Tháng Năm 68
40 năm sau
« THỜI ĐIỂM 68 »
NGUYỄN QUANG
« Tôi đã
từng hai mươi, và tôi sẽ không
chịu
để cho ai nói rằng
đó là tuổi đẹp nhất trong
đời »
Paul NIZAN
Tháng năm đẹp trời này, với không biết cơ man sách báo, phim ảnh, phỏng vấn, chương trình truyền hình truyền thanh đặc biệt... chẳng còn ai còn có thể không biết rằng, năm 1968, vào tháng năm, đã xảy ra « cái gì đó ». Nhưng đó là cái gì ? Cách mạng hay nổi loạn ? « Công xã » sinh viên hay phong trào đấu tranh xã hội ? Chấn động chính trị hay chỉ là dịp thổ lộ can tràng ? Phải nói : tháng 5.1968 là tất cả những thứ đó, và cộng thêm cả một cái gì khác nữa cơ. 1968 quả là một năm đa dạng đa hình, một khoảng thời gian đã chứng kiến những sự biến đụng độ nhau, mười năm cộng lại cũng không bằng. Một bản nhạc đa âm toàn cầu mà cụm từ tiếng Pháp « Mai 68 » trở thành quá hạn hẹp để thể hiện. Vì vậy, trong bài này, chúng tôi xin tạm gọi là « thời điểm 68 », hay « momen 68 »
Một thời điểm mà suốt 40 năm qua, bao nhiêu phân tích, bình giải, diễn văn, luận chiến vẫn chưa khai thác được hết tính đặc thù, cố nhiên ở đây, chúng tôi sẽ không dám nuôi tham vọng đó. « Thời điểm 68 » là một thứ thiên thạch không thuộc loại hình xác định nào, ta sẽ không tài nào hiểu được nếu chỉ hạn chế nó một cách giả tạo trong khoảng thời gian 12 tháng, tách rời nó ra khỏi bối cảnh lịch sử (xem khung đi kèm). Không có độ lùi, ta sẽ chỉ thấy một mớ « phụ tượng » rời rạc, tản mạn, thậm chí nghịch lí, tỉ như một bức hoạ nhìn quá gần, chỉ thấy muôn vàn những hạt màu. Mà ngay như có đủ độ lùi cũng chưa chắc làm toát ra tính thống nhất (giả sử là có) của một hiện tượng muôn hình vạn trạng như « momen » 68.
« 68/1 »
Hãy lấy ngay thí
dụ là cuộc nổi dậy của tuổi
trẻ trên toàn cầu, nét nổi bật
trong kí ức tập thể về năm 1968.
Đó quả nhiên là một sự
kiện toàn cầu, nhưng thực chất là
những phong trào khác nhau, hầu như
không liên quan tới nhau :
* Theo trình tự thời gian thì trước tiến phải kể phong trào thanh niên Mĩ, bùng lên từ đầu thập niên « sixties », cùng lúc trên hai mặt trận :
-
trên mặt trận văn hoá – hay đúng hơn, mặt trận phản-vănhoá – với trào lưu « pop », hoà bình chủ nghĩa, nụ cười trên môi, hơi « sương khói » của « flower power », với đỉnh cao là cuộc tập hợp vào tháng giêng 1967 tại Công viên Golden Gate (San Francisco) : 40 000 cô cậu « hippies » rắc hoa lên cảnh sát và « tỏ tình » với họ. Trào lưu vô chính phủ và psychedelic này sẽ lan rộng khắp thế giới. Mọi người chắc còn nhớ bài ca của Scott McKenzie, nhan đề San Francisco : “ There's a whole generation / With a new explanation.” và câu nói khiêu khích của John Lennon : « Chúng ta đừng bao giờ quên ơn CIA và quân đội (Mĩ) đã mang lại LSD [năm 1953, cục tình báo CIA đã mua hợp chất LSD của công ti dược phẩm Sandoz để sử dụng làm vũ khí « kiểm soát tinh thần » (mind control)]. Họ đã phát minh ra LSD để kiểm soát đầu óc chúng ta. Kết quả : họ đã mang lại tự do cho chúng ta ».
-
trên mặt trận chính trị, cuộc đấu tranh cho các Quyền Dân sự đã được Martin Luther King đẩy mạnh. Đường lối của MLK bắt nguồn từ Gandhi, nhưng « khác ở chỗ nó không phải là triết lí bất bạo động áp dụng cho mọi mặt của cuộc sống, mà bất bạo động được quan niệm như kỉ luật tự giác về chính trị, làm phương pháp bất phục tùng dân sự ». Thành tựu độc đáo của MLK là thành lập SNCC, một uỷ ban điều hợp « sinh viên bất bạo động », da trắng và da đen, cả một thế hệ thanh niên đấu tranh chống nạn kì thị chủng tộc, không những trong lãnh vực pháp lí, mà ngay cả trên « thực địa ». Cứ tới mùa hè là các « hành giả của tự do » (freedom riders) lại « hành hương » xuống miền nam Hoa Kì để bất chấp – một cách hoà bình – những cấm kị của « luật Jim Crow » (thí dụ trên xe đò, có những hàng ghế dành cho người da trắng và những hàng ghế dành cho người da đen). Phải dũng cảm lắm bởi vì họ phải chịu đựng mọi sự đe doạ, hạ nhục, hành hung, thậm chí tàn sát (xem phim Mississippi Burning của Alan Parker).
Đầu thập niên
60, những thắng lợi của phong trào
giành quyền công dân có thể làm
cho người ta lạc quan, Joan Baez có thể
cất cao tiếng hát We shall
overcome : năm
1964, Đạo luật về Quyền công dân
đã chính thức huỷ bỏ nạn
kì thị chủng tộc, MLK được
trao giải Nobel hoà bình. Nhưng « con
sâu đã đục khoét quả chín »
rồi : khi MLK muốn triển khai phong trào
lên miền bắc nước Mĩ, thì
ông vấp phải cái mà ông gọi
là sự « thờ ơ » của
chính cộng đồng người da đen
và gặp phản ứng kì thị của
một số cộng đồng sắc tộc
khác (Ý, Ba Lan) – những người
này sợ ưu quyền (tương đối)
của họ bị đụng chạm. Xu hướng
bất bạo động lại chịu sự
cạnh tranh của phong trào Black Power (Chính
quyền Đen) chủ trương cộng đồng
người da đen phải tự vệ bằng
vũ trang. Và trên thực địa, uỷ
ban SNCC phải cạnh tranh với Black Panthers (Báo
Đen), phong trào « cách mạng
Phi-Mĩ » kết hợp đấu tranh xã
hội và đấu tranh vũ trang chống
lực lượng cảnh sát. Và ngày
4.4.1968 tại Memphis, MLK bị một phần tử
cực đoan người da trắng, James Earl Ray,
ám sát.
Kinh nghiệm thực tế của các « hành giả tự do » chắc chắc đã góp phần vào sự cấu trúc các phong trào sinh viên phản đối chiến tranh Việt Nam và cưỡng lại giới cầm quyền. Chính tại Berkeley, cái nôi của phong trào sinh viên, mà Free Speech Movement (Phong trào Tự do Phát biểu) đã ra đời năm 1964, đòi quyền tự do hoạt động chính trị tại khuôn viên các trường đại học, và năm 1965 « Vietnam Day Committee » bắt đầu hoạt động chống chiến tranh và chủ nghĩa đế quốc Mĩ. Các bài ca phản kháng của Bob Dylan (Blowin’ in the wind, The times they are a-changin’...) vang lên, đánh dấu thời kì sôi nổi này. 1968 là đỉnh cao, mà cũng là sự suy tàn của phong trào phản kháng « sixties ». 1968 là năm Mĩ đưa tới nửa triệu quân sang Việt Nam, con số lính Mĩ chết trận đã vượt mức 20 000, và trên lãnh thổ Hoa Kì, trung bình mỗi ngày có khoảng 30 trường đại học bị chiếm đóng. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (cuối tháng giêng 1968) tiến đánh đồng loạt 140 thành phố và thị trấn, chiếm đóng cố đô Huế và toà đại sứ Mĩ ở Sài Gòn, quả là một cái tát trời giáng vào uy lực của Hoa Kì. Sự thật hiển nhiên là Mĩ không thể đánh thắng trong « cuộc chiến tranh này ». Cuối tháng ba, tổng thống Johnson nhận đàm phán ở Paris và đồng thời rút lui khỏi sân khấu chính trị. Cho dù phải tới năm 1975, khi Sài Gòn ‘thất thủ’ thì cuộc chiến tranh mới chấm dứt, song có thể nói rằng thế hệ ‘sixties’ ở Mĩ đã giành phần thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống « cuộc chiến tranh vô đạo ».
