Phải chi lúc này có ông Sáu Dân
Mênh mông thế sự 20
PHẢI CHI LÚC NÀY CÓ ÔNG SÁU DÂN
Tương Lai
Điệp
khúc này lại nhức nhối giục giã trong buổi họp mặt
tưởng niệm ngày sinh ông Sáu Dân hôm 23.11.2015. Một số
anh chị em quây quần bên nhau trong một căn phòng có bức
ảnh ông Sáu được phóng to treo trang trọng giữa nhà,
gần gũi thân tình. Cũng như vào ngày này năm ngoái tại
căn phòng này, dưới nhiều cách biểu đạt khác nhau,
nhưng rồi vẫn dồn vào một ý tưởng đã thành “điệp
khúc” khi ngước nhìn lên tấm hình của người mình
thương mến: phải chi lúc này có ông Sáu Dân.
Vẫn
những gương mặt quen thuộc ấy, nhóm “thứ Sáu” với
Huỳnh Bửu Sơn, Phan Chánh Dưỡng.., rồi cánh nhà báo vốn
nhận được sự chăm sóc ân tình của ông Bí thư Thành
uỷ thời “cởi trói” để dám mạnh dạn và sắc sảo
bung ra như Kim Hạnh, Huỳnh Sơn Phước, Tống Văn Công…,
nhóm “phong trào” từng gặp ông Sáu Dân từ hồi lên
rừng nhận nhiệm vụ còn phải bịt mặt như Lê Công
Giàu, Huỳnh Tấn Mẫm, …. rồi đám văn nghệ sĩ vốn
nổi đình đám trong những buổi tưởng niệm năm nay gặp
trục trặc “bất khả kháng”, phút cuối gọi điện tỏ
ý “quá tiếc” như Nguyễn Duy đang phải chăm vợ ốm
kiêm nhiệm đưa võng ru cháu nội không thể đến để
“Đánh thức tiềm lực…” và “Nhìn từ xa…tổ
quốc” ;
Nhưng
bù vào những người mà sự vắng mặt là bất khả kháng
ấy thì năm nay lại có thêm những gương mặt thân quen
mà năm ngoái không đến được như chị Cúc, nữ doanh
nhân vốn được biết đến với cái Hợp Tác Xã mây tre
lá Ba Nhất mà ông Sáu Dân đã từng tìm đến Bình Dương
để mời về Vũng Liêm, Vĩnh Long “dạy
dân quê tôi làm
mây tre mỹ nghệ xuất khẩu”. Chân tình ông nói. Và
người sáng lập, tổ chức thành công doanh nghiệp độc
đáo này – “bà này dữ thiệt”
như nhận xét của ông
Sáu mà Nguyễn Trọng Huấn đã ghi lại trong một bài báo
dạo ấy – đã vui vẻ nhận lời.
Và
ông Bảy Thanh, người từng gắn bó với ông Sáu Dân trên
nhiều lĩnh vực quan trọng mà tôi được nghe ông Sáu
nhiều lần nhắc đến với thái độ tin cậy và chân
tình, “biết hôm nay sẽ có nhiều anh
em mình lâu không
gặp, nhân dịp này cùng nhau ngồi lại với nhau nhắc lại
những kỷ niệm về Chú Sáu thì chắc là thú vị lắm”,
ông hồ hởi nói với mọi người đang ngồi cạnh ông.
Dạt dào và cuốn hút trong dòng chảy những kỷ niệm,
ông ngồi lại với một nhóm anh em đang say chuyện sau khi
một vài ông U80 yếu sức buộc phải tiếc nuối ra về
như Đào Công Tiến, Mười Thôn…Câu chuyện bên ông Bảy
kéo đến gần 3 giờ chiều mới dứt ra được sau khi lưu
luyến hẹn sẽ có dịp tái ngộ.
Anh
Nguyễn Bá Thuận, một trí thức sống ở Đan Mạch, đã
từng về nước sớm nhất sau năm 75 và có dịp làm việc
với ông Sáu Dân, hôm nay có mặt với áo vét nghiêm chỉnh
khác với lối xuề xoà quần soóc lửng như mọi lần, đã
gợi lên một vài chuyện mà mọi người còn muốn biết
kỹ nhưng nhà trí thức chỉ kín đáo cười trừ…để
rồi mấy ông ghiền, trong đó có Hạ Đình Nguyên, tác
giả của bài nói về “ba gã bán tơ”
làm xôn xao dư
luận, lấy cớ rủ rê Thuận ra ngoài ban công hút thuốc
để gợi chuyện thêm. Rồi Kha Lương Ngãi, Tô Lê Sơn và
những bạn thân quen khác. Mọi người đều dành cho Hiếu
Dân lời thăm hỏi trìu mến khi cô khệ nệ đem thêm vào
bữa nhậu chiếc bánh mừng sinh nhật và mấy món để
các chú các anh chị vừa lai rai vừa tiếp tục chuyện
trò vào bữa trưa.
