Bạn đang ở: Trang chủ / Việt Nam / Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979

Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979

- Dương Danh Dy — published 16/02/2009 23:58, cập nhật lần cuối 17/02/2009 00:35


Ba mươi năm trước

 

Nhớ lại đêm 17
tháng 2 năm 1979



 Dương Danh Dy 



Tháng 9 năm 1977, tôi được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công tác nghiên cứu. Quan hệ hai nước Việt Trung, từ lúc tôi  ở trong nước đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày :

Đây là chứng từ của một nhà nghiên cứu về Trung Quốc, có mặt ở Bắc Kinh ngày 17.2.1979 với cương vị một nhà ngoại giao Việt Nam. Chúng tôi cảm ơn tác giả đã cho phép chúng tôi đăng toàn văn chứng từ của ông. Đài BBC ngày 16.2.2009 đã đăng bài này song đã "biên tập" một số câu đoạn (màu đỏ).

Dòng “ nạn kiều ” dưới sự xúi bẩy kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác. Lấy lý do cần có tiền để “ nuôi nạn kiều ” ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một bộ phận chuyên gia về nước. Không lâu sau đó, ngày 3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước. (Cầu Thăng Long và nhiều công trình khác bị dở dang – sự kiện này không khác chuyện đã xảy ra giữa Liên Xô với Trung Quốc trước đó và không ngoài dự liệu của ta). Cùng với việc này là sự kiện : một số rất ít trong những công dân Trung Quốc năm 1966 gửi tiền giúp cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta nay gửi thư tới đòi với những lời lẽ khiếm nhã (kèm theo cả giấy chứng nhận của đại sứ quán ta ghi số tiền đã ủng hộ). Có lẽ tôi là một trong số mấy đồng chí công tác tại đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh được chứng kiến cả hai cảnh tượng : vui mừng cảm động vì nhân dân Trung Quốc anh em hết lòng giúp đỡ ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc ta năm đó, và đau buồn vì lúc này có một bộ phận dù là rất nhỏ người Trung Quốc do bị nhà đương quyền tuyên truyền lừa bịp mà đã có hành động, lời nói không hay.

Xung đột biên giới trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên đường sắt liên vận Hà Nội - Bằng Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã xảy ra đổ máu) toàn bộ vụ, việc đều  do phía Trung Quốc cố tình gây ra.

Tháng 7 năm 1978 chúng tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần là phải thấu suốt quan điểm nắm vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng, chuấn bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 11 năm 1978 ta ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô.

Đến tháng 12 năm 1978 mọi chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại sứ quán đã làm xong. Sứ quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã cho chạy thử), gạo nước, thực phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ quán mấy nước anh em thân thiết cũng nhận được các đề nghị cụ thể khi bất trắc xẩy ra… Tôi được đồng chí đại sứ phân công đọc và lựa chọn các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về nhà cái có thể huỷ (nhờ đó biết thêm được nhiều điều trước đây trong quan hệ ngoại giao, kinh tế… giữa hai nước)

Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một câu không xứng đáng với tư cách của một người lãnh đạo một nước được coi là văn minh : “ Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học ” (tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “ bạo đồ ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “ hooligan ” – tức du côn, côn đồ).

Rồi ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.

Đầu tháng 1 năm 1979 quân đội ta bất ngờ phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng chỉ trong thời gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Pol Pot tiến vào giải phóng Phnom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ. Lại một quả đắng khó nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này (có dịp xin nói về cảnh cán bộ sứ quán và chuyên gia Trung Quốc tại Cămpuchia lúc đó đã rút chạy như thế nào, và một vị tướng của ta đã cố tình tiến chậm vào Phnom Penh để cho họ có thể đi thoát)

Cuối tháng 1 năm 1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter đón tiếp với nghi lễ rất cao, hai nước quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao, và không biết còn bàn bạc gì nữa ? Trên đường về nước Đặng Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.

Trước những tình hình trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã khẳng định khá sớm : hai nước anh em thân thiết như răng với môi này không đánh nhau một trận không xong. Lý trí mách bảo như vậy, thậm chí còn mách bảo hơn nữa : Trung Quốc đã từng gây cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra tay trước. Thế nhưng về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi : quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được !) Không nói tới những khoản viện trợ to lớn có hiệu quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước đây, mà ngay trong những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được những việc làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc :

Năm 1977, Nhà máy dệt Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau một hồi chạy thử vẫn không hiện đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí quyết. Khi các chuyên gia Trung Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai chỉ đạo, họ đã “ xử trí ” anh một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết. Khi được thông báo tin tức này, chúng tôi vô cùng cảm phục tinh thần quốc tế và lương tâm kỹ thuật chân chính của anh.