Thế hệ ấy – nhưng lúc đó, họ không ý thức được điều này – cũng đồng thời thất bại trong cuộc đấu tranh cho một giấc mơ không tưởng. Muốn hiểu được nghịch lí này, ta phải đi ngược lên căn nguyên của thể chế lưỡng đảng của Mĩ. Lịch sử của Hoa Kì là một chuỗi những chu kì « thống trị lâu dài » của luân phiên hai đảng dân chủ và cộng hoà (với thỉnh thoảng cũng có những « ngoặc đơn » ngắn ngủi, không có ý nghĩa gì lớn). Thế hệ « baba cool » vô tình đã kết thúc một chu trình cầm quyền của Đảng dân chủ bắt đầu với tổng thống Roosevelt. Còn tổng thống Johnson, người bị chê trách vì cuộc chiến tranh Việt Nam (chính ông ta thú nhận sự bất lực của mình bằng cách tự ví là người đừng lề đường xin đi quá giang dưới trời mưa), sẽ được ghi nhớ trong lịch sử là nhà cải cách vĩ đại cuối cùng của thế kỉ Mĩ, với dự án Big Society (Xã hội Vĩ đại), với những đạo luật chống kì thị chủng tộc và những đạo luật lớn về an ninh xã hội. Năm 1968, thất bại ở Việt Nam và lỗ trống về quyền lực đã làm thức dậy « đa số thầm lặng » và báo hiệu sự trở về của « trật tự đạo đức ». Gió đã nổi lên rồi, nhưng đó là gió chướng, thổi ngược. Đối diện với ứng viên Cộng hoà là Nixon, đảng Dân chủ xâu xé nhau, những « baba cool » thì ủng hộ Eugene McCarthy, những phần tử « khuynh tả » thì vận động cho George McGovern, còn những ai nuối tiếc huyền thoại Kennedy thì muốn dồn phiếu cho Robert, em trai của tổng thống bị ám sát 5 năm trước đó. Nhưng sáu tuần lễ sau Martin Luther King, tại Los Angeles, đến phiên Robert Kennedy ngã xuống trước nòng súng của Sirhan Sirhan, một người Palestin mắc bệnh tâm thần. Trong cuốn sách bán chạy viết về năm 1968, The Year the Dream died (Năm chết đi giấc mơ), kí giả J. Witcover đã lấy thảm kịch phi lí này làm biểu tượng kết thúc một năm đã « làm rung chuyển thế giới ». Sự khủng hoảng, mất hết phương hướng của phái tả Hoa Kì thể hiện một cách thảm hại trong dịp đại hội của Đảng dân chủ họp tại Chicago vào tháng 8.1968, vài ngày sau khi xe tăng Liên Xô tràn vào Praha. Giới chức của Đảng dân chủ đã đạt được mục tiêu là phó tổng thống Humphrey được đề cử làm ứng viên, nhưng trong suốt sáu ngày, hội trường bị các phần tử cấp tiến vây chặt. Dân chúng Mĩ tá hoả chứng kiến trực tiếp trên màn ảnh TV cuộc đụng đầu giữa người biểu tình và lực lượng cảnh sát : 600 người bị bắt, hơn 100 bị thương. Nhà văn hài hước Art Buchwald bình luận : « Sự tự sát của các đảng viên dân chủ đã gây kinh ngạc trong đám súc vật ở lò sát sinh » (ám chỉ lò sát sinh Chicago nổi tiếng). Đúng là những cuộc nổi loạn tháng 8 đã khơi động phản xạ hoảng sợ có lợi cho Đảng cộng hoà, nhưng quan trọng hơn nữa là sự rạn nứt giữa một bên là giai cấp trung lưu da trắng, tán thành tôn ti trật tự mà cảnh sát và thị trưởng Daley là đại biểu, và bên kia là tuổi trẻ cấp tiến không còn nhận ra mình trong hoạt động chính trị cổ điển. Thế là kết thúc quá trình từng bước tan biến liên minh liberal (hiểu theo nghĩa ở Mĩ, nghĩa là khá phóng khoáng, tiến bộ) đã ngự trị đời sống chính trị, xã hội Hoa Kì từ những năm 30, để nhường chỗ cho liên minh bảo thủ bắt đầu từ năm 1968 với Nixon và chiếm vị trí thống trị vào năm 1980 với Reagan. Liệu tháng 11 tới đây, cuộc bầu cử tổng thống có bắt đầu một chu kì mới hay chăng ?
* Điểm dãn nhịp (point d'orgue) của « momen 68 » Hoa Kì (mà cũng có thể hiểu như biểu tượng thất bại) – cả thế giới đã chứng kiến trực tiếp từ Mexico ngày 16 tháng Mười 1968 – là khi các lực sĩ chuyên chạy nước rút người da đen Tommie Smith và John Carlos, đứng trên bục vô địch Thế vận hội 200m, chân trần, đầu cúi gằm, tay giơ nắm đấm đeo găng đen lên trời giữa lúc nhạc cử God blesses America (quốc thiều Hoa Kì). Trước sự bàng hoàng của Uỷ ban Thế vận hội (với vụ rước đuốc vừa qua (người ta biết Uỷ ban này coi trọng các nguyên tắc đến mức nào), hai lực sĩ da đen đã chiếm lĩnh một khán đài thể thao, biến nó thành diễn đàn chính trị. Cử chỉ chính trị « nặng hơn ngàn lời » ấy, họ đã phải trả giá, như chính Tommie Smith đã thừa nhận : sự nghiệp thể thao, thậm chí cả cuộc đời của họ.
Thế vận hội Mexico năm 68 cũng đã cướp đi cuộc đời (theo nghĩa đen) của nhiều người trong « cuộc tàn sát ở Quảng trường Ba nền Văn hoá » thuộc khu Tlatelolco. Ngày 2 tháng Mười – đúng 10 ngày trước lễ khai mạc Thế vận hội – công an và cảnh sát, có xe tăng và máy bay trực thăng yểm trợ, bao vây 8000 người biểu tình ở quảng trường và nổ súng, giết chết 300 người. Hai ngàn sinh viên bị bắt, nhiều người bị đánh đập và hạ nhục (diễn tập một phương pháp mà bọn quân phiệt Chile 5 năm sau sẽ áp dụng ở sân vận động Santiago), các thủ lĩnh sinh viên bị bỏ tù, và El Movimiento Estudiantil bị chặt đầu. Để hiểu ý nghĩa biến cố này, cần đi ngược thời gian : trong những năm 60, trong khi nhiều người trên thế giới tưởng lầm rằng Mexico là một nước « tiến bộ » bởi chính quyền luôn miệng nhận mình là người thừa kế của cuộc cách mạng 1919-1920, thì đất nước này đã trải qua nhiều đột biến xã hội quan trọng – đặc biệt là sự tăng trưởng của các giai cấp trung lưu, và sự bành trướng đại học. Trong các trường đại học, các trường cao đẳng kĩ sư, các học viện kĩ thuật, sinh viên khuấy động liên tục chống lại Nhà nước PRI ("Đảng cách mạng định chế"), tình hình tỏ ra nghiêm trọng trong hai năm 66-67, sang năm 68 thì chùng xuống vì thiếu hậu thuẫn. Điều mà chính quyền và dân chúng không chờ đợi, là đến tháng Bảy 68, phong trào lại bùng lên mạnh mẽ sau vài cuộc đụng độ tương đối cũng "bình thường" giữa lực lượng công an và sinh viên thân Castro. Cuộc đàn áp làm bùng nổ cuộc bãi khoá tại các trường trung học và đại học lớn ở Mexico (250 000 sinh viên học sinh bãi khoá, Uỷ ban phối hợp toàn quốc đòi chính quyền trừng phạt cảnh sát, trả tự do cho tù nhân chính trị và huỷ bỏ điều 145 hình luật (trừng trị tội "suy đồi xã hội"). Sự đồng hiện của phong trào Mexico với các diễn biến ở Hoa Kì và Âu Châu giải thích tại sao, giữa tháng 8, nó có thể huy động hàng trăm nghìn người tham gia những cuộc biểu tình (hoà bình). Có thể nghĩ, như nhiều nhà sử học, rằng sang tháng mười chính phủ PRI đã quyết định đàn áp mạnh mẽ để, bằng mọi giá, bảo đảm diễn tiến của Thế vận hội.