Đáng
tiếc là vắng mấy nhà sử học đã hăng hái hẹn đến
để gợi lại những việc làm thật có ý nghĩa của Võ
Văn Kiệt đối với lịch sử đúng vào thời điểm nhạy
cảm mà đề tài lịch sử đang hứng lấy những cơn sóng
trào phẫn nộ. Quả đúng là vào những lúc như thế này
mới càng thấm thía hơn cái tầm nhìn vượt hẳn lên
trước và lên trên tầm tư duy kiểu tuyên giáo ẩm mốc,
thiển cận, xúc phạm đến ông cha mà ông Sáu Dân đã
từng phê phán, và trong những trường hợp có thể, Ông
trực tiếp góp phần chỉnh sửa một cách cụ thể và
thết thực. Điều này một số nhà sử học biêt rõ hơn
tôi nên thật là đáng tiếc vì đến phút cuối lại “xin
kiếu” với hai từ “rất tiếc”. Dụng ý mời một
vài nhà sư học trao đổi trong buổi kỷ niệm năm nay
chính vì chủ đề lịch sử lại đang nổi cộm lên trong
chuyện “tích hợp” môn lịch sử ngớ ngẩn và dại
dột của Bộ GD&ĐT.
Nhưng
đành vậy, “Dù sao cũng chẳng làm sao,
dẫu có thế nào
cũng chẳng làm chi” nhỡ ra có “chuyện làm sao” e cũng
cũng phiền hà. Nhà sử vốn cẩn trọng mà. Tôi nhớ đến
Trần Quốc Vượng, nhà sử học đáng kính, đã từng
viết : “nỗi ám ảnh của quá khứ”
vẫn không tha
người làm Sử như tôi… cứng đầu thì dại, “khôn
ngoan” nhất là “luồn cúi”
và trí thức “lớn” thì
cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời
phải
thế”….Ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì
“chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải
bạc nhược…Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều.
Song trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi
ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng”.
Có
lần vui chuyện nhân bàn về một số sự kiện lịch sử
vào dịp ông Sáu Dân giục Nguyễn Duy bay ra Thanh Hoá để
cố gắng thuyết phục lãnh đạo tỉnh hỗ trợ tích cực
cho các nhà sử học tổ chức Hội thảo khoa học về Nhà
Nguyễn, tôi kể cho ông về Trần Quốc Vượng và câu vừa
nói. Nét thích thú hiện rõ trong ánh mắt và miệng cười
của ông, tiện thể tôi nhắc đến câu "Chép
đúng
sự thật là chức phận người làm sử. Nếu làm trái
chức phận để sống thì thà chết còn hơn" của
người em thứ tư quan Thái sử nước Tề bên Tàu dưới
thanh gươm của Tể tướng Thôi Trữ vừa loang máu ba
người anh ruột của mình. Người chép sử trẻ tuổi đó
đã nhất quyết chép đúng chuyện xảy ra: “Thôi Trữ
giết vua”. Câu chuyện hình như đã làm ông Sáu Dân xúc
động. Tôi nhớ hôm ấy ông bảo tôi nhắc lại để ghi
vội vào sổ tay câu của Tư Mã Thiên: “Con
người đã
đội chậu làm sao còn nhìn được trời”.
Tiếc
là giá mà những người biết kỹ hơn tôi về vấn đề
ông Sáu Dân đặt ra với Phan Thanh Giản, rồi Hội thảo
về Nhà Nguyễn ở Thanh Hoá vừa nói… có mặt trong dịp
này để ôn lại thì thật có ý nghĩa. Vì thế mà tiếc.
