Bạn đang ở: Trang chủ / Việt Nam / Think tank của trí thức Việt Nam : Thực trạng & Giải pháp

Think tank của trí thức Việt Nam : Thực trạng & Giải pháp

- Chu Hảo — published 20/04/2015 10:30, cập nhật lần cuối 23/04/2015 11:11


Think tank của trí thức Việt Nam :
Thực trạng & Giải pháp


Chu Hảo


LTS. Thủ tướng Chính phủ vừa công bố quyết định (QĐ 501) thí điểm tổ chức "Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức" khi tham gia hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế – xã hội. Thực ra, đọc Quyết định 501 nói trên (từ đường dẫn đã đưa, hoặc ở tệp kèm - xem cuối bài), người ta dễ thấy đây chỉ là một cố gắng tuyệt vọng để mong có được một sinh hoạt năng động của giới trí thức theo Đảng. Bởi, không phải ai cũng có quyền tổ chức "Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức", mà như bản Quyết định ghi rõ (điều 3), chi có "Cơ quan, tổ chức được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ" mới được tổ chức (thí điểm) "Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp" này. Và từ đó, dĩ nhiên chỉ những tổ chức, cá nhân tham gia Diễn đàn này mới “được phát biểu công khai ý kiến của mình về các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế – xã hội; đề xuất các kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền”,  (như nhà báo Huy Đức đã chỉ ra trong bài trên Văn Việt mà chúng tôi đã giới thiệu trong mục Thấy trên mạng hôm qua). Thực ra, câu in đậm trên chưa nói lên được kích thước của cái gọi là "quyền phát biểu công khai" của những người tham gia các "Diễn đàn" này. Câu đó nằm trong điều 7, về "Quyền của Tổ chức, cá nhân tham gia Diễn đàn", sau khi điều 5, điểm 5 giao cho "đơn vị tổ chức Diễn đàn" quyền "công bố hoặc không công bố các nội dung, ý kiến tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các tổ chức, cá nhân tham gia Diễn đàn". Còn điều 8, nói về  "Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia Diễn đàn" thì nhắc lại, ở điểm 3, cho những người tham gia - nếu họ không đọc kỹ điều 5, điểm 5 nói trên - rằng họ "không được (...) đưa ý kiến cá nhân mang danh nghĩa Diễn đàn... khi chưa được phép của đơn vị tổ chức". Nghĩa là, cái "công khai" nói trên ở điều 7 chỉ là "công khai trong phòng họp" mà thôi. 

Có khác gì bao nhiêu so với việc "cấm phản biện công khai" của cái "Quyết định 97" khoá miệng trí thức phản biện, mà cũng chính đương kim thủ tướng đã đưa ra năm 2009 - quyết định dẫn tới việc "tự giải thể" của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, viện nghiên cứu độc lập duy nhất thời đó (thành lập năm 2007) ? (Có đấy, ở đây vì là những Diễn đàn được nhà nước thành lập nên có thêm củ cà-rốt nữa - những tài trợ mà các đơn vị tổ chức được quyền nhận, những "hợp đồng" mà họ được quyền ký kết với các cá nhân tham gia,  xem điều 5, nhưng đó là chuyện khác).

Có phải vì những tệ hại hiển nhiên mà QĐ 97 gây ra (sự "im lặng inh tai" của trí thức phản biện trên các kênh chính thống, trong khi internet vẫn rầm rì những phản biện ngoài lề mà nhiều khi nhà nước buộc phải tính tới), mà Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam đã được phép tổ chức một hội thảo vào đầu năm 2012 để xới lại vấn đề, tìm cách lập lại những "diễn đàn trí thức" - những "think tank" khác ? Sau khi QĐ 501 được công bố, chúng tôi nhận được từ giáo sư Chu Hảo bản tham luận của ông trong hội thảo này, kèm theo mấy chữ: "Sau đấy thì tôi không tham gia thảo luận gì thêm nữa, vì đoán chừng rằng kết quả nó sẽ ra cái sản phẩm như các anh thấy hiện nay". 

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tham luận này, dù (hay đúng hơn, chính vì) kết quả của hội thảo trong đó nó được trình bày chỉ là cái sản phẩm như ta thấy ! Những đòi hỏi dân chủ cơ bản (quyền tự do báo chí và xuất bản, tự do quyền lập hội...) ngày càng thêm thúc bách..., dĩ nhiên chẳng ai coi là sẽ được đáp ứng phần nào với sự thành lập các diễn đàn nhà nước kiểu QĐ 501.  