Khi đoàn chuyên gia Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của họ điều về nước, một số đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu kỹ thuật về chiếc cầu này cho ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do ta tự thiết kế thi công sau này đã dùng một số sắt thép do phía Trung Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long, nhưng chưa rõ các nhà thiết kế cầu Chương Dương có được hưởng lợi gì từ những tài liệu mà mấy chuyên gia Trung Quốc do không đồng tình với cách làm sai trái của người lãnh đạo đã dũng cảm để lại cho chúng ta hay không ?

Mặc dù khi truyền hình trực tiếp, Trung Quốc không thể cắt được câu nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình : Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã cắt bỏ câu này khi đưa tin (chỉ còn đăng câu “ phải dạy cho Việt Nam bài học ”, nghĩa là đỡ tệ hơn, và như vậy có phải vẫn có người Trung Quốc còn chút lương tri ? )

dang
Đặng Tiểu Bình đội mũ cao bồi ở Mĩ (tháng 1.1979)

Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc – mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới. Sau này những day dứt về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam cũng như một số tin tức liên quan khác, chưa tiện nói bây giờ !

10 giờ tối ngày 17/2/79 (tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin của đài Tiếng nói Việt Nam, không thấy có tin quan trọng nào liên quan đến hai nước, tôi chuyển đài khác nghe tin. Khoảng 10 giờ 30 phút đồng chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời (thời gian này đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi : « Dy, lên phòng hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi ! »

Ít phút sau, một số đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng chí Trần Trung phổ biến tình hình nhà vừa thông báo : sáng sớm ngày 17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn công trên toàn tuyến biên giới trên đất liền (6 tỉnh của Việt Nam lúc đó) với quy mô 20 sư đoàn bộ binh. Hai sư đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị em dân quân du kích đang anh dũng chống trả. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung, Anh, Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông báo càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực.

Bộ phận dịch tiếng Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng – Bí thư thứ nhất, gồm hai đồng chí Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch văn bản một cách “ ngon lành ” ; đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách phần dịch tiếng Anh cũng không vất vả gì ; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí Minh, phiên dịch tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra luống cuống, tôi chủ động tới tra giúp một số từ mà đồng chí quên mất giống (trong tiếng Pháp, các mạo từ, tính từ .. tuỳ theo danh từ là giống đực hay giống cái .. mà cách viết có khác).

Guồng máy dịch, in roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng. Thi thoảng mấy câu chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí. Không căm tức uất hận sao được ? Dù đã dự liệu nghiêm túc nhưng vẫn bất ngờ về thời gian (cùng một thời gian trên tuyến biên giới dài hơn 1000 km, lại chọn đúng ngày nghỉ) và quy mô (một lực lượng đông tới mấy chục vạn quân chính qui với nhiều xe tăng, đại bác và mấy chục vạn dân công phục vụ mà lại gọi là “đánh trả tự vệ”)

Khi chúng tôi hoàn thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau đó đã đưa tin, tối ngày 17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng đèn). Những người ngoài 40, 50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng Hữu – Bí thư thứ nhất, tiếp sâm, nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét  mệt mỏi. Thương cảm vô cùng.

Tuy vậy, chúng tôi đã nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất cả sức mạnh tinh thần và lòng căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước lớn.

Cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình gây ra, kết thúc đã 30 năm.

Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, vì nghĩa lớn, chúng ta đã thực hiện  đúng lời cam kết: không nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn thường xuyên, xuyên tạc sự thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã “giành thắng lợi”, là “chính nghĩa”, là “Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam “xua đuổi nạn kiều”, Việt Nam xâm lược Cămpuchia” v.v.. Cho đến hôm nay, một số cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký… vẫn nhai lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ được gần hai chục năm.

Tôi  nghỉ hưu đã được hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về Trung Quốc, nên thỉnh thoảng vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc trước đây cũng như nhiều học giả Trung Quốc. Không dưới một lần tôi đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ: nếu các bạn chỉ nhận phần đúng trong những việc xảy ra trong thời gian trước đây, đổ hết lỗi cho cho người khác thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng những chữ vàng để tô vẽ cũng không thể nào xóa bỏ được những vết hằn lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây ra, quan hệ hai nước không thể nào phát triển tốt đẹp được, vì những hoài nghi lớn của nhân dân hai bên chưa được giải tỏa ?

Mong rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau : nếu không biết lời dặn của Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi sang giúp Việt nam thời kỳ chống Pháp : « Tổ tiên chúng ta trước đây đã làm một số việc không phải với nhân dân Việt Nam, các anh sang giúp nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông » và  nếu không thấy trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hoà bình lập lại, Thủ Tướng Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà thì chắc chắn những người Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng, hoà hiếu với Trung Quốc như sau đó đâu ?

Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.

Chúng ta không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên.

Dương Danh Dy


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us