Nhưng đành an ủi rằng câu chuyện “Thôi Trữ giết vua”
còn có một đoạn kết thật thâm thuý mà hôm ấy tôi
chưa kịp kể. Đoạn kết ấy khiến người ta tin rằng
không hề thiếu những người có bản lĩnh dám nói lên
sự thật. Đoạn đó như sau:
“Quí [tên người em thứ tư của Thái sử] cầm cái thẻ [bằng tre để chép chữ lên đấy] đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị. Quí hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói : Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày Ất Hợi, tháng 5, mùa hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép ”. Những người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sợ sự thật lịch sử bị vùi lấp đã “cầm thẻ đến để chép” như Nam Sử Thị đã là biểu tượng tuyệt vời của sứ mệnh được trao cho người chép sử.
Và đó
cũng là khát vọng về tính trung thực lịch sử được
trầm tích trong dòng chảy bất tận của cuộc sống con
người, cuộc sống đất nước. Trong miên man suy ngẫm vể
buổi kỷ niệm ngày sinh ông Sáu Dân trong căn phòng nhỏ
hẹp này, tôi nhớ đến ông, một con người đã đi vào
lịch sử như một trong những con người đẹp nhất đã
góp phần tô điểm cho truyền thống bất khuất, quật
cường của dân tộc, đã bằng trí tuệ mẫn tiệp và
bản lĩnh quyết đoán trong hành động là minh chứng của
lòng yêu nước rất sống động và cụ thể.
Nói
“lịch sử”, “đi vào lịch sử” cứ ngỡ như cao xa
vời vợi. Nhưng thật ra, những chuyện ông Sáu Dân đã
làm để góp phần nắn lại những nét cong của lịch sử
mà người chép sử, bình luận về lịch sử, do bản lĩnh
chưa xứng với thiên chức cao quý của họ, đã bị những
áp lực của bạo quyền đe doạ mạng sống đã bẻ cong
lịch sử. Có khi không là một mạng người, mà chỉ là
một chiếc ghế, một chức danh, một chỗ dựa cho con
cháu mà lịch sử dưới ngòi bút của họ đã bị xuyên
tạc đến thảm hại. Trong bài “Mênh mông thế sự”
tuần trước tôi đã dẫn ra lời ông Sáu Dân : “Cách
mạng tháng 8 năm 45 đánh đổ thực dân phong kiến là
chuyện tất yếu phải làm để giành lại độc lập cho
đất nước và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng rồi
theo trớn đó mà chửi phong kiến tùm lum thì vô tình đã
chửi cha ông mình chứ còn gì nữa! Thử hỏi các vua Trần
cùng Trần Hưng Đạo ba lần đánh tan quân Nguyên, Lê Lợi
cùng Nguyễn Trãi diệt quân Minh xâm lược và lên ngôi
vua thì đều là “phong kiến” cả chứ gì? Liệu có ai
dung túng cho chuyện xúc phạm đến ông cha? Thế mà cứ
thoải mái chửi phong kiến thì khoa học cái nỗi gì”?
Với
ông Sáu tôi hiểu sâu hơn điều tôi vẫn hay suy ngẫm về
một quá khứ gần và một quá khứ xa, ở những chừng
mức nào đó, đang hoà quyện vào nhau trong cuộc sống
hiện tại của mỗi đời người. Câu chuyện lịch sử,
nói về những điều xảy ra trong quá khứ nhưng lại đang
nóng hổi tính thời sự. Xin gợi ra một kỷ niệm:
Hôm
ấy, ngày 19.5.2008, tôi bay từ Sài Gòn ra, vừa xuống sân
bay Nội Bài lúc 10h30 thì nhận được điện thoại của
Trịnh bảo về thẳng nhà số 6 ở Hồ Tây, “chú
Sáu
đang chờ”. Vào phòng, thấy ông ngồi tựa trên ghế,
dáng hơi mệt mỏi. Nghe tôi vắn tắt nói về công việc
chuẩn bị để ông làm việc với một trí thức ở Mỹ
vừa sang muốn xin gặp. Dặn Trịnh ghi lại lịch làm
việc, rồi ông nói với tôi điều ông đang bức xúc “Tôi
vừa yêu cầu phải trả tự do ngay cho Chiến và Hải, hai
nhà báo ở “Thanh Niên” và “Tuổi Trẻ”, còn để
lâu ngày nào thì Trung Quốc mừng ngày ấy đấy”. Ông
còn nói rõ thêm một số chuyện nữa để dặn tôi nói
lại ngay với anh Việt Phương và mấy anh khác, tôi không
tiện viết ra ở đây. Ngày 20.5 ông tiếp hai trí thức
Việt kiều. Tối hôm 20.5, theo dự định, ông có bữa
“nhậu” với cánh văn nghệ sĩ và trí thức tại một
quán nhỏ giữa Hô Tây nhưng “may” mà không thực hiện
được. Nói “may” vì Nguyễn Duy người – chủ xị đầu
têu chuyện “nhậu” này – sau đó nói với tôi “không
thì oan Thị Kính đấy ông ạ, hôm sau bay về Sài Gòn là
ông Cụ nhập viện ngay, bọn mình hút chết cả nút nếu
có bữa “nhậu” ấy”. Quả đúng. 21.5 ông về lại
Sài Gòn thì ngã bệnh, rồi vào viện.