Trong bài tham luận này chúng tôi xin trình bày rõ ý kiến riêng về thực trạng cơ chế dân chủ trong sinh hoạt tinh thần của tầng lớp trí thức nước nhà và đề xuất các giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển các Think tank trong khi thực hiện vai trò tư vấn, giám sát, và phản biện xã hội.


I. Thực trạng cơ chế dân chủ ở nước ta


1. Khẩu hiệu “Trí, phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghe nói có từ thời Xô Viết Nghệ tĩnh, nhưng hình như không có văn bản nào chứng tỏ đó là chủ trương chính thức của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng 8, nhất là sau Đại hội lần thứ 2, nói chung khẩu hiệu này đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau, trừ một số trường hợp được chính phủ Cụ Hồ trọng dụng, nâng đỡ ngay từ đầu hoặc có hoàn cảnh đặc biệt mà cách mạng không thể bỏ qua. Cùng với thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chúng ta đã trả giá đến tận ngày nay cho thái độ kỳ thị của cách mạng đối với các tầng lớp trí thức, công thương gia và địa chủ.

Thái độ kỳ thị này cũng giống hệt như thái độ của những người cộng sản Nga từ sau cách mạng tháng 10 đối với tầng lớp trí thức của nước họ. Ngay sau cách mạng tháng 10, hàng ngàn gia đình trí thức Nga đã buộc phải lưu vong ra nước ngoài. Số còn lại hầu hết đã trở thành đối tượng của cách mạng và dần dần không còn tồn tại như một tầng lớp xã hội nữa: Số muốn giữ nhân cách trí thức thì bị đàn áp không những về mặt tư tưởng mà thậm chí bị tù tội ở các khu cải tạo; số khác tự đánh mất mình bằng thái độ “chùm chăn” hoặc cơ hội chính trị. Trong cuốn sách “Về trí thức Nga” (NXB Tri thức, 2010) các tác giả cũng phân tích khá sâu sắc sự hình thành về phẩm chất và thái độ chính trị của tầng lớp có học (mà có người gọi là “trí thức nửa mùa”) trong suốt thời kỳ Xô Viết cũ. Họ chỉ ra rằng nhà nước Xô Viết cũ đã thực hiện chính sách “cào bằng giá trị” và “đồng nhất xã hội” để không còn tồn tại tầng lớp tinh hoa – tầng lớp trí thức không đáng tin cậy dưới con mắt của tầng lớp lãnh đạo. Một số nhỏ cá nhân trí thức tiêu biểu đã chỉ được sử dụng như những bông hoa làm cảnh cho chế độ mà thôi!

Tình trạng này không khác mấy so với các biến cố đã xảy ra ở Trung Quốc đối với tầng lớp trí thức, nhất là trong cuộc cách mạng văn hoá hồi những năm 60 và cuộc vận động dân chủ hồi cuối những năm 80.

Tầng lớp trí thức ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu cũng như vậy, cũng hầu như tan rã sau những biến cố thăng trầm.

2. Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao tất cả các nước theo xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản đều có một kết cục như nhau đối với tầng lớp trí thức như vậy? Câu trả lời có thể là: Vì trong tất cả các nước ấy đã không thực sự có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Tình trạng đó đã bắt đầu từ khi Lê nin áp dụng nguyên tắc Tập trung Dân chủ trong Đảng Cộng sản Nga trước và sau cách mạng tháng 10 và trở thành truyền thống của các Đảng Cộng sản. Thay vì Dân chủ Tập trung, tức là trước hết phải thực hành Dân chủ, tôn trọng các ý kiến khác nhau kể cả khi tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưói phục tùng cấp trên v.v... các Đảng Cộng sản đã áp dụng nguyên tắc Tập trung là chủ yếu, Dân chủ chỉ là thêm vào. Sau khi nắm chính quyền, nguyên tắc Tập trung Dân chủ sai lầm này lại được áp dụng trong toàn bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội.

3. Cơ chế mất dân chủ này đã xiết chặt cái “vòng kim cô” mất lập trường giai cấp và chệch hướng XHCN lên toàn bộ sinh hoạt tinh thần – tư tưởng trong nội bộ Đảng và toàn xã hội ở tất cả các nước đã áp dụng mô hình chủ nghĩa theo kiểu Xô Viết.

