Về bài thơ của Trịnh Hoài Đức...
Về bài thơ của Trịnh
Hoài Đức
tặng Hòa thượng Viên
Quang
Cao Tự Thanh
Là một Tổ đình
nổi tiếng của Phật giáo ở đồng
bằng Nam Bộ từ thời Đàng Trong,
chùa Giác Lâm cũng là một địa
điểm bước vào lịch sử phát
triển văn hoá của cộng đồng
Việt Nam ở địa phương từ rất
sớm. Trên phương diện văn chương,
ngôi chùa này còn là nơi chứng
kiến sự ra đời đồng thời là
nơi lưu giữ bài thơ ngũ ngôn
cổ phong tặng Hòa thượng Viên
Quang bằng chữ Hán của Trịnh Hoài
Đức, bài thơ không thấy có
trong tập Cấn
Trai thi tập được
chính ông cho khắc in năm 1819 nhưng lại
là một tác phẩm đặc sắc
của nhà thơ vẫn được coi như
người đứng đầu nhóm Gia Định
tam gia.
Chín mươi năm sau khi Cấn Trai thi tập được ấn hành, bài thơ nói trên mới bắt đầu được phổ biến với bản sao của Nguyễn Liên Phong có kèm theo mấy dòng “tiểu dẫn” :

Chùa Giác Lâm (ảnh Phan Ba)
Giác Lâm chùa tổ sơ
khai,
Tục kêu Cẩm
Đệm
lâu dài thạnh sung.
Thuở xưa
Hoài Đức
Trịnh công,
Viên Quang
Hoà thượng
cũng đồng bạn chơi.
Kẻ Vương
người Phật
theo đời.
Khi sau hội
ngộ có lời
tặng ngôn.
Một bài cổ
điệu
ngũ ngôn,
Trịnh công
thủ bút
thuyền môn rõ ràng (1)
Sau đoạn giới thiệu
trên, Nguyễn Liên Phong đã chép
lại nguyên văn chữ Hán của bài
thơ với hàng mở đầu “Ngũ
ngôn cổ diệu thi vân”, kế tới
bài thơ gồm 22 câu 5 chữ, cuối
cùng là hàng lạc khoản “ Khâm
sai Lại bộ Thượng thư hành Gia
Định thành Hiệp Tổng trấn sự
An Toàn hầu Trịnh Cấn Trai đề ”.
Chưa biết “ thủ bút của
Trịnh Hoài Đức ở chùa Giác
Lâm là viết trên giấy, trên vải
hay trực tiếp trên tường, song chắc
chắn là đến đầu thế kỷ
XX thì nó vẫn còn để Nguyễn
Liên Phong có thể trực tiếp sao chép
và mô tả. Và tuy hiện nay bản
gốc của bài thơ đã không
còn nữa, nhưng chắc chắn Nguyễn
Liên Phong không phải là người
duy nhất lúc ấy được đọc
nó từ chính thủ bản của Trịnh
Hoài Đức, nên mức độ chính
xác của văn bản mà ông giới
thiệu năm 1909 là một vấn đề
không cần phải đặt ra. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng Nguyễn Liên Phong
không hề nhắc tới nhan đề chính
thức của bài thơ nói trên, nên
những tên gọi loại như Tặng ngôn,
Tặng Viên Quang Đại Lão Hòa
thượng... mà một số người
trước nay vẫn gán cho nó cho dù
có ít nhiều hợp lý cũng không
hề có cơ sở về mặt văn bản.