* Bên kia bờ Thái
Bình Dương, tại Nhật Bản,
cuộc
nổi dậy của sinh viên cũng kết
tinh từ chiến tranh Việt Nam, ghép vào
đó là xu hướng dân tộc chủ
nghĩa : nước Nhật thất trận bị
quân đội Mĩ chiếm đóng, máy
bay B-52 cất cánh từ Okinawa sang ném bom
miền Bắc Việt Nam, còn hạm đội
Mĩ có thể cặp bến ở bất cứ
hải cảng nào của quần đảo
Nhật. Mũi nhọn của phong trào sinh viên
là Zengakuren, liên đoàn các hội
sinh viên tự quản Nhật Bản, được
thành lập năm 1948 với một cương
lĩnh khá cổ điển (dân chủ,
quyền tự do đại học, dân chủ
hoá giáo dục…), sau đó chiến
tranh Triều Tiên và chiến tranh lạnh
đã đẩy lại gần Đảng
cộng sản Nhật Bản, rồi đi tới
phái cực tả triệt để. Về
mặt tư tưởng, liên đoàn
Zengakuren của những năm 1960 đi theo một
thứ chủ nghĩa Marx dung tục, thô thiển,
cho rằng với sự liên minh giữa chủ
nghĩa tư bản Nhật và chủ nghĩa
đế quốc Mĩ, không thể nào có
khả năng dân chủ hoá nước
Nhật, do đó phải dùng bạo lực
để « đỡ đẻ »
cho một xã hội khác ra đời. Về
phương pháp tổ chức, Zengakuren dựa
trên những chuẩn tắc ứng xử của
cá nhân trong xã hội Nhật Bản :
kỉ luật nghiêm ngặt, hiệu lực
nghiệp vụ, tinh thần băng nhóm…
và thực sự trở thành một lực
lượng can thiệp. Cũng giống như
trong phim của Kurozawa (giao tranh giữa hai đội
quân võ sĩ đạo), đoàn biểu
tình và lực lượng công an, hai
bên hàng ngũ siết chặt, giáp
chiến một cách bạo liệt và
ngoạn mục, trước sự chứng kiến
kinh ngạc của thế giới. Những năm
1968-69 là đỉnh điểm của những
cuộc giao chiến liên lục và bạo
liệt. Liên tiếp nhiều lần trong năm
1968, hàng nghìn Zengakuren đối đầu
với các đơn vị công an để
ngăn cản không cho hàng không mẫu
hạm Enterprise cặp bến Sasebo (tháng giêng),
bao vây căn cứ Mĩ Okinawa (tháng hai),
chống lại việc xây dựng phi trường
Narita (tháng ba). Sang tháng tư (đôi
khi với sự ủng hộ của giáo sư
và giới nghiên cứu), phong trào lan
ra các trường đại học. Trong mùa
hè, sinh viên chiếm đóng hoặc tổ
chức đấu tranh tại hơn 200 trường,
cộng hưởng với sự triệt để
hoá của phong trào phản chiến ở
Mĩ và sự bùng nổ của phong trào
tháng 5.68 tại Pháp. Sang tháng 10, triển
khai chiến lược du kích đô thị,
Zengakuren tung ra cuộc « tiến công
Tokyo », cùng lúc đánh vào
Quốc hội, đại sứ quán Mĩ,
trụ sở công an và nhà ga Shinjuku.
Công nhân cũng tham gia cùng sinh viên,
hơn 300 địa phương xảy ra náo
động. Sau ba ngày giao chiến thực sự
với công an, hàng trăm người bị
thương thuộc hai bên, sinh viên mới
chịu rút về trường. Hai thành
luỹ của « chính quyền sinh
viên », là các trường đại
học lớn Nihon và Todai, bị công an và
các nhóm quốc gia chủ nghĩa tấn
công, vẫn cầm cự được tới
tháng 11.68 (trường Nihon) và tháng
1.69 (trường Todai). Đàn áp thì
đàn áp, cuộc khuấy động
tiếp tục không ngừng trong những năm
69-70, ở các trường đại học
cũng như trên đường phố. Sang
đầu thập kỉ 1970, người ta chứng
kiến hai sự kiện : sự bành trướng
của nền kinh tế Nhật Bản và sự
phân hoá bè phái của Zengakuren (hai
hiện tượng này có lẽ không
độc lập với nhau). Phát sinh từ
những nhóm quân phiệt chủ nghĩa
của Zengakuren, tổ chức « Hồng
quân Nhật » đã lao vào
những phi vụ khủng bố kết thúc
tại sân bay Lod (Israel) năm 1972.
« 68/2 »
Tại Âu Châu, phong trào phản kháng bắt đầu năm 1965 tại Hà Lan với trào lưu « Provo », theo lời những người chủ xướng thì đây là « đây là một cái gì có hơi hớm vô chính phủ chủ nghĩa và ‘situationniste/tình thế chủ nghĩa’ của Guy Debord ». Provo muốn tạo ra con người ‘du nhàn’ (Homo Ludens) và xây dựng một xã hội « Babylone mới ». Chiến thuật Provo là công kích xã hội tiêu thụ bằng những trò ‘khiêu khích’ (provocation) các giá trị của giới tư sản thị dân, chẳng hạn ngày 10.3.1966, quăng lựu đạn khói vào đoàn xe cưới của công công chúa Beatrix (cố nhiên họ đã ‘thắng to’, nghĩa là giành được ‘15 phút vinh quang’ trên media, nói theo kiểu Warhol). Chừng nào, « tháng ba 66 » của Provo báo hiệu « tháng năm 68 », tuy rằng chính họ lại không được chứng kiến vì họ đã tự giải tán từ tháng năm 1967 vì thấy đã thắng lợi – mà đúng thế, xã hội Hà Lan từ đó đã trở thành một trong những xã hội buông thả nhất.
Đi trước « thời
điểm 68 » có lẽ còn phải
kể tới văn hoá (hay phản văn hoá)
pop Anh, đưa đẩy người
« trẻ »
nổi loạn chống lại « thế
giới người lớn », nhưng các
Beatles, Rolling Stones,
Who thực ra quá « trúng
quả » với chế độ và hệ
thống hiện hữu, nên chưa hề đi
xa hơn sự mạnh miệng. Sự kiện duy
nhất ở London có hơi hớm cuộc nổi
dậy của sinh viên là cuộc biểu
tình ngày 17 tháng ba 68, tại Grosvenor
Square, tập hợp 30 000 người, trong đó
có rất nhiều nhân vật tên tuổi
để phản đối cuộc chiến tranh
Việt Nam trước đại sứ quán
Mĩ. Thực ra, « phong trào 68 »
ở Tây Âu chỉ tập trung ở ba nước,
là Ý, Cộng hoà liên bang Đức
và Pháp.
* Tại Ý, « Il
Sessantotto » (68) là một thứ 68 thu
mình, bò sát. Theo lí thuyết gia
thuộc xu hướng « toàn cầu
hoá kiểu khác » Antonio Negri, nó
trải dài suốt mười năm trời,
không có một biến cố sáng lập
hay một sân khấu chủ yếu nào,
bắt đầu từ năm 1967 (cuộc nổi
dậy của công nhân ngành dệt ở
Valdagno, gần Venezia) cho đến năm 1977 (phong
trào mùa xuân « muộn »).
Năm bản lề 1968 ở Ý được
đánh dấu bằng hai yếu tố :
tình hình quốc tế căng thẳng
(chiến tranh Việt Nam), tình hình quốc
nội tế nhị (trường đại học
tiếp nhận con cái thợ thuyền, nhưng
sinh viên tốt nghiệp thì không kiếm
ra công ăn việc làm). Mặt khác,
sự chuyển biến của xã hội Ý
là một hiện tượng tương đối
mới : quá trình thoát ra khỏi
chủ nghĩa phát xít, theo A. Negri, cũng
là quá trình thoát ra khỏi một hình thái « tiền hiện
đại ».
Nếu phải chọn một thời điểm
để đánh dấu, có lẽ nên
chọn 1 tháng ba 1968 là ngày hàng
ngàn sinh viên tuần hành, đi tới
trường đại học kiến trúc
Roma, đụng độ với lực lượng
cảnh sát. Cuộc đụng độ bạo
liệt (hơn 400 người bị thương)
gây sốc lớn trong dư luận. Từ thủ
đô, phong trào lan rộng khắp nước,
nhất là trong giới công nhân. Cũng
nên nhấn mạnh đặc điểm của
Ý : sự « liên kết »
giữa công nhân và sinh viên là
do công nhân chủ động, chính công
nhân đã chiếm đóng trường
sở đại học, thí dụ như công
nhân nhà máy hoá chất Porto Marghera
đã chiếm trường đại học
kiến trúc Venezia. A. Negri giải thích :
cơ bản mà nói, « ở
bên
Ý, đấu tranh thợ thuyền đi trước
đấu tranh sinh viên. Xưởng máy là
diễn đàn thảo luận, trường
đại học là nơi âm hưởng
của những kinh nghiệm ở cơ xưởng »
(trả lời phỏng vấn của « Monde
2 », tháng ba-tư 2008). Chính sự
« nối kết » độc đáo
này đã mang lại cho « tháng
năm bò sát » của Ý bề
dầy và sự lâu dài : nó
kéo dài đến cuối năm 69 và
trong thời gian ấy, xuất hiện một
phương thức hoạt động kiểu
mới, vượt ra ngoài khuôn khổ các
công đoàn truyền thống (« Chúng
tôi muốn mọi thứ ! »), có
âm hưởng mạnh mẽ trong các cuộc
đình công lớn và các cuộc
đụng độ mùa thu 1969 (ở Milano, ở
Torino). Sự bạo liệt của các cuộc
đụng đầu làm nảy sinh ra ý
tưởng đấu tranh vũ trang, dẫn tới
việc thành lập những tổ chức vũ
trang : chẳng hạn như bên hữu, là
Hạt nhân Vũ trang Cách mạng NAR (Nuclei
Armati Rivoluzionari), bên tả, Prima Linea (Tuyến
Đầu) và các Lữ đoàn Đỏ BR
(Brigada Rossa).
