy là cho đến cuối đời, hơn 15 năm sau khi lưu lạc ở An Nam trở
về, tác giả bài tanka về “vầng trăng núi Mikasa” không quay về cố hương
Nhật Bản nữa. Abe no Nakamaro mất vào năm 770 (Đại Lịch thứ năm đời
Đường Đức Tông) tại Trường An, thọ 73 tuổi. Sau khi mất ông được truy
tặng chức Lộ Châu đại đô đốc(5). Còn vị “Thi Tiên” bạn ông - Lí Bạch,
đã mất trước Abe 8 năm- năm 762. Xem http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?p=79404
và
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,32383
(5) Ông Kawamura Sumihiko, nguyên Phó Đề Đốc Hải quân Nhật Bản phân tích “từ khi có chính sách mở cửa TQ từ một vị trí nước lớn dựa trên đất liền đã trở thành một nước ngoại thương hùng mạnh dựa cải cách vào hàng hải từ đó tăng cường việc phòng thủ quyền lợi kinh tế các tỉnh duyên hải, chiếm đoạt tài nguyên ở đại dương và liên tục mở rộng tầm kiểm soát vùng biển và vùng trời bằng sức mạnh hải và không quân. Lý luận nền tảng cho hành động nầy là khái niệm về một “đường biên giới chiến lược mới” cho rằng đường biên giới quốc gia của họ sẽ phải thay đổi ngang tầm với sức mạnh của TQ và môi trường (tình hình chính trị) bất chấp luật lệ quốc tế” chính vì vậy mà TQ muốn đẩy nhanh tiến độ đàm phán và thương lượng về đường biên giới dài 1400 km trên đất liền (đã kết thúc năm 2008) và đường biên giới trên vịnh Bắc Bộ với Việt Nam ?
中国の海洋戦略―川村研究所代表/元海将補・
川村純彦氏に聞く
(Phỏng vấn Viện trưởng viện
nghiên cứu Kawamura Sumihiko—Nguyên Phó
Đô Đốc Hải quân NB-- về chiến
lược biển của TQ). Xem http://www.asahi-net.or.jp/~VB7Y-TD/k6/160826.htm
(6) Xem “Người Hoa Tại Việt Nam Qua Các Thời Đại” của Nguyễn Văn Huy, và
“Làng Minh Hương” của Huỳnh Ngọc Trảng.
(7) Hoàn cầu Thời Báo http://mil.news.sina.com.cn/2009-07-04/1007557641.html
(8) “Tham vọng hàng hải của TQ” Olivier Zajec Meta (Le Monde Diplomatique)
(9) Tuổi Trẻ ngày 3/9/2009
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=334923&ChannelID=3
(10) Xem thêm
“Sea
Lane Security and U.S. Maritime Trade: Chokepoints as Scarce
Resources” Donna J. Nincic. Trích: “in
modern terms SLOCs might properly be conceived as sea lines of
commerce. Although the traditional and military term remains sea
lines of communication (SLOCs) , the civilian maritime community
frequently refers to such zones of transit as sea lanes of
communication. To combine the commercial perspective with the
imperative to defend maritime commerce using military forces, the
author deliberately chooses sea lanes of communication and the
acronym SLOC for use throughoutthispaper”.
(11)
String of Pearls: Meeting
the challenge of china’s rising Power across the asian
littoral, 7/2006, by Christopher J. Pehrson
www.strategicstudiesinstitute.army.mil/pdffiles/PUB721.pdf
(12) ”南海諸島国際紛争史” 浦野起央著 NXB Tósui, Tokyo 1997—International Conflict Over The South China Sea, by Dr.Urano Tatsuo(Nihon University) p.1055
(13) “China’s Power and Will: The PRC’s Military Strength and Grand Strategy” by June Teufel Dreyer
“Chính phủ TQ đã biện hộ cho việc gia tăng chi phí quốc phòng lấy cớ rằng đó chỉ bù lại nạn lạm phát gia tăng trong nước. Tuy nhiên, mức tăng quốc phòng này vẫn diễn tiến ngay cả khi nền kinh tế giảm phát, và thường vượt chỉ số lạm phát. Trong thập kỷ trước 2006, chi tiêu quốc phòng hàng năm tăng gấp hai con số -bình quân là 13,7%- sau khi trừ đi phần lạm phát. Hậu quả tích lũy của thập niên này là gần như gấp 4 lần chi phí quốc phòng đòi hỏi thực sự “.
Ngày 4/3/2009 theo BBC, TQ cho biết ngân sách quốc phòng của họ sẽ tăng một cách ‘khiêm tốn' trong năm nay, thêm 14.9%, lên 480.6 tỷ nhân dân tệ, tương đương 70.2 tỷ USD trong năm 2009.