Dĩ nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là nội dung bài thơ. Mặc dù chỉ là lời “tặng ngôn” giữa hai người bạn xa cách lâu ngày tình cờ gặp lại, đây không phải là một bài thơ thù tạc hay kỷ niệm thông thường. Vì nó là của một bậc danh nho tặng cho một vị cao tăng, và hơn thế nữa, còn là một tặng phẩm được cả người nhận lẫn giới tăng nhân trân trọng. Không phải ngẫu nhiên mà trải qua hàng trăm năm với mấy phen binh lửa, chùa Giác Lâm vẫn còn giữ được thủ bản của bài thơ này đến tận đầu thế kỷ XX. Và có thể nói rằng đây là một trong những bài thơ thiền hiếm hoi nếu không phải là duy nhất của Trịnh Hoài Đức, một bài thơ mà ý nghĩa nội dung và hình thức chưa được truyền đạt một cách chính xác và trọn vẹn tới người đọc (phần lớn không nắm vững chữ Hán) qua một số bản dịch hiện hành. Chỉ nói về câu chữ, bài thơ này ít ra cũng cần được hiểu như sau :
憶昔太平時
鹿洞方盛美
釋迦教興崇
林外祖富貴
我爲燒香僮
師作持戒士
雖外分青黄
若默契心志
風塵識良朋
世界 入餓鬼
萍 梗 任浮沈
泡影等生死
奄四 十餘年
恍瞬息間事
西郊適閒行
山門偶相値
我協辨鎮公
師大和尚位
執手擬夢魂
談心雜驚悸
往事何足論
大道合如是
Ức tích thái bình thì,
Lộc Động phương thịnh mỹ
Thích Ca giáo hưng sùng
Lâm ngoại tổ phú quý
Ngã vi thiêu hương đồng
Sư tác trì giới sĩ
Tuy ngoại phân thanh hoàng
Nhược mặc khế tâm chí
Phong trần thức lương bằng
Thế giới nhập ngạ quỷ
Bình ngạnh nhiệm phù trầm
Bào ảnh đẳng sinh tử
Yểm tứ thập dư niên
Hoảng thuấn tức gian sự
Tây giao thích nhàn hành
Sơn môn ngẫu tương trị
Ngã Hiệp biện trấn công
Sư Đại hòa thượng vị
Chấp thủ nghĩ mộng hồn
Đàm tâm tạp kinh quý
Vãng sự hà túc luân (luận)
Đại đạo hợp như thị
Nhớ thuở thái bình xưa
Đồng Nai vừa thịnh mỹ
Đạo Thích được tôn sùng
Nhà ngoại còn phú quý
Ta làm trẻ dâng hương
Sư là người giữ giới
Áo tuy chia xanh vàng
Lòng vẫn chung ý khí
Bạn giỏi xót phong trần
Quỷ đói ngập thế giới
Bọt nước chuyện mất còn
Bèo hoang phận chìm nổi
Trải hơn bốn mươi năm
Mà như không mấy đổi
Đồng tây rảnh dạo quanh
Cửa núi chợt gặp lại
Ta Hiệp trấn thành này
Sư Hoà thượng ngôi ấy
Cầm tay tựa mơ mòng
Mở lòng còn run rẩy
Chuyện xưa nói làm gì
Đạo lớn thảy như vậy
Mở đầu với câu
“ Nhớ thuở thái bình xưa
”,
Trịnh Hoài Đức đã theo hoài
niệm trở về dĩ vãng, từ tình
bạn thuở thiếu thời với Hoà
thượng Viên Quang tới cuộc nội
chiến thế kỷ XVIII ở Việt Nam trong đó
ông vừa là kẻ chứng nhân vừa
là người tham dự. Đáng chú
ý là cuộc nội chiến ấy lại
được ông nhìn cùng lúc
bằng con mắt của cả người xuất
gia lẫn người nhập thế - dường
như ông luôn đưa Hoà thượng
Viên Quang đi cùng mình suốt mấy
mươi năm loạn lạc, và người
bạn tu hành trong tâm tưởng dường
như đã đưa ông vào tâm
thức Thiền môn... Số phận con người
trong chiến tranh là như bọt nước,
như cái bóng, còn sự tàn khốc
trong cuộc chiến mang bóng hình ngạ
quỷ, biểu trưng của nhà Phật về
cái ác ở trần gian. Chỉ trong bốn
câu “ Bạn giỏi xót
phong trần...
Bèo hoang phận chìm nổi ” mà
thế giới thanh bình ngày cũ đã
tan tành, và bằng cách thức của
mình, cả nhà nho lẫn nhà sư ở
đây đều cùng phải lên đường
để đi theo lý tưởng mà mỗi
người đã chọn. Nhưng tác giả
là một con người hành động,
nên ánh hồi quang dĩ vãng được
nhìn qua lăng kính nhà Phật kia chỉ
vừa đủ cho người ta chán ghét
cái ác chứ không gây ra sự chán
ngán cuộc đời. Cho nên, một cách
tự nhiên, Trịnh Hoài Đức đã
bày tỏ sự quý mến chân thành
với người bạn cũ. Đối với
ông, việc Hoà thượng Viên Quang
đi tu cũng là đi theo một lý
tưởng, xuất gia là hành động
chứ không phải tu hành chờ giải
thoát. Khác với Lương Hiểu Khánh
trong bài thơ “ Một bầu
kinh sử,
níp Kim Cương ” đề cao nhưng
vẫn chia tách đôi đường Nho
Thích, với cách nhìn “
nhất thị
đồng nhân ” ấy, Trịnh Hoài
Đức đã tỏ ra là một người
thực sự nắm vững yếu chỉ Thiền
môn.