Bên hữu, khủng bố nhằm làm
mất ổn định bộ máy Nhà
nước, thí dụ như cuộc đánh
bom tháng 12-1969 ở quảng trường suối
nước Piazza Fontana (Roma). Phái tả thì
chủ trương khủng bố để đối
phó với « chủ nghĩa khủng bố
của Nhà nước », đồng
thời nhằm chỉ dẫn cho giai cấp vô
sản con đường giành lấy chính
quyền bằng cách « đánh một
để giáo dục cả trăm ».
Điển hình nổi tiếng của đường
lối « tuyên giáo » gớm
ghiếc này là vụ BR bắt cóc
lãnh tụ đảng dân chủ Kitô
giáo Aldo Moro và giết chết ông sau
55 ngày giam giữ ; thi hài ông bỏ
trong hòm của một chiếc xe hơi, nằm
giữa trụ sở đảng DC (Dân chủ
Kitô giáo) và Đảng cộng sản
Ý, hàm ý BR cương quyết chống
lại chủ trương « thoả hiệp
lịch sử » giữa hai chính đảng...
Mấy ngàn người đã tham gia các
tổ chức khủng bố (số nạn nhân
lên tới gần 400 người), quy mô
vượt hẳn các nước khác ở
châu Âu, khiến cho hình ảnh chung của
phong trào « tháng năm » tại
Ý bị lu mờ và biến dạng. Đối
với nhiều người, « những
năm
70 nặng nề như chì » của
nước Ý « là sự
suy thoái
từng bước, thê thảm, chuyển từ
các cuộc biểu tình và vận động
xã hội nồng nhiệt của những năm
1968-69 sang chủ nghĩa khủng bố và
những phòng giam đặc biệt của các
nhà tù » (P. Girard).
Ở Đức cũng vậy, « momen 68 » là một « tháng Năm dài ngày », bắt đầu từ mùa xuân 1967 và kéo dài cho tới đầu năm 69. Lộ trình chính trị của đa số các « diễn viên » phong trào bắt đầu với cú sốc khi cảnh sát giết chết sinh viên Benno Ohnnesorg ngày 2.6.67, trong cuộc biểu tình hoà bình phản đối cuộc viếng thăm Tây Berlin của quốc vương Iran. Ngay từ đầu, tương quan lực lượng trên đường phố cũng như trong xã hội phải được hiểu như là sự đối đầu giữa hai thế hệ : thế hệ của chủ nghĩa nazi và thế hệ « baby boom » (đẻ ngay sau 1945). Joshka Fischer (Đảng xanh, nguyên bộ trưởng ngoại giao) gọi đó là sự « đụng độ với quá khứ », một điều tất yếu nhờ sự phát triển của nền dân chủ : « Lịch sử thực sự của 68 tại Đức vẫn chưa được viết thành sách, đó là lịch sử mối quan hệ của thế hệ nazi với con cái của họ và ngược lại [...]. Mối quan hệ với chủ nghĩa quốc xã không phải do 68 đặt ra, mà do thế hệ của tôi, là thế hệ lớn lên trong cuộc phản kháng ấy, ý thức của chúng tôi khác ý thức của lứa các anh các chị chúng tôi. Trong những năm 1950-1960, chúng tôi đã sống trong tình trạng mập mờ hai mặt » (trả lời phỏng vấn của tuần báo Monde 2, ngày 10.05.2008). Song, trong những năm 68, thanh lí sự mập mờ ấy – một việc làm cần thiết – gặp phải ba trở ngại :
- trở ngại trong đầu
óc, khi những người trẻ thì
bảo : « Họ
là thế hệ
của trại tập trung Auschwitz, không thể
thảo luận gì với họ được »,
còn những người lớn tuổi thì
nói : « Muốn
thì cứ sang
Đông Đức hay vào trại lao động
mà sống », hay, tệ hại hơn
nữa : « Sẽ cho chúng bay vào
lò thiêu » (J. Fischer kể lại).
- trong chính giới, vì
từ 66 đến 69, chính phủ Cộng hoà
Liên bang Đức là chính phủ liên
minh tả-hữu, đảng SPD (dân chủ xã
hội) bị kẹt trong chính quyền, (có
lẽ vì thế), không tích hợp được
một bộ phận của sinh viên phản
kháng. Vả lại, cũng không thể
quên rằng chiến tranh lạnh đã cắt
đôi nước Đức, chủ nghĩa chống cộng
được sự đồng thuận ở Tây
Đức, vạch ra một ranh giới mà
phái tả Tây Đức không thể
vượt qua.
- bộ máy nhà
nước (công an, tư pháp...) « luôn
luôn phản ứng quá mức [...] và
cuối cùng tự chuốc cho mình một
hình ảnh ghê tởm mà thanh niên
thời ấy chờ đợi ở bộ máy
nhà nước » (Gerhart Baum, nguyên
bộ trưởng).
Trong phong trào phản kháng, đoàn thể có tổ chức nhất là SDS (Liên đoàn sinh viên xã hội chủ nghĩa) mà hệ tư tưởng chịu ảnh hưởng của Herbert Marcuse, tố cáo những cơ chế thống trị tạo ra « con người đơn kích » (homme unidimensionnel), với thủ lãnh Rudi Dutschke là người có một hấp lực mạnh mẽ. Cũng như ở nhiều nước khác, phong trào Đức bắt nguồn từ các cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Nhưng phải đến tháng tư, khi « Rudi Đỏ » bị mưu sát ở Berlin, mới thực sự bùng nổ cái mà ở Tây Đức người ta thường gọi là « phong trảo sinh viên » hay « phong trào đối lập ngoài nghị viện », với những cuộc biểu tình đại chúng và các cuộc chiếm đóng những trường đại học. Như đã nói ở trên, Nhà nước phản ứng quá mức, cảnh sát đàn áp thắng tay, toà án tuyên án lia lịa, trong khi ở phe hữu, báo chí thuộc tập đoàn Springer điên cuồng chỉ trích phong trào với những lời lẽ bạo liệt ngày nay khó hình dung.
Từ mùa thu 68 sang mùa
đông 69, người ta chứng kiến sự
tan rã của phong trào sinh viên. Ngay từ
mùa hè 68, thời kì hoài nghi và
hoang mang đã bắt đầu : cuộc
vận động chống tập đoàn báo
chí Springer thất bại, cũng như cuộc
vận động chống lại việc quốc
hội thông qua các « đạo luật
tình trạng đặc biệt » (thí
dụ đạo luật về tình trạng
khẩn cấp), tác động của việc
Liên Xô can thiệp ở Tiệp Khắc...
Tháng 10.68, sự thành lập chính phủ
dân chủ - xã hội của thủ tướng
Willy Brandt, với một cương lĩnh cải
cách lớn rộng, đặt những người
phản kháng trước một sự lựa
chọn cơ bản : một số chấp
nhận chiến lược đấu tranh nghị
trường, số khác quay về công tác
quần chúng, một số khác chủ
trương chuyển từ các vấn đề
xã hội sang vấn đề môi trường...
Cuối cùng những bất đồng về
chiến lược và chia rẽ về tư
tưởng đã làm nổ tung phong trào
phản kháng : một số gia nhập đảng
SPD (số đảng viên được kết
nạp đạt con số kỉ lục kể từ
đại hội Bad Godesberg năm 1959), một số
khác quay trở về những mô hình
cổ điển theo Lenin, Trotsky hay Mao (năm 69-70,
riêng Berlin đã có hơn 200 nhóm
tổ chức cộng sản !), lại có
một số, lúc đầu ngoài lề,
sáng lập ra xu hướng chính trị
hoá việc bảo vệ môi sinh... Cũng
trong bối cảnh ấy, những nhóm du kích
thành thị « chống bạo lực
của Nhà nước phát-xít »
đã ra đời. Nhóm nổi tiếng
nhất là RAF (Rote Armee
Fraktion / Chi
đoàn Vũ trang Đỏ),
nôm na hơn là « băng đảng
Baader », với chủ trương chiến
lược là « khích » Nhà
nước đàn
áp, qua đó sẽ biểu lộ thực
chất của nó là trấn áp nhân
dân : « Những
quả bom đánh
vào bộ máy đàn áp cũng là
những quả bom chúng ta ném vào ý
thức của quần chúng ». Rốt
cuộc, những hành động khủng bố
ngày càng triệt để đã đưa
RAF vào lộ trình song song với con đường
của đội BR ở Ý, thí dụ như
vụ bắt cóc và sát hại chủ
tịch giới nghiệp chủ Đức H-M.
Schleyer năm 1977. Mặc dầu Nhà nước
Đức không tài nào thanh toán
được RAF (mãi đến năm 1992, tổ
chức này mới ngừng sử dụng bạo
lực với những con người, và phải
đợi đến năm 1998, nó mới tự
giải tán), nhưng về mặt tư tưởng,
chính quyền Tây Đức đã vô hiệu
hoá được Chi đoàn Vũ trang Đỏ
từ đầu thập niên 80... bằng cách
đơn giản là nó điều chỉnh
lại bộ máy chống khủng bố theo
đúng tinh thần tôn trọng Nhà
nước pháp quyền. 1980 cũng là năm
sáng lập Đảng Xanh (Grünen),
có
thể nói là nhờ đó, cuộc
nổi dậy của sinh viên đã có
nơi thể hiện và gia nhập đời
sống chính trị của nước Đức.