Cơ chế dân chủ ấy với cái “vòng kim cô” ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước ta đặc biệt từ khi giải phóng miền Nam: Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng dân vẫn chưa quy tụ về một cõi, khối đại đoàn kết dân tộc không được như chúng ta mong muốn, nhiều khi không có sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề quan trọng của đất nước.

4. Tất cả những mặt tiêu cực nói trên đều xuất phát từ một nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội bộ Đảng, rồi từ đó trong toàn xã hội. Sự mất dân chủ này đã bắt đầu từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, sau chiến dịch Biên giới, khi tư tưởng Mao Trạch Đông, luẩn quẩn trong vòng đấu tranh giai cấp, tràn vào Việt Nam theo con đường chính thống, được một bộ phận chủ chốt của Đảng tiếp thu và áp dụng một cách rốt ráo cho đến tận trước Đại hội VI. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ và tự do tư tưởng đã được Đảng đề xướng (qua chủ trương “cởi trói” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh) và được toàn dân hân hoan đón nhận, nhất là tầng lớp “có học”, đặc biệt là giới văn nghệ sỹ “được cởi trói”. Nhưng tiếc rằng chỉ ít năm sau đó không khí dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng dần dần bị loãng hẳn đi cho đến trước Đại hội 10. Khi Đảng chủ trương lấy ý kiến của quần chúng đóng góp cho văn kiện Đại hội 10, bầu không khí dân chủ lại đuợc thổi vào một luồng sinh khí mới từ nhân dân. Tiếc rằng ngay sau Đại hội 10 cho đến nay, càng ngày càng có những biểu hiện đáng lo ngại về thực chất của nền dân chủ của chúng ta, về sự bóp nghẹt quyền tự do tư tưởng mà đã có một thời chúng ta định “cởi trói” cho nó.

5. Báo chí và xuất bản là mặt tiền, là thước đo của mỗi nền dân chủ. Chúng ta muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản dân chủ và công bằng. Sách và báo chí còn là vật mang, là phương tiện trường tồn của các nền văn hoá. Chúng ta muốn có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì một lần nữa, trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản tiên tiến và nhân bản. Những nhiệm vụ nặng nề ấy không phải của riêng ai mà của tất cả: Nhà nước, cộng đồng người viết và cộng đồng người đọc.

Tiếc rằng từ sau ĐH X của Đảng càng ngày lĩnh vực xuất bản và báo chí càng bị "siết chặt" hơn làm cho bầu không khí tinh thần của xã hội trở nên ngột ngạt hơn.

6. Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập các tổ chức KH&CN (sau đây gọi tắt là QĐ 97) là một dẫn chứng rất điển hình cho việc hạn chế dân chủ đối với trí thức trong các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định. Vì tính chất nghiêm túc của vấn đề, chúng tôi xin được trích dẫn ý kiến của Viện IDS về QĐ 97 trong phần II tiếp đây.


II. QĐ 97 là sự cản trở lớn đối với hoạt động tư vấn, phản biện và giám sát của trí thức.


Sau đây là tóm tắt ý kiến của Viện IDS (cũ, do 7 thành viên sáng lập gồm: Trần Việt Phương, Hoàng Tụy, Trần Đức Nguyên, Phan Huy Lê, Nguyễn Quang A, Phạm Chi Lan và Chu Hảo) về QĐ 97 trong Tuyên bố tự giải thể:

1. Điều 2 của Quyết định 97 không phù hợp với thực tế khách quan của cuộc sống.

Khoản 2, điều 2 trong quyết định này ghi: cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ.”

Như vậy khoản 2 của điều 2 bao gồm 2 điểm chính là

(1) các lĩnh vực được phép nghiên cứu quy định trong danh mục kèm theo Quyết định, và

(2) không được công bố công khai ý kiến phản biện với danh nghĩa của một tổ chức khoa học và công nghệ.


Về vấn đề danh mục các lĩnh vực được phép tổ chức nghiên cứu:


Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa biết đến, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những đòi hỏi mới, cần có các quyết sách mới và các giải pháp thích hợp. Vì vậy không thể bó khuôn mọi vấn đề được phép nghiên cứu trong cuộc sống vào một danh mục dù danh mục ấy có rộng đến đâu. Quy định như vậy sẽ bó tay các nhà khoa học, những người nghiên cứu độc lập, hạn chế sự đóng góp của họ vào việc xây dựng chính sách đổi mới và phát triển đất nước.