Nghĩ
đến chuyện đau buồn này, tôi rất ân hận và tự giày
vò mình mãi về câu tôi buột miệng nói ra khiến ông
đang mệt lại mệt thêm lên hôm 19.5 khi ông nhắc đến
tên một người, “Thì thưa anh, cũng là
từ trong ống
tay áo của anh chui ra đấy thôi. Đã bị ném vào sọt rác
rồi, anh lại móc lên đấy chứ”. Tôi thấy ông trầm
ngâm, ngả người tựa vào lưng ghế, im lặng. Định đứng
dậy ra ngoài để ông được yên tĩnh một lát nhưng ông
đưa tay ngăn lại.
“Câu
chuyện trên xe từ Cần Thơ về vẫn đang còn nóng hổi
đấy, có dịp anh nên viết ra”, ông chậm rãi nói. “Càng
hiểu sâu thêm những tiên lượng của anh Ba Duẩn về cái
đại hoạ này” ông trầm giọng như tự nói với chính
mình. Đó cũng là lý do của buổi về Cần Thơ dạo ấy
mà tôi đã có dịp nhắc đến.
Tôi
đã không viết nguyên văn “câu chuyện trên xe” vừa
nói. Nhưng chiều sâu ý tưởng của câu chuyện về âm
mưu và thủ đoạn thâm độc của chủ nghĩa bành trướng
Đại Hán được đề cập đến trong câu chuyện đã giục
giã những bài viết. Kết quả đến đâu tôi không thể
đo đếm được. Nhưng tôi đã làm hết sức mình. Quyết
liệt hướng ngòi bút vào chủ đề nhạy cảm đang chi
phối nặng nề cái não trạng đã đẩy tới những quyết
sách sai lầm liên quan đến vận mệnh của dân tộc, điều
mà ông Sáu Dân khi thì kín đáo, khi thì trực diện nhắc
nhở trong những dịp ông gặp chúng tôi.
Người
có sự nhạy bén chính trị đặc biệt ấy hiểu rất sâu
sắc những sự kiện lịch sử, trong khi một lịch sử
gần đây chạy nhanh về với chúng ta thì một lịch sử
xa xưa lại chạy đến với chúng ta bằng những bước
chân chậm rãi thì cả hai lại “đang hoà quyện vào nhau
trong cuộc sống hiện tại” 1
với những điều mà Võ Văn Kiệt đã sớm thấy ra và
tỉnh táo cảnh báo.
Nhiều
dự báo của ông về tiến trình hội nhập khu vực và
thế giới đang ngày càng trở thành hiện thực, đặc
biệt là sự kiện Myanmar. Và đó cũng là lý do khiến cho
điệp khúc. “Phải chi lúc này có ông
Sáu Dân” lại
giội lên trong tâm tư, tình cảm của những ai đang ưu tư
về vận nước. Nhưng rồi tôi nhớ một phát biểu chí
lý của Kim Hạnh trong một buổi tưởng niệm như thế
này cách nay đã mấy năm : “Tại sao
chúng ta lại cứ dồn
lên vai một ông già đã 86 tuổi phải tiếp tục gánh vác
trách nhiệm khi mà ông đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình để thanh thản ra đi ? Vậy còn chúng ta, chúng
ta phải làm gì để tiếp tục sự nghiệp của ông để
lại ?”
Đúng
vậy, chúng ta phải làm gì để không một lần nữa vuột
mất thời cơ mà Võ Văn Kiệt đã từng đón đợi ?
Tương Lai
1 Fernand Braudel : Tìm hiểu các nền văn minh, Nhà xuât bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1992, tr33.
Các thao tác trên Tài liệu