* Ở Pháp,
bước
vào mùa xuân 1968, « nước
Pháp chán đời » (đó
là nguyên văn câu chữ bài xã
luận nổi tiếng của báo Le
Monde ngày
15.03.68). « Chán
đời » về
mặt chính trị, tất nhiên. Giữa
lúc toàn thế giới vang vọng những
cuộc nổi dậy của « sinh
viên
(...) biểu tình, vận
động, đấu
tranh ở Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, An-giê-ri,
Nhật Bản, Hoa Kì, Ai Cập, Đức, cả
ở Ba Lan nữa ; họ có cảm tưởng
phải xông lên phía trước, phải
lên tiếng phản đối, ít nhất
phải gào thét « phi lí »
để cưỡng lại sự phi lí »...
Phi chính trị hoá ? Ngày nay nhìn
lại, chúng ta có thể nhận ra những
vết rạn nứt đang mở ra. Chiều hôm
trước của « tháng Năm 68 »,
nước Pháp là một nước nông
nghiệp cổ lỗ đang ở trong thời
kì hiện đại hoá tăng tốc,
một giai đoạn bành trướng kinh tế
mà chính quyền gia trưởng của
phái De Gaulle giành lấy công trạng,
nhưng lại không làm gì để
cải cách một xã hội phần nào
tắc tị : tắc tị vì những
tôn ti trật tự lỗi thời, do những
giới thượng lưu bám chặt lấy
quy chế đẳng cấp, vì những bất
bình đẳng xã hội và giới
tính... Mặt khác, cuộc bành trướng
kinh tế cũng đang hết đà :
công nghiệp bắt đầu phải tái
cấu trúc (thí dụ như trong ngành
mỏ than), nạn thất nghiệp ló dạng
(450 000 người mất việc !), suốt
năm 67 đã liên tục có khuấy
động trong giới công nhân và nông
dân, đôi khi bạo liệt đến mức
giới quan chức phát hoảng (như ở
thành phố Mans, khiến viên tỉnh trưởng
phải tự hỏi phải chăng đó là
cuộc tổng dượt của « ngày
cách mạng »). Bộc phá rốt
cuộc lại nổ ra từ sinh viên, phản
đối một cách triệt để bản
chất và chức năng của quyền lực.
Năm 1967, sĩ số đại học lên
tới 500 000 (tăng 230 % so với năm 1960). Sinh
viên chen chúc như cá hộp trong các
giảng đường chật hẹp, đối
mặt với một giáo giới xu hướng
Malthus (muốn hạn chế sĩ số), tác
phong thường rất quan cách, phải ngồi
nghe thuyết giảng mà không được
thảo luận, công việc của mỗi cá
nhân sinh viên không được xét
tới, và tới cuối năm là những
kì thi máy chém... Hầu hết sống
nhờ và sống với cha mẹ, đại
đa số sinh viên Pháp hoàn toàn
không có ý thức chính trị gì
cả. Còn những sinh viên ở các
cư xá đại học (số này rất
ít) thì phải chịu đựng những
nội quy khắt khe tới mức ngày nay
khó mường tượng. Tác giả
bài xã luận của báo Le
Monde viết
đùa rằng quan tâm chủ yếu của
sinh viên vào đầu năm 68 này là
« xem nữ sinh ở
cư xá Nanterre và
Antony có quyền tự do vào phòng nam
sinh không, một quan niệm hơi bị hạn
hẹp về quyền con người ».
Ngoài Wilhelm Reich và mấy đồ đệ
của « chủ nghĩa tình thế »,
lúc đó chẳng mấy ai nhận thức
được sức mạnh của khẩu hiệu
đấu tranh « tự do chủ nghĩa »
này (một khẩu hiệu cũng khá phổ
biến trong sinh viên các nước khác
ở châu Âu, như ở Đức), và
rộng hơn, của khát vọng vươn
tới « một cuộc sống khác »,
mà chính điều này mới giải
thích được tại sao, chỉ trong vài
ngày, hàng ngàn sinh viên đã
ùa xuống đường.
Nhưng, như người
ta đã nhiều lần chứng kiến, chính
chiến tranh Việt Nam mới là ngọn lửa
« đốt cháy cánh đồng ».
Những phản ứng đầu tiên ở
Pháp chống lại chính sách can thiệp
của Mĩ xuất hiện vào năm 1965, khi
những nhân sĩ (trong đó có J.-P.
Sartre) của Phong trào Hoà bình (gần
Đảng cộng sản Pháp) ra tuyên bố
lên án những cuộc ném bom miền
Bắc Việt Nam (chiến dịch Rolling
Thunder).
Rồi trong năm 1966, hàng loạt tổ chức
tập thể được thành lập, độc
lập với phái tả cộng sản, đáng
kể nhất là « Comité
Vietnam
National » (CVN) gần xu hướng trốt-xkít,
ra đời sau cuộc mít tinh « 6
giờ
vì Việt Nam » tổ chức tại
hội trường Mutualité (Paris). Sang năm
1967, cảnh quan chính trị lại thêm
những CVB (Uỷ ban Việt
Nam Cơ sở /
Comités
Vietnam de base), xu hướng mao-ít.
Sở dĩ chúng tôi đi vào chi tiết
xu hướng chính trị khác nhau của
các tổ chức này trong toàn bộ
phong trào to lớn ủng hộ Việt Nam là
vì đến tháng Năm 68, sự ganh đua
về mặt tư tưởng giữa họ với
nhau trở thành xung đột cao độ. Trước
đó, đầu năm 68, để ủng
hộ cuộc tổng tiến công Tết Mậu
Thân, nhiều cuộc tuần hành liên
tiếp đã biến đại lộ Saint
Michel (trục đối xứng của Khu Latinh
Paris) thành « Đại
lộ Việt
Nam anh hùng ». Ngày 20 tháng 3,
trong một cuộc biểu tình ủng hộ
Việt Nam và những người lãnh đạo
phong trào da đen ở Mĩ, trụ sở
American Express bị đánh phá, một sinh
viên Nanterre bị bắt cũng với vài
thành viên của CVN. Hai ngày sau, sinh viên
Nanterre, do Daniel Cohn-Bendit dẫn đầu, phản
ứng bằng cách chiếm đóng tháp
cao tầng văn phòng trường đại
học, biểu tượng của quyền lực
trong ngành giáo dục. Phong trào 22 tháng Ba
ra
đời như thế đó, bắt đầu
với 142 thành viên, không tổ chức,
không công đoàn, không chính
đảng, vận hành theo nguyên tắc
dân chủ trực tiếp – và ngay từ
đầu bị báo L’Humanité
(của
ĐCS) phê phán nghiêm khắc. Sau một
tuần khuấy động, khoa trưởng
Nanterre chấp nhận cho tổ chức hội họp
chính trị trong khuôn viên đại
học – lần đầu tiên trong lịch
sử đại học Pháp. Ngày 25.04, hội
đồng Phân khoa Nanterre quyết định
duy trì tổ chức các kì thi, lập
ra một « lực lượng trật tự
đại học », và tuyên bố
các không gian giữa các toà nhà
của khuôn viên đại học là
« đường phố công cộng » – tức là có thể cho
phép công
an vào can thiệp. Ngày 02.05, giờ giảng
sử học của René Rémond bị sinh
viên 22.3 cắt ngang để mở cuộc họp
chính trị tại giảng đường.
Ngày hôm sau, ông khoa trưởng quyết
định hoãn mọi lớp họp « vô
hạn định ». Sinh viên Nanterre (ở
ngoại ô phía tây bắc Paris) chuyển
về Sorbonne (trung tâm thành phố) để
họp mít-tinh. Phong trào tháng Năm 68
bắt đầu.
Những gì xảy ra
sau đó thì mọi người biết
cả rồi, dưới đây chỉ xin kể
lướt qua. Người ta thường phân
kì như sau : cuộc khủng hoảng sinh
viên (cho tới ngày 13.5), cuộc khủng
hoảng xã hội (cho tới 27 hay 30.5), từ
đó là cuộc khủng hoảng chính
trị (chấm dứt bằng cuộc bầu cử
quốc hội vào tháng sáu 68) :
- 2-3.5 : sinh viên đóng
chốt ở trường Sorbonne, chờ đợi
một cuộc tấn công của phong trào
cực hữu Occident. Cảnh sát trục xuất
sinh viên khỏi trường và viện
trưởng ra lệnh đóng cửa Sorbonne.
Các cuộc đụng độ bắt đầu.
- 10.5 : đêm chiến
luỹ đầu tiên ở Khu Latinh. Hàng
trăm người bị thương, 460 người
bị bắt.
- 11.5 : tại Trụ sở
Nhà Lao động, công đoàn CGT đề
nghị với các công đoàn khác
(CFDT, FO, UNEF và FEN) tổ chức một ngày
đình công và biểu tình toàn
quốc để phản đối công an đàn
áp. Sau này, tổng thư kí CGT, Georges
Séguy, viết trong hồi kí, rằng Đảng
cộng sản Pháp hoàn toàn bị các
sự kiện « vượt qua » và
hầu như đến hồi cuối, ĐCS vẫn
hoàn toàn thụ động, ngồi chờ.