Trong khi đó, công văn ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (thừa uỷ quyền của Thủ tướng trả lời thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng) cho rằng cách quy định một danh mục các lĩnh vực cho phép cá nhân được thành lập tổ chức nghiên cứu là thông lệ ở nhiều nước trên thế giới, có nước quy định một danh mục cho phép, có nước quy định một danh mục cấm, hoặc cả hai. Chúng tôi đã tìm hiểu kỹ thì chưa thấy nước nào có quy định danh mục các lĩnh vực được phép nghiên cứu khoa học. Vì vậy cách trả lời trong công văn của Bộ Tư pháp là không trung thực, thiếu trách nhiệm. Cho đến nay, trên thế giới, việc phân loại các lĩnh vực khoa học là để thống kê, so sánh, không thể lấy đó làm căn cứ để quy định các lĩnh vực được phép nghiên cứu. Cách làm như Quyết định 97 sẽ bị dư luận chê cười, làm hại uy tín của lãnh đạo và của đất nước.


Về vấn đề phản biện:


Quá trình đi lên của đất nước chưa có con đường vạch sẵn, cuộc sống có vô vàn vấn đề thuộc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phản biện để có thể xử lý đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều ý kiến phản biện về đường lối chính sách bị cất hầu như không có thời hạn trong các “ngăn kéo” của các cơ quan chức năng hoặc của những người có thẩm quyền có liên quan. Có quá nhiều phản biện dưới mọi dạng như kiến nghị, đề nghị, thư, tài liệu nghiên cứu… không bao giờ được hồi âm.

Ví dụ nổi bật nhất là cải cách giáo dục – một vấn đề sống còn của sự phát triển đất nước, một yêu cầu bức xúc của xã hội đang được dư luận và giới nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm, phản biện công khai sôi nổi từ nhiều năm nay nhằm thực hiện những nghị quyết của Đại hội Đảng và các Hội nghị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục. Tuy vậy, sự phản biện này chưa được đánh giá và tiếp thu nghiêm túc.

Trong tình hình nêu trên, cấm các tổ chức khoa học công nghệ do các cá nhân thành lập phản biện công khai như nêu trong Quyết định 97 thực chất là cấm phản biện xã hội, hệ quả sẽ khôn lường.

Khoản 2 trong điều 2 của Quyết định 97 không viết thành văn nhưng hàm ý để ngỏ khả năng: cá nhân được phép phản biện công khai với tư cách riêng của mình. Như vậy, sẽ không thể giải thích:

(a) Tại sao cá nhân thì được phản biện công khai, còn tổ chức, tức trí tuệ tập thể và liên ngành được tập họp để có thể có chất lượng cao hơn, thì lại không? Quy định chỉ cho phép cá nhân phản biện công khai tạo thuận tiện cho việc vô hiệu hoá hay hình sự hoá việc phản biện của cá nhân? Phải chăng quy định như vậy ngay từ đầu đã mang tính chất không khuyến khích phản biện, mà có hàm ý làm nản lòng thậm chí hăm doạ sự phản biện của cá nhân.

(b) Tại sao trong nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một văn bản pháp quy có tầm quan trọng như vậy lại có thể được thiết kế như một cái bẫy và để ngỏ khả năng cho việc vận dụng cái bẫy đó?

2. Việc cấm phản biện công khai là phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ.

- Cấm như vậy là phản khoa học, bởi lẽ: Bất kể một phản biện nào nếu không chịu sự “sát hạch” công khai, minh bạch trong công luận, sẽ khó xác định phản biện ấy là đúng hay sai, độ tin cậy của nó, sự đóng góp hay tác hại nó có thể gây ra, khó lường được các khả năng sử dụng hoặc lợi dụng việc phản biện này.

- Cấm như vậy là phản tiến bộ, bởi lẽ: Người dân sẽ không biết đến các phản biện đã được đề xuất hay các vấn đề đang cần phải phản biện, càng không thể biết chất lượng và tác dụng của những phản biện ấy, không biết nó sẽ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, tiếp thu hay xử lý như thế nào. Phản biện và tiếp thu phản biện không công khai sẽ không thể tranh thủ được sự đóng góp xây dựng từ trí tuệ trong và ngoài nước, hạn chế khả năng sáng tạo tìm ra con đường tối ưu cho sự phát triển đất nước và vứt bỏ lợi thế của nước đi sau. Trên hết cả, cấm như vậy là cản trở việc nâng cao trí tuệ và bản lĩnh của người dân, cản trở vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Cấm như vậy chẳng khác nào biểu hiện chính sách ngu dân.