(14) “Điều trần của Phó phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Robert Scher”
Vụ an ninh Á châu và Thái Bình Dương, Văn phòng bộ trưởng Quốc phòng trên Bauvinal.info.free.fr
(15) như (2)
(16) Trước yêu sách 80% diện tích biển Đông của TQ : Không chấp nhận đường "lưỡi bò”
(17) ”CUỘC TRANH CHẤP VIỆT – TRUNG VỀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA” của ông Lưu Văn Lợi do nhà xuất bản Công An Nhân Dân Hà Nội ấn hành năm 1995 hiện có bản đánh máy lại trên Bauvinal.info.free.fr
(18) ”CHỦ QUYỀN TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA “của GS Monique Chemillier – Gendreau do Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia Hà Nội ấn hành 1998 hiện có bản đánh máy lại trên Bauvinal.info.free.fr
(19) Trích từ Tài liệu đã dẫn ở (18), trang 8 & 9
(20) Đoan Trang “Vấn đề Trường Sa - Hoàng Sa: cần một nỗ lực tổng hợp”
(21) như chú thích (12)
(22) Võ Anh Tuấn, Nguyên Đại Sứ, Trưởng
đoàn đại biểu Việt Nam tham dự
Hội nghị Luật biển Liên hiệp quốc lần thứ III
http://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Luat-phap-QT-va-chu-quyen-cua-VN-doi-vo-TS-HS.aspx
(23) như (18) trang 15
(24) “TQ đã tự nhận những yêu sách của mình ở biển Đông là vi phạm luật
quốc tế?” - Bauvinal.info.free.fr 31/08/09
“Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao TQ Tần Cương lại cho rằng, Nhật Bản dùng bãi đá này làm cơ sở để chủ trương quản lý diện tích rộng lớn của vùng biển này, đồng thời hy vọng thông qua cách làm nhân tạo để hỗ trợ và thúc đẩy chủ trương của mình. Điều này không phù hợp với luật quốc tế đã công nhận, cũng đã ảnh hưởng tới lợi ích cộng đồng quốc tế. Theo ông Tần Cương, bãi đá ngầm Okinotori không phải là một hòn đảo mà một tảng đá. Theo “Công ước Luật biển LHQ” bản thân nó không có khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa 200 hải lý”.
Trên thực tế TQ đã xây các bờ kè nhân tạo trên các hòn đá san hô ở Trường Sa, từ đó vẻ ra thềm lục dịa 200 hải lý chung quanh để xác định chủ quyền lãnh hải ở biển Đông thì sao ? Không vi phạm với Luật quốc tế chăng ?
(25) Trích: Sử Địa 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Sài Gòn,1975. Tuyên bố của ông Trần Văn Hữu nguyên văn bằng tiếng Pháp, như sau : “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasion pour étouffer les germes de discorde, nous afirmons nos droits sur les iles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet-Nam”.
Ông bà đại sứ Võ Văn Sung (Pháp) tiếp cụ Trần Văn Hữu - cựu thủ tướng thời Bảo Đại, tại Đại sứ quán VNDCCH
(26) PHỦ NHẬN HOÀN TOÀN QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC.... Đinh Kim Phúc 5/2009
(27) http://www.straitstimes.com/Breaking%2BNews/Singapore/Story/STIStory_412380.html
(28) http://www.biendao.org/news.php?do=detail&id=737 bản tin của Việt Nam Thông tấn xã
(29) Đinh
Kim Phúc
“quốc
gia Việt Nam
trên Vùng Biển Đông và hai quần
đảo Hoàng Sa - Trường Sa, 02/08/2009 ”
(30) Như chú thích (9)
(**) Trong lần xuất bản đầu tiên bài này, chúng tôi đã viết nhầm là " Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Hữu" (dù trong chú thích tấm ảnh cuối bài, tên họ ông Hữu được viết đúng). Vậy xin cáo lỗi cùng bạn đọc và xin sửa lại ở đây. "Việt Nam cộng hoà", như ta biết thực ra chỉ ra đời vào tháng 10 năm 1955 sau khi ông Ngô Đình Diệm tổ chức "trưng cầu dân ý" ở miền Nam, lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại và thành lập nhà nước cộng hoà mới. Năm 1951, ông Trần Văn Hữu là Thủ tướng của "Quốc gia Việt Nam", một thành viên của Liên hiệp Pháp với tên tiếng Pháp là "Etat du Vietnam", được thành lập năm 1949 sau khi ông Bảo Đại được Pháp đưa về "chấp chính".
Các thao tác trên Tài liệu