- 13.5 (ngày kỉ niệm
cuộc đảo chính Alger năm 1958 đưa
De Gaulle lên cầm quyền) : khúc ngoặt.
Hơn một triệu người (con số của
ban tổ chức) xuống đường ở
Paris, khắp nơi đình công, dồn
chính quyền vào thế thủ. Sinh viên
« giải phóng » Sorbonne.
- 14.5 : công nhân
hãng chế tạo máy bay Sud-Aviation (gần
Nantes) đình công và chiếm nhà
máy. Trong những ngày tiếp theo, phong trào
lan rộng, đến ngày 17 coi như đã
trở thành tổng đình công toàn
quốc.
- 24.5 : khúc ngoặt
thứ nhì. Loan báo hôm sau sẽ mở
ra cuộc thương lượng « tối cao »
giữa chính phủ và các công
đoàn. Cùng ngày, những cuộc
biểu tình bạo liệt biến thành
« bạo loạn » ở Paris và các
tỉnh, mở ra cuộc khủng hoảng chính
trị.
- 27.5 : thoả ước
Grenelle giữa chính phủ Pompidou, các công
đoàn và giới chủ. Sự thực,
đây chỉ là một nghị định
thư không mang chữ kí của ai, vì
nó sẽ bị bác bỏ ở cơ sở,
nhất là ở Renault-Billancourt, « thành
luỹ công nhân ». Buổi chiều, mít
tinh khổng lồ tại sân vận động
Charlety, với sự có mặt của Pierre
Mendès-France.
- 29.5 : biểu tình
chung của công đoàn CGT và ĐCS
Pháp. De Gaulle bí mật rời khỏi Paris
để sang gặp tướng Massu, tư lệnh
quân đội Pháp đóng tại Đức.
- 30.5 : biểu tình
của phe De Gaulle trên đại lộ
Champs-Elysées, ít nhất cũng đông
bằng cuộc biểu tình ngày 13.5. Trên
đài phát thanh, De Gaulle thông báo
giải tán Quốc hội.
- Tháng Năm-Sáu,
tương quan lực lượng chính trị
từng bước đảo ngược, dẫn
tới một dạng thức « thoả hiệp
cộng hoà » mặc định. Các
nhà máy lần lượt làm việc
trở lại, với tâm trạng chua chát
của nhiều người. Báo Le
Monde lên
án những « hình thức huỷ
hoại » trong cuộc nổi loạn của
sinh viên, và cảnh tượng « con
tàu say rượu » là trường
Sorbonne bị chiếm. Ngày 1.6 Sorbonne bị
triệt thoái : kết thúc tượng
trưng của « tháng Năm 68 ».
* Bức tranh toàn cảnh của « momen 68 » ở châu Âu sẽ không đầy đủ nếu ta quên nhìn sang phía đông, sang vùng « Mitteleuropa » ngạt thở dưới sức đè của « chủ nghĩa xã hội hiện tồn ». Qua những cuộc xô xát tháng ba giữa sinh viên và công an ở Warszawa, người ta biết rằng Ba Lan có động thái. Nhưng người ta cũng hiểu rằng Ba Lan còn phải đợi thời cơ, 1980 và công đoàn Solidarnosc... « Momen 68 » của Trung Âu là Mùa Xuân Praha, bắt đầu ngay từ tháng giêng 1968, khi Alexander Dubček được cử làm bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc với nhiệm vụ tiến hành cải cách phóng khoáng đồng thời củng cố uy tín của đảng. Cương lĩnh của Dubček, « con đường Tiệp Khắc đi lên chủ nghĩa xã hội », được công bố vào tháng tư, sẽ đi vào lịch sử dưới cụm từ « chủ nghĩa xã hội mặt người ». Trong suốt mấy tháng, một ngọn gió tự do nổi lên khắp nước : bãi bỏ kiểm duyệt, tự do báo chí, tự do lập hội... Đó là « Momen 68 » của tất cả xã hội công dân Tiệp Khắc. Nhưng « lằn ranh đỏ » coi như đã bị vượt qua khi chế độ đa đảng được nêu lên cùng với việc công bố bản « Tuyên ngôn 2000 chữ » (ngày 27.6) trên tuần báo Literarni Noviny (cơ quan chính thức của Hội nhà văn) mang chữ kí của trí thức và các nhà thể thao, kêu gọi dân chúng tham gia các « uỷ ban công dân » nhằm đưa Tiệp Khắc ra khỏi « chế độ độc đảng » của ĐCS. Đêm 20 rạng ngày 21.8, sau nhiều lần cảnh cáo, liên quân các nước trong khối Warszawa đã xâm nhập Tiệp Khắc. Bất chấp sự đề kháng thụ động của dân chúng, công cuộc « bình thường hoá » bắt đầu, với êkip Gustav Husak mà nhiệm vụ là « củng cố chủ nghĩa xã hội ». Mùa Xuân Praha đã chính thức kết liễu.
*
Tháng Năm 68
Bức tranh toàn
cầu – không đầy đủ – dầu sao cũng cho ta thấy rằng
« momen 68 » tuy muôn hình vạn
trạng trong tiến trình của nó, vẫn
đóng khung trong hai biến cố cơ bản,
vừa hiển nhiên, vừa sâu sắc :
chiến
tranh Việt Nam và mùa Xuân
Praha. Cả hai đều tác động mạnh
mẽ vào dòng chảy của lịch sử :
chiến tranh Việt Nam đã làm biểu
lộ tính phi nghĩa của « chủ
nghĩa đế quốc Mĩ », và
mùa Xuân Praha « chủ nghĩa xã
hội hiện tồn ».
68 ĐẠI SỰ KÍ
05.01,
Tiệp Khắc :
Alexander Dubček được cử làm
bí thư thứ nhất ĐCS Tiệp Khắc.
Báo hiệu Mùa Xuân Praha bắt đầu.
30.01,
Việt Nam : tổng
tiến công Tết Mậu Thân. Thất bại
quân sự, nhưng thắng lợi chính
trị, buộc tổng thống Johnson phải
thương lượng.
01.03,
Ý : sinh viên
và công an đụng độ ở Roma,
một trong những đỉnh điểm của
« tháng Năm nhún nhường, bò
sát » của Ý.
18.03,
Ba Lan : ở
Warszawa và Krakow, công nhân đình
công, sinh viên biểu tình. Sang đầu
tháng 4, phong trào này sẽ bị đàn
áp.
22.03, Pháp : khoảng một trăm sinh viên Nanterre chiếm đóng tháp cao văn phòng trường và thành lập phong trào 22.3.
04.04,
Hoa Kì :
Martin Luther King bị ám sát tại Memphis.
11.04,
Tây Đức :
lãnh tụ sinh viên Rudi Dutschke bị ám
sát ở Tây Berlin. Vụ này dấy
lên phòng trào phản kháng ở
Cộng hoà Liên bang Đức.
03.05,
Pháp : sau khi đại
học Nanterre bị đóng cửa, phong trào
“22 tháng Ba” tràn xuống Sorbonne, mở
đầu một chuỗi phản ứng dây
chuyền dẫn tới “sự kiện tháng Năm 68”
ở Pháp.
06.06,
Hoa Kì : Robert
Kennedy bị ám sát tại Los Angeles.
21.08,
Tiệp Khắc : quân
đội khối Warszawa chiếm đóng Tiệp
Khắc, chôn vùi Mùa Xuân Praha.
02.10,
Mexico : vài ngày
trước Thế vận hội, quân đội
và công an nã súng vào người
biểu tình tại quảng trường Ba nền
văn hoá, làm chết 300 người.
16.10,
Mexico : trên bục
sân vận động, Tommie Smith và John
Carlos giơ cao nắm đấm trong khi nhạc cử
quốc thiều Hoa Kì.
28.10,
Nhật Bản : sinh
viên phong trào Zengakuren phát động
“ tấn công vào Tokyo ”, đối
đầu với cảnh sát chống nổi
dậy một cách quyết liệt trong suốt
ba ngày.
05.11,
Hoa Kì : Richard M.
Nixon thắng cử tổng thống Mĩ.
24.12, Trăng : phi đoàn Apollo 8 bay một vòng quanh Mặt Trăng và trực tiếp “ chúc mừng Giáng Sinh ” cho mọi người trên Mặt Đất.
Còn bản thân
« thời điểm 68 » thì
sao ? Edgar Morin gọi nó là « biến
cố - nhân sư », bí hiểm như
con vật đầu người mình sư tử
trong thần thoại. Sự kiện vô cùng
phức tạp, có ý nghĩa toàn cầu
này đã được vô số
chuyên gia phân tích và bình giải,
chúng tôi không có khả năng và
tham vọng nối điêu. Vả lại, cứ
mỗi lần kỉ niệm 20, 30 năm... người
ta lại dùng « tư duy duy nhất »
để « đọc lại » sự
kiện 68, biến nó thành đối tượng
đấu tranh chính trị và nhào nặn
nó trong kí ức tập thể theo yêu
cầu chính trị, thay vì lấy nó
làm đối tượng nghiên cứu
lịch sử và suy ngẫm triết học.