- Cấm như vậy là phản dân chủ, bởi lẽ: Nhân dân – người chủ của đất nước - sẽ thiếu những thông tin để tự mình tìm hiểu, đánh giá mọi vấn đề có liên quan của đất nước mà họ không thể không quan tâm. Cấm như vậy là tước bỏ hay làm giảm sút khả năng của nhân dân giám sát, kiểm tra, đánh giá hay đóng góp xây dựng, hình thành và nói lên các ý kiến của họ, tán thành hay bác bỏ một chủ trương nào đó; trên thực tế là cấm hay ngăn cản quyền của nhân dân tham gia vào công việc của đất nước.


3. Quyết định 97 có nhiều điểm trái với đường lối của Đảng và phạm pháp luật của Nhà nước.

- Trước hết, đối với Hiến pháp, điều 2 trong Quyết định 97 vi phạm Điều 53 quy định công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; Điều 60 quy định công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng tác; Điều 69 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

- Đối với Luật Khoa học và công nghệ, điều 2 Quyết định 97 không phù hợp với tinh thần của Luật này coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, khuyến khích sự tham gia nghiên cứu của các tổ chức và cá nhân, Nhà nước đảm bảo và hỗ trợ sự thực hiện những kết quả nghiên cứu, khuyến khích các hội khoa học và công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ… v.v.

- Đặc biệt quan trọng là Quyết định 97 có nhiều điểm trái với tinh thần và nội dung Nghị quyết số 27 - NQ/T.Ư "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" mới được ban hành tháng 10-2008. Nghị quyết này nhấn mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


III. Quán điểm và định hướng tổ chức Think tank của trí thức


1. Quan điểm và định hướng chung


a. Trong quan điểm và định hướng chung nhất thiết chúng ta phải khẳng định rằng: Dân chủ không phải là sản phẩm chỉ của phương Tây (dù là Hy lạp cổ đại hay Tây Âu và Bắc Mỹ hiện đại) mà là sản phẩm của cả nhân loại, trong đó có phương Đông. Phật giáo hết sức đề cao Đối thoại và khoan dung- cốt lõi sâu xa của Dân chủ. Dân chủ là một chế độ, trong đó mọi công dân thực có quyền được nhận xét, phê phán và chất vấn trực tiếp các cấp lãnh đạo (ở nước ta là của Đảng và của Nhà nước). Đúng như lời của Nelson Mandela nói: “Bất cứ ai muốn phát biểu có thể được nói. Đó là Dân chủ trong hình thức thuần tuý nhất. Có thể không tránh khỏi tình trạng đẳng cấp giữa vị trí quan trọng của người này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ hay dân thường, tướng tá hay thày thuốc, buôn bán hay nông dân, đại chủ hay tá điền, người nào cũng được nói... chính đó là nền tảng của Dân chủ: Tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như là công dân ”

b. Nội hàm công thức “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” phải được hiểu như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay cũng vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đằng làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo quyền Dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do Dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”

c. Xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh là điều kiện quan trọng để phát huy năng lực tư vấn, phản biện và giám sát của trí thức. Trong điều kiện chế độ chính trị có một Đảng lãnh đạo, những khiếm khuyết do chế độ toàn trị gây ra có thể được khắc phục, điều chỉnh một cách hữu hiệu bằng xã hội dân sự. Xã hội dân sự lành mạnh là đối trọng, chứ không phải là đối lập với Nhà nước. Trước mắt phải xây dựng được một Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp và quần chúng là thành phần quan trọng nhất của xã hội dân sự. Quyền tự do thành lập Hội được ghi trong Hiến pháp phải được thể hiện đầy đủ trong Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp là môi trường tự nhiên cho trí thức liên kết với nhau thông qua diễn đàn thảo luận và giao lưu tư tưởng.

d. Quyền tự do ngôn luận của công dân được thực sự tôn trọng và thực thi là điều kiện thiết yếu đối với bất kể hình thức diễn đàn nào của trí thức. Tự do ngôn luận là quyền được bình đẳng phát biểu công khai ý kiến của mỗi công dân như được ghi trong Hiến pháp của nước ta và tại Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982.