Đặc biệt, cần nhấn
mạnh đến sự đăng đối
không chỉ mang ý nghĩa hình thức
trong ngôn từ của bài thơ. Dễ
nhận ra rằng những câu đối nhau
như “ Ta làm trẻ dâng
hương -
Sư là người giữ giới ”, “ Bọt
nước chuyện mất còn - Bèo hoang
phận chìm nổi ”, “ Ta
Hiệp trấn
thành này - Sư Hoà thượng ngôi
ấy ”... kéo dài suốt bài thơ
không phải chỉ được Trịnh
Hoài Đức viết ra theo tập quán
thẩm mỹ đơn thuần, mà còn
được ông gia công một cách
có dụng ý. Cái thế đăng
đối về chữ nghĩa ở đây
còn góp phần biểu hiện cả sự
phân biệt đạo - đời, Nho - Thích,
và ngay cả những câu như “ Áo
tuy chia xanh vàng - Lòng vẫn chung ý khí ”
cũng hàm chứa một sự phân biệt
thân - tâm. Song với bốn câu cuối
thì những ranh giới dĩ vãng - hiện
tại, kẻ xuất gia - người xuất
sĩ... kia đã nhạt nhoà trong một
tâm thế khác. Bạn cũ gặp nhau,
cầm tay rồi mà còn ngỡ như trong
mơ, tình nặng lắm. Nhưng ngay đến
lời vô ngôn (đàm tâm) cũng
không muốn nói. Vì tình là
tình thế nhân, mà tâm là tâm
đạt sĩ. Cần gì phải nói khi
mà theo con đường mình chọn ngày
xưa, cả hai người đều đã
đạt ? Hai tấm lòng “
chung ý khí ”
ngày xưa giờ cũng chỉ còn là
sắc tướng. Ở đây, không mở
lời chính là phá chấp. Mở lời,
dù là lời vô ngôn, cũng là
còn vọng tưởng lấy đạo sánh
đạo, tách đạo khỏi đời.
Đạo lớn thảy như vậy, là
vượt khỏi những hiện tướng
nhất thời thì đều vào hoá
cảnh ở đó dường như tất
cả đều vừa bất trụ thường
hoại vừa vô sinh vô diệt. Đạo
lớn thảy như vậy, là đều
phải sinh hoá theo cái đạo của
dòng đời vô cùng vô tận,
là vạn pháp quy tông, vạn tông
quy nguyên...
Từ một khía cạnh khác, cũng có thể nhận thấy nét độc đáo của bài thơ này trong thơ chữ Hán của Trịnh Hoài Đức. Tình thương nhớ bạn bè đan xen với ký ức về quãng đời hơn bốn mươi năm dồn lại tại một hiện điểm của tâm thế và thời gian đã phá tung tất cả các khuôn mẫu tư duy và cảm xúc quen thuộc nơi ông, buộc ông phải nhận thức nó bằng một thao tác xử lý nhân sinh - nghệ thuật khác hơn, và vì vậy đã đưa ông tới một sát na đốn ngộ. Chính yêu cầu ghi nhận lại chính xác và trọn vẹn cái sát na đặc biệt ấy khiến Trịnh Hoài Đức tìm tới một cách thức đặc biệt cần được người đọc ghi nhận : trong 327 bài thơ chữ Hán in trong Cấn Trai thi tập chỉ có một bài gởi Thượng thư bộ Binh Nguyễn Đăng Hựu về trí sĩ (bài cuối cùng trong quyển Cấn Trai Khả dĩ tập) là viết theo thể ngũ ngôn cổ phong.
CAO TỰ THANH
Tháng 3. 1992
nguồn : bản do tác giả gửi,
đã đăng trên Tập văn Phật đản, số 23, 1992
(1) Nam
Kỳ phong tục nhơn vật
diễn ca, Phát Toán, Sài Gòn, 1909,
quyển I, tr. 28 (nguyên văn chữ Hán).
Các thao tác trên Tài liệu