Nhưng lần này, kỉ niệm 40 năm,
không thể bỏ qua lời hô hào dõng
dạc « thanh
toán di sản của tháng
Năm 68 » của Nicolas Sarkozy trong cuộc
tranh cử tổng thống năm ngoái. Vậy
ta hãy bàn về « thời điểm
68 này ». Trong thập niên đầu
của thế kỉ 21, luận điểm thời
thượng của các nhà bán rong tư
tưởng là lên án. Phái hữu
đã đành, và cả một bộ
phận phái tả. Lên án cái gì ?
Lên án một thế hệ « tự
do quá trớn », « vô chính
phủ chủ nghĩa » (« những
nhà sáng lập báo chí [ám chỉ
báo Libération], những
nghĩa quân vỏn
vẹn một tháng, những kẻ tà đạo
mà phải đạo », lời của
Max Gallo, từng làm phát ngôn nhân của chính quyền Mitterrand, nay ủng
hộ Sarkozy), một thế
hệ hư hỏng vì được quá
nuông chiều (« những
món tiền
trợ cấp gia đình lớn nhất trong
thế kỉ trước, những số tiền
hưu bổng cao nhất trong thế kỉ này »,
lời J.-C. Buisson, trên nhật báo Le
Figaro
hay tuần báo Le Point),
một thế hệ
hãnh tiến (« đổi
cuốn Sách
Đỏ lấy cuốn Who’s Who đồ sộ
cùng màu », lời Guimier &
Charbonneau) vân vân và vân vân. Bên
cạnh những thứ văn chương thoá
mạ sặc mùi nôn oẹ ngậm giữ
quá lâu trong bụng, phải kể đến nỗ
lực giả lí luận, nhằm chứng minh
« tháng Năm 68 » là cội
nguồn của mọi căn bệnh thời đại.
Nào là « sự hội
tụ của
không tưởng 68 về một thế giới
không còn rào cản, với vũ trụ
quan liberal cực
đoan dựa trên mậu dịch
trôi chảy theo đúng những quy luật
của thị trường » (Jean Sévilla,
báo Le Figaro),
« sự hội ngộ
lịch
sử » giữa tình thần phê
phán cực tả - vô chính phủ với
chủ trương « cởi nới
luật
lệ theo hướng tự do chủ nghĩa »
kiểu Mĩ mà biểu tượng là
việc phái hữu Reagan lên cầm quyền
(D.-R. Dufour), vân vân... Chính thứ văn
chương lảm nhảm này đã được
Nicolas Sarkozy đem ra xào nấu lại trong bài
diễn văn tháng năm 2007 đọc tại
hội trường Bercy, sau vòng đầu của
cuộc bầu cử (lúc đó, coi như
nắm chắc thắng lợi) : « Tháng
Năm 68 đã để lại di sản là
tinh thần xy-níc trong xã hội, trong sinh
hoạt chính trị. Hãy nhìn xem các
giá trị của Tháng Năm 68 đã
thâm nhập thế nào trong sự tôn
thờ Tiền Bạc như Vua, trong sự kiếm
tìm lợi nhuận ngắn hạn, trong sự
suy biến của chủ nghĩa tư bản tài
chính. Không còn kỉ cương, không
còn đạo lí, không còn tương
kính, không còn quyền uy, vậy thì
cá mè một lứa cả thôi, ai muốn
làm gì thì làm ». Đó
là công lao của Henri Guaino, « ngòi
bút » của tổng thống (« cây
bút chì tưởng mình là ngòi
bút mực », theo lời những kẻ
xấu miệng), mà các luận điểm
đã được trình bày trong
cuốn La
Sottise des Modernes, xuất bản năm
2002. Tế nhị hơn thứ văn chương
này một bậc, là luận đề
theo đó « tư tưởng 5.68 »
là sự tạp hôn giữa động lực
phản kháng và những « lập
thuyết » chủ đạo của những
năm 75 (Deleuze, Guattari, Foucault...), mà một vài
tác giả (Luc Ferry và Alain Renaut, 1985) muốn
chứng minh bằng được rằng các
triết lí ấy từ bỏ lí tưởng
phổ quát chủ nghĩa, tóm lại là
« phản – nhânbản ».
Sự thực, trên các
chiến luỹ đắp bằng những hòn
đá lót đường và bàn
ghế tủ giường tháng Năm 68, chẳng
có tư tưởng gì ráo trọi.
Các khẩu hiệu nổi tiếng của
phong trào tháng Năm 68 (« Dưới
lớp đá lót đường, là
bãi cát », « Cấm không
được cấm », « Chạy
nhanh lên nào, đồng chí ta ơi,
sau lưng ta là Thế giới cũ mèm »...)
đều phái sinh từ cảm hứng vô
chính phủ, chống lại mọi tín
điều. Phải đọc những bài
phỏng vấn Cohn-Bendit năm 1968, anh ta tự nhận
là « vô chính phủ chủ
nghĩa, vì phủ nhận » (nghĩa
là phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin), và
nói toạc là trong phong trào 22.3, chưa
tới mười mống đã đọc
Marcuse, « sẽ
là một sai lầm căn
bản nếu muốn tìm ra nhà tư tưởng
nào gợi hứng hành động cho phong
trào sinh viên Pháp ». Đằng
sau ngôn từ cách mạng của phong trào
tháng Năm 68, không nên tìm cái
gì khác hơn là sự quật khởi
của đời sống. Có người sẽ
vặn lại rằng chính những giá
trị tiềm ẩn trong chủ nghĩa cá
nhân này là những giá trị
« phản – nhânbản » cần
phải được « thanh toán ».
Tất nhiên, khẩu hiệu tiêu biểu
« Sống không
thời gian chết và
tận hưởng không gông cùm »
(Vivre sans temps mort
et jouir sans entraves) có thể
được hiểu là tuyên truyền
cho một chủ nghĩa hưởng lạc vô
trách nhiệm, và ngay từ đầu,
những người công kích cũng đã
dùng luận điểm này để coi
phong trào 68 chỉ là cuộc nổi loạn
giả tạo của một « bọn
trẻ
được nuông chiều quá mức,
đòi có tất cả, ngay tức khắc ».
Giải phóng mọi xung năng + thừa mứa
hàng hoá, như thế thôi sao ? Nói
như vậy là coi nhẹ sự tố cáo
« xã hội tiêu thụ »,
một trong những chủ đề trung tâm
của phong trào phản kháng. Ở trên,
chúng tôi đã nói rằng tháng
Năm 68 không nhận làm đồ đệ
của nhà tư tưởng nào, song chúng
tôi cũng nói qua tới Quốc tế tình
thế chủ nghĩa (Internationale
Situationniste, IS).
IS không muốn làm người thầy tư
tưởng cho ai cả, nhưng phải nói nó
đã có ảnh hưởng ngầm, mà
quyết định. Nếu phải « giảng
cho Nicolas Sarkozy 68 là gì » (nhái
tên cuốn sách của cha con Glucksmann), thì
cần nhắc lại nhúm người lập
thuyết của IS chung quanh Guy Debord và Raoul
Vaneigem (tổng cộng không quá mười
mống), tuy không phủ nhận hoạt động
thực tiễn, vẫn đặt nó ở một
cấp độ khác hơn là đấu
tranh chính trị. Họ hoạt động như
trường phái Đađa hay trường
phái Siêu thực, tạo ra những « tình
thế » khả dĩ bóc trần những
cơ phận che giấu của xã hội hiện
đại. Trước tháng Năm 68, IS chỉ
« đột nhập » chủ yếu
bằng văn bản, bằng « sự
phê
phán lí luận cuộc sống hằng
ngày một cách xuất thần ».
Tuyên ngôn của họ chỉ vỏn vẹn
một tập sách mỏng và hai cuốn
sách. Tập sách mỏng, in mấy ngàn
cuốn, được UNEF (Liên hiệp quốc
gia sinh viên Pháp) tán phát trong buổi
lễ tựu trường long trọng tháng
11.1966 tại trường Đại học
Strasbourg (nghi lễ của một « thời
xa vắng », cơ hội lí tưởng
để tạo ra một « tình thế »).
Nhan đề tràng giang đại hải :
« Bàn
về sự khốn cùng của
môi trường sinh viên xét về các
khía cạnh kinh tế, chính trị, tâm
lí, tính dục và nhất là trí
tuệ, và về một vài phương
tiện để chữa trị nó ».