2. Quan điểm và định hướng cụ thể về tổ chức Think tank


a. Think tank phải là một hình thức hoạt động tinh thần mới của trí thức, không trùng lặp với các hình thức đang tồn tại. Mới ở tính chuyên nghiệp cao và tính khoa học nghiêm túc như kiểu như các Think tank theo thông lệ quốc tế. Đấy là các tổ chức (chủ yếu là tư nhân) tự nguyện của một tập thể chuyên gia giỏi trong một số lĩnh vực có kiên quan; hoạt động (chủ yếu là bất vụ lợi) tư vấn, phản biện và giám định độc lập, phục vụ cộng đồng (kể cả chính phủ) về chủ trương chính sách và dự án phát triển kinh tế-xã hội.

b. Cần phải có các quy định khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kiểu “Think tank” được dễ dàng thành lập và hoạt động trong tinh thần tự do học thuật, chứ không phải nhằm “quản chặt hơn”, “siết chặt hơn” những ý kiến bị coi là “trái chiều”.

IV. Giải pháp tổ chức Think tank của trí thức


1. Giải pháp tổng quát và lâu dài


a. Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là phải vận động, thuyết phục thay đối tư duy (trong các chính sách cụ thể, chứ không dừng lại trên các khẩu hiệu chính trị ở các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước) về vị trí, vai trò của trí thức và tầng lớp trí thức trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định.

b. Giải pháp tiếp theo là trong khi thực hiện NQ TƯ 7 khoá X và Chỉ thị 42 của BCT phải hết sức tránh xu hướng “hành chính hoá” và “chính trị hoá” các đoàn thể có thể hoạt động dưới hình thức các tổ chức phi chính phủ (NGO) như LHH KH&KT và LHH VH&NT…

c. Song song với việc tạo dựng các Think tank, cần tiếp tục phát huy, cải tiến các hình thức diễn đàn khác đang tồn tại, để hoạt động tư vấn, phản biện, giám định của trí thức thực chất hơn, hiệu quả hơn.



2. Giải pháp cụ thể cho việc tổ chức Thinh tank


a. Kiến nghị Chính phủ huỷ QĐ 97. Đây là công việc khó khăn nhưng buộc phải làm, nếu không Đề án này không có ý nghĩa thực sự nào, chỉ tốn thời gian và công sức. Vấn đề này cần phải được đưa ra thảo luận công khai giữa các nhà khoa học và hoạt động xã hội tự coi mình là trí thức hoặc tầng lớp trí thức. Có thể coi đây là bước đầu một thời kỳ mới với việc hình thành các Diễn đàn khoa học.

b. Nghiên cứu kỹ sự hình thành, hoạt động và tự giải thể của Viện IDS (cũ) để rút kinh nghiêm trong việc tổ chức các Diễn đàn khoa học theo kiểu “Think tank”. Viện IDS đã tuyên bố tự giải thể để biểu thị thái độ dứt khoát đối với QĐ 97, nhưng nếu QĐ 97 được dỡ bỏ thì có nhiều Viện tương tự sẽ ra đời, và đó chính là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Quy chế vế Tổ chức và Hoạt động của Think tank.

c. Tiến hành khảo sát thực tế Diễn đàn Lý luận Phát triển. Diễn đàn này do ông Nguyễn Văn An (nguyên chủ tịch Quốc hội) chủ trì, nằm trong khuôn khổ của Viện những vấn đề Phát triển (Viện VIDS) thuộc LH các Hội KH&KTVN do ông Thang Văn Phúc (nguyên thứ trưởng Bộ Nội Vụ) làm Viện trưởng. Đây là một hình thức Diễn đàn “chính thống”, thảo luận mọi vấn đề “ không có vùng cấm” trong không khí dân chủ và thẳng thắn; tiếc rằng chỉ bó hẹp trong nội bộ và ý kiến của Diễn đàn chỉ “gửi lên cấp trên” chứ không công bố rộng rãi. Thành viên của Diễn đàn hiện nay hầu hết là các cán bộ của Đảng và Nhà nước đã về hưu như: Phan Diễn, Đặng Hữu, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đình Lộc, Mai Liêm Trực, Bùi Đức Lại, Nguyễn Vi Khải, Vũ Quốc Tuấn, Chu Hảo v.v…). Đây có thể cũng sẽ là đối tượng điều chỉnh của Quy chế đang được nghiên cứu xây dựng.


Chu Hảo

Hà nội, 3 tháng3 năm 2012

Attachments

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us