Dài thì dài, văn bản này đã
được đọc, bình luận và
tái bản ở nước ngoài, có
lẽ vì đó là văn bản nền
tảng không những về hoàn cảnh
sinh viên, về cuộc khủng hoảng của
nền đại học, mà còn là
chứng từ về tính triệt để
của tuổi trẻ, về phê phán « hàng
hoá văn hoá ». Chính văn
bản này đã hạ một câu
« Sống không
thời gian chết... »
để kết thúc lời tuyên ngôn
viễn cảm : « Cách
mạng vô
sản sẽ tới, như là những ngày
hội, hoặc sẽ không xảy ra, bởi vì
cuộc sống mà nó báo trước
tự nó sẽ đặt dưới dấu
hiệu của ngày hội ». Cách
mạng hay không thì không biết, nhưng
rõ ràng là dự báo « thời
điểm 68 »... Năm 1967, « Về
sự khốn cùng.... » được
bổ sung bằng hai cuốn sách : « Khái
luận về phép xử thế cho các thế
hệ trẻ », kinh nhật tụng của
chủ nghĩa cá nhân hiện đại,
trong đó Raoul Vaneigem đả kích xã
hội tiêu thụ và những hình
tượng của nó, không phải vì
xã hội tiêu thụ mang lại cho chủ
nghĩa tư bản một hơi thở mới,
mà vì « sự toàn
thắng của
đồ vật sẽ hút kiệt máu con
người » ; « Xã hội
trình diễn », trong đó Guy Debord
trình bày ý tưởng cải biến
hàng hoá thành (sân khấu) biểu
diễn, thông qua sự « vật hoá của
cá nhân ». Có thể liên hệ
sự phê phán của chủ nghĩa tình
thế đối với « sự dối
trá về cuộc sống » và phân
tích của Jean Baudrillard về « Hệ
thống đồ vật » (1968, trước
tháng 5), lập thuyết về xã hội
tiêu thụ, một hệ thống trong đó
đồ vật là những món hàng
được trao đổi không trên cơ
sở sự ích dụng của chúng, mà
trên cơ sở giá trị kí hiệu
của chúng, theo quy luật « standing »
(sự « sang xịn »). Muốn thấy
một ví dụ, cứ nhìn cách ăn
mặc của tổng Sarko, với những bộ
quần áo Armani, đồng hồ đeo tay
Rolex, kính râm Ray Ban..., thiết bị đầy
đủ của giới « bling bling ».
Chủ nghĩa hưởng
lạc tiêu thụ như vậy không nằm
trong gien di truyền của phong trào tháng
Năm 68. Song sự đột nhập của chủ
nghĩa cá nhân triệt để vào
đời sống dân chủ rõ ràng
đã dẫn tới một đòi hỏi
mới, kéo theo cuộc khủng hoảng về
quyền uy. Mọi chẩn đoán đều
gặp nhau ở điểm này : Tháng
Năm 68 là một phong trào phản –
quyền-uy trên mọi phương diện, nó
phản đối tất cả những gì là
tôn ti và quan hệ quyền uy ở khắp
mọi nơi mọi cấp. Guaino và đồng
bọn nhìn thấy ở đó « sự
sụp đổ của gia đình, sự suy
yếu của Nhà nước, sự tan rã
của mối liên hệ xã hội, sự
buông thả trong lao động ». Không
thể bác bỏ 100 % điều này, vì
rõ ràng đã xảy ra những điều
thái quá : ca ngợi tuổi trẻ như
một giá trị tự nó khác nào
biến sự non nớt thành giá trị
vĩnh hằng ; chỉ nhìn thấy quan hệ
thống trị trong mối tương quan thầy-trò
là phủ nhận sự học tập trong
tích luỹ tri thức, giai đoạn không
thể bỏ qua trong mọi tiến bộ của
nhân loại ; coi mọi chuẩn tắc giáo
dục là võ đoán, khác nào
bứng đi những cột mốc, những điểm
quy chiếu đối với trẻ thơ, xếp
các cô cậu tí hon ngang hàng với
« bồ bố » và « bồ
mẹ » (thời đó có một
cuốn sách rất thịnh hành, nghĩ
lại mà rùng minh, « Những trẻ
em tự do ở Summerhill », không biết
các « em » ngày nay đã trở thành thứ người gì)...
Song đó chỉ là những sự quá
trớn, không thể ngăn cấm chúng ta
đặt câu hỏi thực chất :
« Quyền uy phải
chăng là một
giá trị tự nó bởi vì nó
ngự trị đâu đó ở trên
đầu mọi người, hay nó phải
chứng minh nó là quyền uy ? »
(Joschka Fischer, đd). Trước đó, có
một câu hỏi cổ điển về triết
lí chính trị : quyền lực thuộc
về ai, quyền lực có thể sử dụng
như thế nào ? Ít nhất từ
thời Khai Minh, đã có câu trả
lời dân chủ : quyền lực thuộc
về những người chịu sự tác
động của quyền lực, chứ không
thuộc về một quyền năng siêu phàm
nào. Có lẽ cũng nên chép lại
toàn văn câu trả lời của Alain
Renaut (được xếp là người
chống lại « tư tưởng 68 »,
xin nhắc lại) đối đáp diễn
văn Bercy của Guaino viết cho Sarkozy : « Sự
tàn rữa của quyền uy là kết quả
động lực phát triển của các
xã hội dân chủ, là những xã
hội xây dựng trên nền tảng các
giá trị bình đẳng và tự
do. Ngay từ năm 1954, nhà triết học
Hannah Arendt, khi bà định nghĩa rất
chính xác quyền uy là một thứ
« siêu quyền lực » dựa
trên tính siêu việt cho phép vượt
qua những ý chí riêng biệt, đã
đi tới kết luận là trong các xã
hội dân chủ hiện đại, không
thể tồn tại quyền uy nữa, bởi vì
trong các xã hội dân chủ, mỗi
con người là đồng loại và
bình đẳng với mọi con người.
Không gian của sự tranh luận dân chủ
triệt tiêu mọi dị biệt về giá
trị, thủ tiêu nền tảng của quyền
uy là sự thừa nhận tính ưu việt
[của một cá nhân đối với cá
nhân khác]. [Xem chừng phải] phát
cuồng mới nghĩ tới việc « thanh
toán tháng Năm 68 ». Chẳng
lẽ,
như thế, phải thanh toán cả chủ
nghĩa cá nhân dân chủ, là điều
mà tôi tưởng rằng tất cả
chúng ta – ngoại trừ những người
cực đoan – đều tuân thủ ?
Và thanh toán luôn cả cái điều,
cách đây hơn hai thế kỉ, đã
khiến chúng ta chọn tự do và bình
đẳng thay vì tôn ti đẳng cấp ?
Xét cho cùng, những cơn hoài cổ
này chỉ có nghĩa rằng cuộc cách
mạng bình đẳng – mà 68 chỉ
nói lên đòi hỏi một cách
tha thiết nhất – chủ yếu vẫn ở
trước mặt chúng ta [chứ không phải
đã làm xong rồi] ».
Bốn mươi năm sau, giấc mơ không tưởng của 68 dường như đã bị vô hiệu hoá. Chỉ cần điểm lại những đề tài của chủ nghĩa tình thế : xã hội tiêu thụ đã trở thành nền văn minh hàng hoá trong đó chủ nghĩa hưởng thụ đưa đẩy những ẩn ức lên cực độ, các khẩu hiệu của tháng Năm 68 bị những hãng quảng cáo đánh tráo ngôn từ ; cuộc sống bần cùng (nhất là về tinh thần) được đề cao như một giá trị đạo lí, còn nhân dân (people) thì sống « uỷ thác » vào cuộc sống của các nhân vật tiếng tăm trên báo đài, của những « pi-pơn » (« people ») ; lao động trở thành hai lần tha hoá : tha hoá vì khan hiếm – lương bổng bao nhiêu cũng phải cắn răng mà chịu, miễn là có công ăn việc làm – và tha hoá vì sự phi lí của nó – tin học và những sản phẩm phái sinh trở thành xiềng xích buộc chặt người làm công vào chỗ làm của mình, chẳng khác gì người công nhân không chuyên nghiệp trong quá khứ bị trói chặt vào dây chuyền lắp ráp ; một xã hội trong đó, để kiếm sống, người ta phải quên cả sống, sự lừa bịp được đưa lên đỉnh điểm khi người ta lẫn lộn sống còn, sống lây lất và sống... Tuy nhiên, di sản của « thời điểm 68 » vẫn còn đó, từng giây từng phút vẫn truyền máu vào cuộc sống của xã hội, vào đời sống công dân ; và nếu người ta không nhận thức được, chỉ vì cuộc hoá thân đã diễn ra âm ỉ ở chiều sâu, và vẫn chưa hoàn tất. Chỉ nhìn thoáng về quá khứ cũng đủ để đo lường được những tiến bộ đã giành được : những đảo lộn trong phong tục tập quán, những bước tiến trong cuộc đấu tranh đòi nữ quyền, công cuộc dân chủ hoá nền đại học, sự khai phóng ngôn luận (tập thể và cá thể), sự giải thoát khu vực nghe nhìn khỏi sự chế ngự của Nhà nước (cho dù đôi khi thoát ra lại tồi tệ hơn), sự cật vấn đối với các định chế, phong trào chính trị bảo vệ môi trường, các quyền con người... (đây chỉ là một danh sách chưa đầy đủ và hoàn chỉnh). Cho nên, cùng với A. Renaut, ta có thể nói rằng « tháng Năm 68 không phải là một phong trào chính trị đã thất bại, mà là một phong trào văn hoá đã thành công ».
NGUYỄN QUANG
(bản dịch của Kiến Văn)
Các thao tác trên Tài liệu